Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

tác động đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp tại công ty công nghiệp tàu thủy nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.86 KB, 111 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặc dù không ai muốn nhưng trên thực tế rủi ro vẫn cứ ln song hành
trong cuộc sống nói chung và trong suốt q trình hoạt động sản xuất kinh doanh
nói riêng của doanh nghiệp. Trong khi đó, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Trong điều kiện các nguồn lực của doanh nghiệp là hữu
hạn cho nên địi hỏi doanh nghiệp phải ln cân nhắc, tính tốn, lựa chọn những
giải pháp cho một vấn đề, phương án thực hiện cho một công việc dự định. Để có
lựa chọn tốt nhất, người ta sẽ phải so sánh mục tiêu mong muốn sao cho với chi phí
bỏ ra thấp nhất trong thời gian cho phép nhưng đạt được doanh thu cao nhất và lợi
nhuận thu được ở mức tối đa, tức là đồng nghĩa với việc hạn chế tới mức thấp nhất
những rủi ro có thể xảy ra.
Vấn đề đặt ra là để làm được điều này, địi hỏi các nhà quản lý tài chính phải
thật am hiểu những vấn đề cơ bản và mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa các yếu tố:
địn bẩy, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, điểm hịa vốn, độ nghiêng đòn bẩy kinh
doanh, độ nghiêng đòn bẩy tài chính, độ nghiêng địn bẩy tổng hợp…Thơng qua
phân tích tác động qua lại giữa các yếu tố trên, các nhà quản trị sẽ đánh giá đúng
đắn nhất kết quả hoạt động kinh doanh, tìm ra điểm tựa làm địn bẩy doanh lợi lên
cao, khai thác khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp, đồng thời có biện pháp thích
hợp hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do rủi ro mang lại.
Chính vì thế, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp thì
vấn đề: Tác động địn bẩy lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp đã trở thành một
vấn đề hết sức lý thú v hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm đông đảo của nh
à
iều
người cả trong lý luận lẫn thực tiễn, đặc biệt là trong bối cảnh “con tàu” Việt Nam
đã ra biển lớn, vượt sóng hội nhập, khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập vào “sân
chơi” chung của toàn cầu với rất nhiều những cơ hội và thách thức to lớn đang tồn


tại đan xen nhau, bởi “lực đẩy” của cạnh tranh và hội nhập thì vấn đề: Tác động đòn


2

bẩy lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp như thế nào càng trở nên bức thiết hơn
bao giờ hết.
Xuất phát từ tình hình trên, sau khi được các Thầy, Cô trường Đại học Nha
Trang trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về tài chính doanh nghiệp hiện đại,
đặc biệt là sự gợi ý, hướng dẫn tận tình, chu đáo của Thầy Thái Ninh và sự giúp đỡ,
tạo điều kiện rất thuận lợi của đơn vị thực tập, nên em đã chọn đề tài “Tác động
đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp tại Công ty công nghiệp tàu
thủy Nha Trang” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài này nhằm đưa ra những lý luận cơ bản nhất về tác động
của đòn bẩy, đánh giá khái quát tác động của đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro tại
Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nha Trang, đưa ra những giải pháp kiến nghị góp
phần nâng cao hiệu quả tác động của đòn bẩy tại Công ty.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu tác
động đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro của hoạt động sản xuất kinh doanh chính tại
Cơng ty cơng nghiệp tàu thuỷ Nha Trang.
Số liệu phân tích được thu thập trong năm 2005 và năm 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này, em sử dụng kết hợp đồng thời nhiều phương pháp nghiên
cứu (phương pháp thống kê mô tả, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
so sánh, phương pháp phân tích…), trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích
so sánh.
5. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:

Chương 1 Cơ sở lý luận về rủi ro, tác động đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro của
doanh nghiệp.
Chương 2 Đánh giá tác động của đòn bẩy lên doanh lợi và rủi ro tại Công ty
công nghiệp tàu thủy Nha Trang.


3

Chương 3 Các kiến nghị nhằm khuếch đại tác động của đòn bẩy lên doanh lợi và
hạn chế rủi ro tại Công ty công nghiệp tàu thủy Nha Trang.
Do thời gian có hạn và kiến thức cịn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu cũng
như việc phân tích phục vụ cho đề tài cịn chưa hồn tồn như ý, vì vậy, những đánh
giá đưa ra trong đề tài còn chưa hồn tồn đầy đủ và chính xác. Em rất mong sự góp
ý chân thành từ thầy cơ và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy Thái Ninh
cùng các thầy cơ và các anh chị ở Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nha Trang trong
suốt q trình hồn thành đề tài này.
Sinh viên
ĐINH THỊ THUÝ LAN


