Những ðặc trưng của văn học dân gian việt nam
I. KHÁI NIỆM VĂN HỌC DÂN GIAN :
1. Văn học dân gian là gì ?
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các
tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát
triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.
Ở Việt Nam, 3 thuật ngữ sau đây được xem là tương đương :
Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân
dân, folklore ngôn từ ( folkore văn học ).
Một số khái niệm xuất hiện trước những năm năm mươi như văn
học (văn chương) bình dân , văn học (văn chương) truyền khẩu
(truyền miệng),văn học (văn chương) đại chúng. Những khái
niệm nầy nay không dùng nữa.
2.Về khái niệm folklore :
Thuật ngữ folklore do nhà nhân chủng học người Anh, ông
William Thoms dùng trong bài báo đăng trên tờ Athenaeum, ngày
22/8/1846, với ý nghĩa là những di tích của nền văn hóa vật chất
và chủ yếu là di tích của nền văn hoá tinh thần như phong tục ,
đạo đức, tín ngưỡng , những baì dân ca, những câu chuyện kể
của cộng đồng. Sau khi xuất hiện, thuật ngữ nầy được hiểu với
ngiều nghĩa rộng hẹp khác nhau, liên quan tới đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này được dịch là văn hóa dân gian với
những ý nghĩa sau :
a.Nghĩa rộng : bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do
dân chúng sáng tạo (folk culture). Theo cách hiểu nầy, văn hoá
dân gian là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, kể
cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đồng thời nó cũng là đối
tượng nghiên cứu của văn hoá học
b.Nghĩa hẹp : Những sáng tạo của dân chúng mang tính nghệ
thuật Theo nghĩa hẹp, văn hóa dân gian gồm ba thành tố : Nghệ
thuật ngữ văn dân gian (tức văn học dân gian), nghệ thuật tạo
hình dân gian , nghệ thuật diễn xướng dân gian.
c.Nghĩa chuyên biệt : folklore là văn học dân gian, theo đó tác
phẩm folklore là hình thức ngôn từ gắn với nhạc, vũ, kịch do tập
thể dân chúng sáng tác.Cũng có thể dùng thuật ngữ folklore văn
học để chỉ văn học dân gian đồng thời phân biệt nó với các đối
tượng khác cũng thuộc phạm trù folklore - văn hoá văn dân gian .
II.ÐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN :
1.Tính nguyên hợp của văn học dân gian :
- Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở sựû hòa lẫn
những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại
của nó. Có thể nói rằng, văn học dân gian là bộ bách khoa toàn
thư của nhân dân. Tính nguyên hợp về nôi dung của văn học dân
gian phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý thức xã hôi thời
nguyên thuỷ, khi mà các lãình vực sản xuất tinh thần chưa được
chuyên môn hoá. Trong các xã hội thời kỳ sau, mặc dù các lãnh
vực sản xuất tinh thần đã có sự chuyên môn hoá nhưng văn học
dân gian vẫn còn mang tính nguyên hợp về nội dung . Bởi vì đại
bộ phận nhân dân , tác giả văn học dân gian , không có điều kiện
tham gia vào các lãnh vực sản xuất tinh thần khác nên họ thể
hiện những kinh nghiệm , tri thức , tư tưởng tình cảm của mình
trong văn học dân gian , một loại nghệ thuật không chuyên.