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO, TÁC
ĐỘNG ĐÒN BẨY LÊN DOANH L
ỢI
VÀ RỦI RO CỦA DOANH NGHIỆP



5

1.1 Tổng quan về rủi ro của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm rủi ro
Có thể hiểu rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, rủi ro hiện diện
ở hầu hết các hoạt động của co người. Khi có rủi ro người ta sẽ khơng dự đốn
n
chính xác được kết quả, do đó sự tồn tại của rủi ro sẽ gây nên sự bất định, sự không
chắc chắn của kết quả dự đoán. Rủi ro là một khái niệm khách quan nên chúng ta có
thể đo lường được nó. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về rủi ro, nhưng cách tiếp
cận phổ biến nhất khi xem rủi ro như là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại tài
chính. Nói một cách khác, thuật ngữ rủi ro được sử dụng với ý nghĩa thay thế qua
lại lẫn nhau với thuật ngữ không chắc chắn để mô tả sự biến đổi của các tỷ suất sinh
lời liên quan đến một chứng khoán hay một t i sản nào đó. Nghĩa là rủi ro được
à
định nghĩa như là khả năng các dòng tiền thực tế sẽ khác hơn các dòng tiền dự báo.
Rủi ro mang lại những bất lợi lớn cho con người. Mức độ sợ rủi ro ở mỗi
người có khác nhau, nhưng nhìn chung con người rất sợ rủi ro. Do đó, họ ln tìm
mọi cách để nhận dạng rủi ro cũng như đánh giá, đo lường mức độ ảnh hưởng của
rủi ro để từ đó họ có thể kiểm sốt được rủi ro nhằm né tránh và giảm thiểu những
tác hại mà rủi ro mang đến.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp thì rủi ro và sự
bất định có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả hoạt động của mình. Vì thế, đòi hỏi
các nhà quản lý phải dùng nhiều biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tác
hại do rủi ro mang lại cho doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại rủi ro
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải thường xuyên
đương đầu với hàng loạt rủi ro. Tuy nhiên, hai loại rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh nghiệp có thể kể đến là: Rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
1.1.2.1 Rủi ro kinh doanh

Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro tiềm tàng trong bản thân hoạt động của từng
doanh nghiệp, sẽ khơng có gì chắc chắn xoay quanh doanh thu v lợi nhuận của
à
doanh nghiệp. Chính điều này sẽ tạo ra rủi ro, thể hiện ở chổ Công ty không tạo đủ


6

doanh thu hàng năm từ việc tiêu thụ sản phẩm đến mức đủ thanh tốn các định phí
trong sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào sự
phân bổ các chi phí hoạt động. Mối quan hệ giữa các loại chi phí và lợi nhuận là
cơng cụ phân tích rủi ro quan trọng của nhà quản trị tài chính. Chính vì thế, các nhà
quản trị trong doanh nghiệp giữ vai trị kiểm sốt đối với mức độ rủi ro kinh doanh
thông qua sự lựa chọn dự án đầu tư, công nghệ và các chiến lược đầu tư cụ thể.
Rủi ro kinh doanh cũng có thể được định nghĩa như là tính khả biến hay tính
khơng chắc chắn trong lãi trước thuế và lãi vay (EBIT) của một doanh nghiệp. Các
số đo như độ lệch chuẩn EBIT hay hệ số phương sai có thể được dùng để chỉ rủi ro
kinh doanh của một doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh do nhiều yếu tố gây ra, bao
gồm tính khả biến của doanh thu và việc sử dụng địn bẩy kinh doanh. Có nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh của một doanh nghiệp (nếu các tác động của tất
cả các yếu tố quan trọng khác giữ ngun khơng đổi), bao gồm: Tính biến đổi của
doanh số theo chu kỳ kinh doanh; Tính biến đổi của giá bán; Tính biến đổi của chi
phí; Sự tồn tại của sức mạnh thị trường; Phạm vi đa dạng hóa sản phẩm; Mức độ
tăng trưởng khác nhau của các doanh nghiệp; Độ nghiêng của địn bẩy kinh doanh
(DOL). Ngồi các yếu tố trên, rủi ro kinh doanh còn chịu ảnh hưởng bởi sự dự báo
không chắc chắn về mức cầu trong tương lai của sản phẩm sản xuất ra, tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý doanh nghiệp, trình độ nhân lực, tiềm lực về tài
chính, vị trí địa lý, khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động, chính sách
của nhà nước, tỷ giá hối đối.
1.1.2.2 Rủi ro tài chính

Rủi ro tài chính chỉ tính khả biến tăng thêm của thu nhập mỗi cổ phần và
xác suất mất khả năng chi trả xảy ra khi một doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ
có chi phí tài chính cố định, như nợ và cổ phần ưu đãi trong cấu trúc tài chính của
mình. Các chi phí sử dụng vốn như lãi vay và cổ tức ưu đãi tượng trưng cho các
nghĩa vụ theo hợp đồng một doanh nghiệp phải đáp ứng bất kể mức độ EBIT. Việc
gia tăng sử dụng các số lượng nợ và cổ phần ưu đãi làm tăng các chi phí tài chính cố
định của doanh nghiệp, đến lượt mình các chi phí này lại làm tăng mức EBIT mà


7

doanh nghiệp phải đạt được để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính và duy trì hoạt động.
Lý do một doanh nghiệp chấp nhận rủi ro của tài trợ có chi phí tài chính cố định là
để tăng lợi nhuận có thể có cho các cổ đơng. Như vậy, rủi ro tài chính là tính khả
biến tăng thêm của thu nhập mỗi cổ phần do việc sử dụng các nguồn vốn có chi phí
tài chính cố định. Một phần của rủi ro tài chính là có hệ thống và phần cịn lại là
khơng hệ thống.
Những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau phải đối diện
với mức độ địn bẩy khác nhau, và họ có thể thay đổi phương thức sử dụng địn bẩy
tài chính một cách hợp lý. Một cách tổng quát, những doanh nghiệp mà bản thân
phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh có khuynh hướng sử dụng nợ ít hơn những
doanh nghiệp mà rủi ro trong kinh doanh có giới hạn. Nhưng những doanh nghiệp
trong trường hợp thứ hai có thể nổ lực hướng tới rủi ro về mặt tài chính cao hơn so
với trường hợp thứ nhất.
1.2 Tác động đòn bẩy kinh doanh lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp
Trong tài chính, địn bẩy được định nghĩa là việc doanh nghiệp sử dụng tài
sản và nợ có chi phí hoạt động cố định và chi phí tài chính cố định trong nổ lực gia
tăng lợi nhuận tiềm năng cho các cổ đơng. Trước hết, ta đi tìm hiểu về địn bẩy
kinh doanh.
1.2.1 Khái niệm đòn bẩy kinh doanh