-Về loại hình nghệ thuật : Tính nguyên hợp của văn học dân gian
biểu hiện ở chỗ : Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn
từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật
khác nhau. Sự kết hợp này là tự nhiên, vốn có ngay từ khi tác
phẩm mới hình thành. Một baì dân ca trong đời sống thực của nó
, không chỉ có lời mà còn có nhạc, điệu bộ, lề lối hát
- Biểu hiện cụ thể của tính nguyên hợp là tính biểu diễn. Văn học
dân gian có ba dạng tồn taị: tồn tại ẩn (tồn tại trong trí nhớ của
tác giả dân gian) , tồn taị cố định ( tồn taị bằng văn tự ), tồn taị
hiện ( tồn taị thông qua diễn xướng). Tồn taị bằng diễn xướng là
dạng tồn taị đích thực của văn học dân gian . Tuy nhiên ,không
thể phủ nhận hai dạng tồn tại kia; bởi vì như vậy sẽ dẫn tới phủ
nhận khoa học về văn học dân gian và công việc giảng dạy văn
học dân gian trong nhà trường. Trở lại vấn đề,chính trong biểu
diễn , các phương tiện nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian
mới có điều kiện kết hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ tổng
hợp. Sự kết hợp nầy một mặt là biểu hiện của tính nguyên hợp,
một mặt là lẽ tồn taị của tính nguyên hợp.
2.Tính tập thể của văn học dân gian :
Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất
cả nhân dân đều là tác giả của văn học dân gian. Cần chú ý vai
trò của cá nhân và quan hệ giữa cá nhân với tập thể trong quá
trình sáng tác, biểu diễn, thưởng thức tác phẩm văn học dân
gian.
Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
Vấn đề quan trọng ở chỗ nó được mọi người biểu diễn, thưởng
thức hay không, nó đã đạt mức thành tựu hay không. Trong quá
trình đó, tập thể nhân dân tham gia vào công việc đồng sáng tạo
tác phẩm
Quan hệ giữa truyền thống và ứng tác là hệ quả của mối quan hệ
giữa các nhân và tập thể. Truyền thống văn học dân gian một mặt
là cái vốngiùp nghệ nhân dân gian ứng tác( sáng tác một cách
chớp nhoáng mà không có sự chuẩn bị trước) dễ dàng, một mặt
qui định khuôn khổ cho việc sáng tác. Ứng tác đến lượt nó sẽ
cung cấp những đơn vị làm giàu cho truyền thống
- Hai đặc trưng cơ bản vừa nêu trên có liên quan chặt chẽ với các
đặc trưng khác của văn học dân gian như : tính khả biến ( gắn
với việc tồn tại các dị bản của tác phẩm ) , tính truyền miệng , tính
vô danh .
3.Văn học dân gian - một loại nghệ thuật gắn liền với sinh
hoạt của nhân dân :
Văn học dân gian nảy sinh và tồn tại như một bộ phận hợp thành
của sinh hoạt nhân dân. Sinh hoạt nhân dân là môi trường sống
của tác phẩm văn học dân gian. Tác phẩm văn học dân gian có
tính ích dụng .Baì hát ru gắn với việc ru con ngủ- một hình thức
sinh hoạt gia đình; Ngược lại, việc đưa con ngủ thường không
thể thiếu lời ru. Tương tự, những bài dân ca nghi lễ, các truyền
thuyết gắn với tín ngưỡng, lễ hội Từ đặc trưng nầy mà văn học
dân gian có tính đa chức năng , trong đó, đặc biệt là chức năng
thực hành sinh hoạt
III.VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC THÀNH VĂN :
1.Văn học dân gian và văn học thành văn ( văn học viết )
Ðiểm chung : Văn học dân gian và văn học viết cùng là loại hình
nghệ thuật ngôn từ. Từ điểm chung nầy mà khoa học về văn học
dân gian có thể sử dụng những nguyên tắc và phương pháp
nghiên cứu văn học để nghiên cứu văn học dân gian ở một mức
độ nào đó. Chẳng hạn, có thể miêu tả các thành phần của tác
phẩm như cốt truyện, nhân vật, cấu trúc
Những đặc trưng loại biệt của văn học dân gian so với văn học
viết :
+ Văn học dân gian là sáng tác tập thể. (văn học viết là sáng tác
của cá nhân)
+ Văn học dân gian chỉ tồn tại thực tế khi diễn xướng nên có khả
năng biến đổi, do vậy, nó có các dị bản. (văn học viết cố định
trong văn bản và chỉ có một bản duy nhất)
+ Văn học dân gian là thành phần hữu cơ của các hình thức sinh
hoạt của nhân dân.