Đòn bẩy kinh doanh phản ánh sự thay đổi của các yếu tố sản lượng tiêu thụ,
cấu trúc chi phí lên doanh lợi của doanh nghiệp. Đòn bẩy kinh doanh liên quan đến
sử dụng tài sản cố định phí. Địn bẩy kinh doanh cịn được gọi là Địn cân định phí,
vì nó thể hiện mức chi phí cố định, được sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thông qua địn cân định phí, các nhà quản trị có thể đánh
giá ảnh hưởng của chi phí cố định đối vớ doanh lợi của doanh nghiệp. Địn cân
i
định phí có tác dụng tốt cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp sử dụng một cơ cấu chi
phí hợp phí của ngân quỹ và chọn được một tỉ lệ định phí thích hợp để nó tác động
tốt lên doanh lợi của doanh nghiệp.


8

1.2.2 Cấu trúc chi phí
Chi phí là biểu hiện bằng tiền tồn bộ hao phí về lao động sống và lao động
vật hóa phát sinh trong q trình hoạt động của doanh nghiệp. Chi phí được phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Trong quản lý tài chính, chi phí được phân loại
và phân tích theo sự biến đổi của chi phí đối với sự thay đổi của mức độ hoạt động,
tức là phân loại theo cách ứng xử của chi phí. Cách phân loại này căn cứ vào sự
thay đổi của chi phí khi có sự thay đổi của mức độ hoạt động. Theo đó, người ta
phân chia chi phí ra thành các loại: Biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp.
1.2.2.1 Biến phí
Chi phí khả biến (gọi tắt là biến phí) là những chi phí sản xuất kinh doanh
thay đổi tỷ lệ thuận về tổng số, về tỷ lệ với sự biến động về khối lượng sản phẩm,
gồm: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp; Chi phí nhân cơng trực tiếp và một số
khoản chi phí sản xuất chung như: Chi phí nhân cơng, chi phí điện nước, phụ tùng
sửa chữa máy,…Chi phí khả biến khơng thay đổi khi tính cho một đơn vị sản phẩm,
cơng việc.
1.2.2.2 Định phí

Chi phí bất biến (cịn gọi là định phí) là những chi phí mà tổng số khơng
thay đổi với sự biến động về khối l ợng sản phẩm, cơng việc, gồm: chi phí khấu
ư
hao tài sản cố định (TSCĐ), lương nhân viên, cán bộ quản lý,…Chi phí bất biến của
một đơn vị sản phẩm, cơng việc có quan hệ tỷ lệ nghịch với khối lượng, sản phẩm,
công việc.
Trong chi phí cố định, các khoản định phí bắt buộc như chi phí khấu hao
TSCĐ, chi phí tiền lương cho nhân viên quản lý thường chiếm một tỷ trọng cao.
Những doanh nghiệp có đầu tư về máy móc, thiết bị hiện đại và trình độ cơng nghệ
cao thường có khoản chi phí khấu hao lớn, đưa đến chi phí cố định cao. Bên cạnh
đó, trình độ tự động hóa của doanh nghiệp tăng cao, nhân cơng địi hỏi ít hơn, chi
phí nhân cơng giảm làm giảm chi phí biến đổi. Do đó, trong những doanh nghiệp
này, tỷ lệ chi phí cố định chiếm trong tổng chi phí là khá lớn. Cịn định phí tùy ý
(hay định phí khơng bắt buộc) thì chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng định phí. Tu
y


9

nhiên, trong thực tế khơng có ranh giới rõ ràng giữa định phí và biến phí mà có
loại chi phí bao gồm cả yếu tố k biến và bất biến, đó là chi phí hỗn hợp. Ở
hả
mức độ hoạt động căn bản, chi p hỗn hợp thường thể hiện các đặc điểm của

định phí. Thơng thường ở mức độ hoạt động vượt quá mức căn bản, nó thể hiện
đặc điểm của biến phí. Chi phí điện thoại là một ví dụ của chi phí hỗn hợp, trong
đó phần định phí là chi phí thuê bao, ph biến phí là chi phí tính trên th
ần
ời
gian gọi.