2.Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết :
Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của
nền văn học dân tộc.Khi chưa có chữ viết, nền văn học dân tộc
chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học nầy bao
gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết
Văn học viết chịu ảnh hưởng văn học dân gian về nhiều phương
diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật.Ví dụ:
Truyền thuyết Thánh Gióngđã mở đầu cho dòng văn học yêu
nước, chống xâm lược trong nền văn học dân tộc. Thể thơ lục
bát, thể thơ được thi hào Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình,
bắt nguồn từ bộ phận văn vần dân gian
Văn học viết cũng có ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian
trên một số phương diện . Chẳng hạn , tác giả dân gian đã đưa
những chất liệu văn học viết vào ca dao ( những nhân vật trong
Truyện Kiều , Lục Vân Tiên )
Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học cũng như vai trò,
ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn
vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
Có thể nói , mảng truyện thơ Nôm khuyết danh là sự gặp gỡ của
hai bộ phận văn học dân tộc.
IV. PHÂN LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN :
1.Phân loại văn học dân gian :
Khung phân loại văn học dân gian gồm 3 cấp cơ bản : Loại, thể
loại, biến thể của thể loại. Ngoài ra, giữa loại và thể loại còn có
cấp trung gian là nhóm thể loại.
a.Loại tự sự :
a.1 Văn xuôi tự sư û: Thần thọai, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ
tích, truyện cười và truyện ngụ ngôn.
a.2 Thơ ca tự sự : Sử thi, các loại vè, truyện thơ.
a.3 Câu nói vần ve ì: Tục ngữ, câu đố, câu phù chú.
b.Loại trữ tình :
b.1 Thơ ca trữ tình nghi lễ:- Bài ca nghi lễ lao động Bài ca nghi
lễ sinh hoạt Bài ca nghi lễ tế thần
b.2 Thơ ca trữ tình phi nghi lễ:- Bài ca lao động Bài ca ù sinh
hoạt Bài ca ù giao duyên.
c.Loại kịch :
Bao gồm ca kịch và trò diễn dân gian: chèo sân đình , tuồng đồ,
những trò diễn có tích truyện.
2.Hệ thống thể loại :
Hệ thống thể loại văn học dân gian là một chỉnh thể. Ðây là một
hệ thống chịu sự chi phối của mỹ học dân gian để cho các tác
phẩm thuộc mọi thể loại của nó đều mang " tính dân gian ". Mặt
khác , giữa các thể loại của hệ thống lại có quan hệ với nhau .
V .KHOA HỌC VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ DÂN TỘC HỌC
1.Khoa học về văn học dân gian :
Khoa học về văn học dân gian nghiên cứu tác phẩm văn học dân
gian, sinh hoạt văn học dân gian, tác giả và công chúng văn học
dân gian. Trong đó, tác phẩm văn học dân gian là đối tượng
chính. Tác phẩm văn học dân gian ở đây là một chỉnh thể gồm
lời, nhạc, điệu bộ Khoa nghiên cứu văn học dân gianï gồm các
phân môn sau :Lý luận văn học dân gian, Lịch sử văn học dân
gian, Phương pháp luận nghiên cứu văn học dân gian.Và bộ
phận đặc thù là công tác sưu tầm văn học dân gian.
2.Khoa học về văn học dân gian và dân tộc học :
Văn học dân gian, một thành tố của văn hóa dân gian là đối
tượng nghiên cứu của dân tộc học.
Nhiều thể loại văn học dân gian phát sinh từ xã hội công xã
nguyên thủy và ngay cả văn học dân gian ở các giai đoạn phát
triển sau này luôn bị quy định bởi các hình thức sinh hoạt văn hóa
dân gian. Do vậy cần dựa vào dân tộc học để nghiên cứu. Chẳng
hạn truyện Sao Hôm, sao Mai, Sự tích trầu cau là tiếng vọng xa
xôi của chế độ quần hôn trong xã hội công xã thị tộc đồng thời
chúng cũng cho thấy chế độ phụ quyền với vị trí của người con
trưởng được khẳng định