1.2.3 Đánh giá rủi ro kinh doanh thơng qua việc phân tích hịa vốn
1.2.3.1 Định nghĩa điểm hịa vốn
Điểm hịa vốn là điểm mà tại đó doanh thu chỉ bù đắp những chi phí mà
doanh nghiệp đã bỏ ra. Hay nói cách khác, điểm hịa vốn là điểm mà tại đó
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khơng lời cũng khơng lỗ (EBIT = 0).
1.2.3.2 Phân tích hòa vốn
Để hiểu được vai trò của đòn bẩy kinh doanh trong việc ấn đị h rủi ro
n
kinh doanh của một doanh nghiệp, cần triển khai các nguyên tắc cơ bản của phân
tích hịa vốn (cịn gọi là phân tích chi phí – sản lượng – lợi nhuận). Phân tích
hịa vốn là phương pháp sử dụng để nghiên cứu về mối liên hệ giữa doanh thu,
các chi phí hoạt động cố định, các chi phí hoạt động biến đổi và EBIT tại nhiều
mức sản lượng khác nhau của doanh nghiệp.
Mục đích của việc phân tích h vốn là để xác định lợi nhuận từ kinh
òa
doanh sẽ thay đổi như thế nào so với mức sản xuất và nhận biết mức sản xuất mà
tại đó q trình từ lỗ sang lãi diễn ra.
Chúng ta có mối quan hệ: EBIT = Doanh thu – Tổng chi phí
Mà: Tổng chi phí = Biến phí + Định phí
Suy ra: EBIT = Doanh thu – (Biến phí + Định phí)
Tại điểm hịa vốn, thì EBIT = 0, tức:
Doanh thu hịa vốn – (Biến phí + Định phí) = 0
Hay: Doanh thu hịa vốn = Biến phí + Định phí (*)


10

Chúng ta dùng các ký hiệu sau:

Shv: Doanh thu hòa vốn;


p: Giá bán đơn vị sản phẩm;

Qhv: Sản lượng hòa vốn;

v: Biến phí trên một đơn vị sản phẩm;

V: Tổng biến phí;

S: Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ;

F: Định phí;

Thay vào (*), ta được:
F + V = Shv
F – (p - v) Qhv = 0
Từ đó, rút ra ta được:
- Sản lượng hòa vốn (Qhv):
Qhv 

F
p-v

- Doanh thu hòa vốn (Shv):
Shv 

F
V
1S


- Thời gian hồ vốn (Thv), (tính theo ngày):
Thv 

Shv
Shv

* 360
Doanh thu bình quân
S

Nhìn vào đồ thị dưới đây biểu diễn mối quan hệ g sản lượng, doanh số
iữa
(doanh thu) và chi phí, ta th EBIT cho các trường hợp xuất lượng khác nhau,
ấy
đường biểu diễn của doanh số và tổng chi phí gặp nhau tại một điểm, ở đó được gọi
là điểm hịa vốn, các khoản lỗ phát sinh trong phạm vi mức sản lượng nào đó, với
mức doanh thu tương ứng, với sản lượng này không đủ để bù đắp chi phí. Ứng với
sản lượng hịa vốn là doanh thu hòa vốn chỉ vừa đủ để bù đắp chi phí, khơng có lãi.
Khi nào tiêu thụ trên mức sản lượng hòa vốn với doanh thu hòa vốn thì sẽ có lãi.
Điểm hịa vốn nói lên tình trạng doanh thu tại điểm đó vừa đúng bằng chi phí. Khi
nào doanh thu đã bù đắp đủ chi phí thì vùng lãi sẽ xuất hiện.


11

Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng, doanh thu và chi phí
Doanh thu,
Chi phí
Doanh thu
Lãi

Điểm hịa vốn
Tổng chi phí

Doanh thu
hịa vốn

Định phí
Lỗ

Sản lượng hịa vốn

Sản lượng

Trong phân tích hịa vốn cũng có một vài hạn chế của nó như: Gía bán và
biến phí một đơn vị khơng đổi; Thành phần của các chi phí hoạt động có thể thay
đổi; Tính đa dạng của sản phẩm; Tính khơng chắc chắn trong phân tích hịa vốn và
thời gian hoạch định là ngắn hạn.
Như vậy, phân tích hịa vốn là một cơng cụ phân tích tài chính được dùng để
nghiên cứu các mối liên hệ giữa doanh thu, các định phí (ĐP), biến phí (BP), và
EBIT của một doanh nghiệp tại nhiều mức sản lượng khác nhau. Phân tích hịa vốn
có thể được dùng hỗ trợ việc dự báo lợi nhuận, phân tích các thay đổi trong cấu trúc
vốn hay cấu trúc giá cả và trong hoạch định cấu trúc vốn.
1.2.3.3 Rủi ro kinh doanh qua việc phân tích hịa vốn
Phân tích hịa vốn thường được sử dụng để đánh giá rủi ro của một doanh
nghiệp bằng cách chỉ ra tác động của chúng lên EBIT khi chúng có những thay đổi
của một trường kinh doanh. Một khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp đang ở
gần điểm hòa vốn là khơng tốt, vì đó là tình trạng mức độ rủi ro khá lớn và cực kỳ
mạo hiểm. Khi các điều kiện như chi phí biến đổi đơn vị, giá bán, sản lượng tiêu thụ
thay đổi hoặc có đột biến về chi phí cố định thì doanh nghiệp phải chịu rủi ro và



12

thua lỗ, bằng việc phân tích độ nhạy của điểm hòa vốn đối với các yếu tố tr n,
ê
chúng ta sẽ xác định được mức độ rủi ro của từng yếu tố trên lợi nhuận của Công ty
và sẽ đánh giá được yếu tố nào quan trọng, mức độ rủi ro cho doanh nghiệp là cao
hay thấp.
1.2.3.4 Tác dụng của phân tích hịa vốn
Đánh giá khả năng tạo lãi của một phương án sản xuất sản phẩm mới:
Phân tích hịa vốn giúp ta lựa chọn được q trình nào có tổng hợp chi phí
thấp nhất ứng với khối lượng sản phẩm yêu cầu. Lẽ tất nhiên, điểm này cũng chỉ
cho ta vùng lợi nhuận tốt nhất. Cho nên, ta có thể tập trung vào hai vấn đề: q trình
có chi phí thấp và tổng số tiền lãi. Chỉ khi ta tập trung vào hai vấn đề này thì quyết
định về quá trình sản xuất mới đạt kết quả. Ta sẽ biểu diễn qua quá trình sản xuất để
so sánh:

BP 3
BP1
ĐP1

PA 1

BP2
ĐP 2

PA 2

ĐP3


PA 3

Các Cơng ty có quyền lựa chọn để hoạt động kinh doanh với những công
nghệ sản xuất khác nhau, các doanh nghiệp đầu tư vào những công nghệ kỹ thuật
thấp, địi hỏi nhiều cơng nhân thì tài sản cố định thấp và do vậy tỷ lệ định phí thấp
trong tổng số chi phí, tức là chúng có khả năng sản xuất thấp (PA 1). Ngược lại,
những doanh nghiệp đầu tư nhiều vào kỹ thuật thì tài sản cố định rất cao và do vậy
tỷ lệ định phí chiếm rất cao trong tổng số chi phí, tức chúng có khả năng sản xuất
cao hơn (PA 3). Khả năng sản xuất cao có tác dụng khuếch đại lợi nhuận nếu như
doanh số ban đầu tăng, nhưng đồng thời cũng khuếch đại tổn t ất nếu doanh số
h
bán giảm.


13

Kết luận trên được khẳng định khi ta xem xét thêm một ví dụ minh họa đơn
giản tại Cơng ty X và Công ty Y trong 2 trường hợp: khi doanh thu tăng lên 10% và
khi doanh thu giảm xuống 10%.
Qua số liệu cụ thể của ví dụ đơn giản này, ta thấy: Nếu một Cơng ty có tỷ
trọng cấu trúc định phí cao thì EBIT đạt được sẽ tăng cao (so với một Cơng ty có tỷ
trọng cấu trúc định phí thấp) nếu như doanh thu tăng nhiều và ngược lại thì EBIT sẽ
bị giảm nhiều hơn (so với một Cơng ty có tỷ trọng cấu trúc định phí thấp). Nghĩa là:
Cấu trúc chi phí có tác động lớn đến EBIT của doanh nghiệp.
Sau đây là ví dụ minh họa:
- Trong điều kiện bình thường:
STT
1
2
3

4
5

Chỉ tiêu
Doanh thu thuần
Biến phí (V)
Số dư đảm phí (3=1-2)
Định phí
EBIT (5=3-4)

Cơng ty X
Số tiền
%
100,000 100.00
60,000
60.00
40,000
40.00
30,000
10,000

Công ty Y
Số tiền
%
100,000 100.00
30,000
30.00
70,000
70.00
60,000

10,000

- Khi doanh thu được tăng lên 10% (hay khi doanh thu bị giảm xuống 10%):
Chỉ tiêu
DTT
Biến phí
SDĐP
Định phí
EBIT

Khi doanh thu tăng lên 10%
Cơng ty X
Cơng ty Y
Số tiền % Số tiền %
110,000 100 110,000 100
66,000 60 33,000
30
44,000 40 77,000
70
30,000
60,000
14,000
17,000

Khi doanh thu giảm 10%
Công ty X
Công ty Y
Số tiền % Số tiền %
90,000 100 90,000 100
54,000 60 27,000

30
36,000 40 63,000
70
30,000
60,000
6,000
3,000

- Lựa chọn những phương án kinh doanh khác nhau:
Việc lựa chọn những phương án sản xuất khác nhau là nguyên nhân làm
thay đổi cấu trúc chi phí và giá bán, do dó phân tích hịa vốn thường được sử dụng
để phân tích những sự lựa chọn khác nhau và dự báo những hậu quả có thể xảy ra
của chúng đối với hoạt động của doanh nghiệp.


14

Khi doanh nghiệp thay đổi phương án sản xuất: Qua phân tích hịa vốn của
các nhà quản trị cũng có thể lựa chọn phương án sản xuất nào là tối ưu. Và dự báo
những ảnh h
ưởng có thể xảy ra cho hoạt độn sản xuất kinh doanh của
g
doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp đưa ra thị trường một sản phẩm mới, việc phân tích hịa

vốn là cơng cụ hữu hiệu để đánh giá hiệu quả của việc sản xuất sản phẩm mới. Qua
việc phân tích hịa vốn, các nhà quản trị cũng có thể dự báo mức độ thành cơng và
những rủi ro ảnh hưởng đến dự án sản xuất sản phẩm mới của họ. Tóm lại, thơng
qua việc phân tích hịa vốn có thể rút ra được một số ý nghĩa như: Giúp ta phân tích
được các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

như: giá bán đơn vị, biến phí đơn vị, định phí; Xác định được mục tiêu lợi nhuận
cho doanh nghiệp để lựa chọn các ph
ương án kinh doanh khác nhau; Giúp cho
doanh nghiệp đánh giá được mức độ rủi ro của một dự án đầu tư hay mức độ rủi ro
của hoạt động sản xuất kinh doanh một doanh nghiệp…
1.2.4 Độ nghiêng địn cân định phí (DOL) và mối quan hệ giữa DOL với
doanh thu
Đòn bẩy kinh doanh dùng các chi phí hoạt động cố định làm điểm tựa. Khi
một doanh nghiệp sử dụng các chi phí hoạt động cố định, một thay đổi trong doanh
thu sẽ được phóng đại thành một thay đổi tương đối lớn trong lãi trước thuế và lãi
vay (EBIT). Tác động số nhân này của việc sử dụng các chi phí hoạt động cố định
được gọi là độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh (hay độ nghiêng địn cân định
phí – DOL).
Độ nghiêng địn bẩy kinh doanh (DOL) được định nghĩa là phần trăm thay
đổi trong EBIT do 1% thay đổi trong doanh thu. Hay nói cách khác, độ nghiêng đòn
bẩy kinh doanh của một doanh nghiệp được định nghĩa là tác động số nhân của việc
sử dụng các chi phí hoạt động cố định. Cụ thể hơn, DOL có thể được tính như phần
trăm thay đổi trong EBIT do m phần trăm thay đổi cho sẵn trong doanh thu
ột
(sản lượng).


15

Phần trăm thay đổi trong EBIT
Phần trăm thay đổi trong doanh thu

DOL tại X =

DOL có thể viết thành:

DOL tại X =

Q (p-v)
Q (p-v) - F

DOL taïi X =

Doanh thu - Biến phí
EBIT

Hay:

Việc dùng cơng thức trên để do lường DOL của một doanh nghiệp chỉ áp
dụng được cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm. Đối
với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm DOL được tính
bằng cơng thức:
DOL tại X =

EBIT  F
EBIT

Độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiến đến cực đại khi
doanh nghiệp tiến gần đến hoạt động ở mức sản lượng hòa vốn. Điều này thể hiện
qua phương trình:
DOL tại X =

Q
Q- Qhv

Khi tất cả các yếu tố khác bằng nhau, độ nghiêng đòn bẩy kinh doanh của

một doanh nghiệp càng cao, rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.
Rủi ro kinh doanh, tính khả biến trong EBIT trong một doanh nghiệp cũng
chịu ảnh hưởng bởi tính khả biến của doan thu và các chi phí ho động theo
h
ạt
thời gian.


16

QUAN HỆ GIỮA DOL VÀ DOANH THU

DOL

Q

0

Qhv

Nhìn vào đồ thị ta thấy: Tại thời điểm hòa vốn (EBIT = 0), tức Q = Qhv,
DOL không xác định. Tại thời điểm này, khi doanh số thay đổi thì EBIT sẽ thay đổi
với tỷ lệ không xác định Khi doanh số bán hàng tăng (giảm) 1% thi EBIT có
.
khuynh hướng tăng (giảm) DOL%. Do đó, khi sản lượng tiêu thụ tăng, DOL càng
thấp thì rủi ro trong kinh doanh càng thấp. Sản lượng tiêu thụ càng gần đến mức sản
lượng hòa vốn thì mức độ rủi ro kinh doanh càng cao. Bởi vì càng tiến gần đến mức
sản lượng hịa vốn thì độ nhạy cảm của EBIT khi doanh số thay đổi sẽ càng lớn mà
độ nhạy cảm của EBIT nói lên tính khơng chắc chắn của EBIT. Sản lượng tiêu thụ
càng vượt xa mức sản lượng hịa vốn thì DOL càng giảm, rủi ro kinh doanh càng

thấp. Cần lưu ý rằng DOL càng giảm thì rủi ro càng ít chứ khơng bao giờ triệt tiêu
được hết tất cả những rủi ro. Bởi lẽ khi nào cịn hiện diện định phí trong cấu trúc chi
phí của doanh nghiệp thì địn cân định phí cịn tồn tại và rủi ro kinh doanh vẫn có.
1.2.5 Tác đ
ộng của địn bẩy kinh doanh ên doanh l i và rủi ro của
l

doanh nghiệp
Tác động đòn cân định phí đo lường mức độ tăng trưởng tương đối của kết
quả sản xuất kinh doanh. Mức tăng trưởng tương đối này có nguồn gốc từ mức tăng


17

trưởng tương đối của sản xuất. Địn cân định phí thể hiện sự mạo hiểm kinh doanh
và mức độ mạo hiểm này phụ thuộc vào tính chất hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Thơng qua địn cân định phí, nhà quản trị có thể đánh giá ảnh hưởng của kết
cấu chi phí đối với mức độ rủi ro trong sản xuất của doanh nghiệp, tức ảnh hưởng
của chi phí cố định tới lợi nhuận hoạt động. Như ta đã biết, độ nghiêng địn cân định
phí được xác định bởi: DOL 

EBIT  F
EBIT

Theo đẳng thức này, với mức sản lượng cho trước, độ nghiêng địn cân định
phí cũng tăng như định phí. Như vậy, nếu một doanh nghiệp có độ nghiêng địn cân
định phí cao thì những biến đổi nhỏ của doanh số tiêu thụ sản phẩm cũng tác động
lớn vào lợi nhuận (EBIT). Lợi nhuận tăng rất nhanh trong trường hợp mở rộng bán
hàng nhưng đồng thời cũng sẽ giảm rất mạnh nếu có sự sụt giảm mức độ tiêu thụ.
Hay nói cách khác, độ nghiêng địn cân định phí càng tăng cao thì rủi ro trong kinh

doanh càng lớn. Nhìn chung, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp càng ở gần
điểm hịa vốn là càng khơng tốt, vì đó là tình trạng rất mạo hiểm. Để giảm bớt rủi ro
do hệ số địn cân định phí tăng, một số doanh nghiệp thực hiện giảm định phí như
nhận gia công đặt hàng, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, giảm đầu tư vào tài sản cố
định…Trong phân tích tài chính hiện nay, cần giữ ổn định mức độ ảnh hưởng cho
chi phí cố định vào lợi nhuận khi ta thực hiện phân tích để lập dự tốn cho kỳ sau.
Sự biến động của lợi nhuận thể hiện sự mạo hiểm về kinh tế của doanh nghiệp và
thường phụ thuộc vào ba yếu tố: doanh thu, cấu trúc chi phí, mức độ ở gần điểm hòa
vốn so với mức sản lượng có thể.
1.3 Tác động của địn bẩy tài chính lên doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp
1.3.1 Khái niệm địn bẩy tài chính
Địn bẩy tài chính cịn được gọi là đòn cân nợ. Đòn cân nợ là tỷ số giữa tổng
số nợ trên tổng số vốn của doanh nghiệp. Tổng số nợ bao gồm cả nợ ngắn hạn và nợ
dài hạn. Địn cân nợ xác định chi phí tài chính cố định trong tổng số chi phí sử dụng
ngân quỹ của doanh nghiệp. Địn bẩy tài chính liên quan đến sử dụng nợ (và cổ


18

phần ưu đãi) có chi phí tài chính cố định. Khi doanh nghiệp sử dụng lãi vay thì địn
cân nợ sẽ làm thay đổi tỷ lệ sinh lời trên phần vốn chủ sở hữu.
1.3.2 Cấu trúc tài chính – Cấu trúc vốn
Cấu trúc vốn được định nghĩa là sự kết hợp số lượng nợ ngắn hạn thường
xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi, và vốn cổ phần thường được dùng để tài trợ cho
quyết định đầu tư ở một doanh nghiệp. Ngược lại, cấu trúc tài chính là sự kết hợp
nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi, và vốn cổ phần thường được dùng để tài
trợ cho quyết định đầu tư ở một doanh nghiệp. Như vậy, cấu trúc vốn chỉ là một
phần của cấu trúc tài chính, tiêu biểu cho các nguồn thường xuyên tài trợ của một
doanh nghiệp. Còn cấu trúc vốn tối ưu của một doanh nghiệp là một hỗn hợp nợ dài
hạn, cổ phần ưu đãi, cổ phần thường cho phép tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn

bình qn, tối thiểu hóa rủi ro và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Địn bẩy tài chính được hình thành thơng qua việc chọn lựa cơ cấu tài chính
để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một cấu trúc tài chính hợp lý sẽ tạo ra
địn bẩy thích hợp để gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sau khi doanh nghiệp
xác định xong nhu cầu vốn, vấn đề đặt ra là xem xét cấu trúc vốn đã đầy đủ và hợp
lý chưa. Nếu chưa thì phải xác định lại nguồn tài trợ thế nào cho hợp lý. Cấu trúc tài
chính thể hiện bên phần nguồn vốn trong bảng cân đố kế toán. Nguồn vốn của
i
doanh nghiệp bao gồm: Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
1.3.2.1 Nợ phải trả
Nợ phải trả là nguồn vốn không thuộc sở hữu của doanh nghiệp, phản ánh
các khoản nợ phải trả phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh m doanh
à
nghiệp phải trả, phải thanh toán cho các chủ nợ, bao gồm các khoản nợ tiền vay, các
khoản nợ phải trả, phải thanh toán cho người bánm cho Nhà nước, cho công nhân
viên và các khoản phải trả khác. Nợ phải trả của doanh nghiệp bao gồm: Nợ ngắn
hạn và nợ dài hạn.
1.3.2.2 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là vốn của các chủ sở hữu đã đầu tư vào doanh nghiệp với
mục đích là kiếm lời và doanh nghiệp khơng phải cam kết thanh toán, phản ánh các


19

loại nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, của các thành viên góp vốn
trong Cơng ty liên doanh, Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh
hoặc các cổ đông trong Công ty cổ phần,…
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu mà doanh nghiệp khơng
phải cam kết thanh tốn. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh ngh và các nhà
iệp

đầu tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó nguồn vốn chủ sở hữu
khơng phải là một khoản nợ. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ s

hữu vốn.
Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn chủ sở hữu và nguồn kinh phí và quỹ khác.
1.3.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá cấu trúc vốn
Các chỉ tiêu này phản ánh mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp trong
kinh doanh, đồng thời cũng phản ánh khả năng về rủi ro tài chính có thể xảy ra đối
với doanh nghiệp, cũng như đối với các chủ nợ doanh nghiệp. Thông thường khi
đánh giá cấu trúc vốn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:

* Tỷ số nợ: Hn 
Trong đó:

N
V

Hn: Tỷ số nợ của doanh nghiệp
N: Tổng số nợ của doanh nghiệp
V: Tổng số vốn của doanh nghiệp

Tỷ số này nói lên tình trạng góp vốn của doanh nghiệp, các chủ nợ thường
muốn tỷ số này thấp, có như vậy trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sả mới
n
đảm bảo được khả năng thanh toán nợ. Ngược lại, tùy trường hợp mà doanh nghiệp
có thể muốn có tỷ số nợ cao vì có như thế chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC)
sẽ thấp, để làm cho tỷ suất doanh lợi của vốn chủ sở hữu tăng lên.
Tóm lại, tỷ số này càng cao thì sự biến động tỷ suất doanh lợi của vốn chủ
sở hữu càng lớn do đó rủi ro về mặt tài chính của doanh nghiệp càng tăng.


* Hệ số thanh toán lãi vay: Hi 

EBIT
R

Với: Hi: Hệ số thanh toán lãi vay
R: Lãi vay phải trả


20

Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp mà mức độ
an tồn có thể đối với nhà cung cấp tín dụng, tác động chi trả lãi không giống nhau
giữa các doanh nghiệp ở các giai đoạn khác nhau, ở các chu kỳ kinh doanh khác
nhau của vòng đời doanh nghiệp.
1.3.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn
Số lượng nợ trong cấu trúc vốn tối ưu của doanh nghiệp được gọi là khả
năng vay nợ của doanh nghiệp. Cấu trúc vốn tối ưu và do đó, khả năng vay nợ của
một doanh nghiệp được xác định bởi các yếu tố: rủ ro kinh doanh của doanh
i
nghiệp, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, mức độ phá
sản có thể có, chi phí đại lý, vai trị của chính sách cấu trúc vốn trong việc cung cấp
các tín hiệu về thành quả của doanh nghiệp cho các thị trường vốn.
Ngồi ra, cấu trúc vốn tối ưu cịn chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Suất gia tăng doanh thu: Suất gia tăng doanh thu tương lai là sự đo lường
mức độ mà doanh lợi vốn tự có được khuếch đại do đòn cân nợ. Tuy nhiên, cổ phần
thường của một doanh nghiệp ở các giai đoạn khác nhau,ở một doanh nghiệp có
doanh thu và doanh lợi vốn tự có tăng nhanh, sẽ tăng giá cao. Như thế, đơi khi tài
trợ bằng vốn cổ phần có vẻ lợi hơn, doanh nghiệp phải cân nhắc giữa cái lợi trong
việc sử dụng đòn cân nợ và cơ hội mới rộng vốn cổ đông khi phải chọn nhiều giải

pháp tài trợ.
- Sự ổn định doanh thu: Sự ổn định doanh thu và các tỷ số nợ có liên quan
trực tiếp đến doanh lợi vốn tự có, doanh nghiệp sẽ ít gặp rủi ro trong việc trang trải
các định phí của nợ vay (hoàn vốn và lãi) hơn là phải gặp nhiều bất ổn định về
doanh thu và doanh lợi vốn tự có.
- Cơ cấu cạnh tranh: Khả năng vay nợ phụ thuộc vào doanh lợi tiêu thụ lẫn
doanh thu. Như thế, sự ổn định của doanh lợi tiêu thụ cũng quan trọng như sự ổn
định của doanh thu, sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp mới cùng ngành và khả
năng khuếch trương của các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ ảnh hưởng đến doanh lợi
tiêu thụ. Một ngành đang phát triển hứa hẹn doanh lợi ti u thụ tăng dần nhưng
ê


21

doanh lợi tiêu thụ bị thu hẹp lại nếu trong ng
ành này có quá nhiều doanh nghiệp
mới tham gia vào thị trường.
-Cơ cấu tài sản: Cơ cấu tài sản ảnh hưởng đến nguồn tài trợ bằng nhiều
cách. Doanh nghiệp với tài sản cố định có đời sống lâu dài, đặc biệt khi mức nhu
cầu sản lượng của họ được đảm bảo, thường vay nhiều hơn nợ dài hạn có thế chấp.
Doanh nghiệp mà tài sản gồm phần lớn các khoản thu phải thu và hàng tồn kho mà
giá trị phụ thuộc vào sự sinh lời liên tục của doanh nghiệp thì thường sử dụng nợ
ngắn hạn.
- Thái độ của Ban Giám đốc: có ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương thức tài
trợ là sự kiểm soát doanh nghiệp và rủi ro.
Đối với những doanh nghiệp thật lớn mà cổ phần được phân tán rộng rãi có
thể chọn dễ dàng việc phát hành thêm cổ phần. Thường vì họ khơng sợ mất quyền
kiểm soát doanh nghiệp do sự phát hành mới này. Ngược lại, chủ nhân các doanh
nghiệp nhỏ khơng thích phát hành thêm cổ phần để nắm chắc phần kiểm sốt, vì họ

tin tưởng vào tình hình hoạt động của doanh nghiệp và họ sẽ hưởng lợi nhuận rất
lớn do đòn cân nợ, Giám đốc các doanh nghiệp này rất muốn có các tỷ số nợ cao.
- Thái độ của người cho vay: Mặc dù, phân tích tìm những địn cân nợ thích
hợp cho doanh nghiệp là nhiệm vụ của Ban Giám đốc, nhưng thường thì chính thái
độ của người chủ nợ mới là yếu tố quan trọng quyết định cơ cấu tài chính. Trong đa
số trường hợp, doanh nghiệp thảo luận cơ cấu tài chính của người chủ nợ và rất tôn
trọng ý kiến của người này. Nếu Ban Giám đốc quá tin tưởng vào tương lai tốt đẹp
mà sử dụng địn cân nợ q tiêu chuẩn trung bình của doanh nghiệp, người chủ nợ
sẽ không chấp nhận việc cho vay thêm nợ.
1.3.3 Lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý cho doanh nghiệp
Việc lựa chọn cấu trúc vốn là vấn đề rất quan trọng trong công tác tổ chức
vốn của doanh nghiệp, trong đó chỉ tiêu quan tâm là hệ số nợ của doanh nghiệp.
Vấn đề lựa chọn cấu trúc vốn tối ưu cần phải quan tâm đầy đủ đến khả năng sinh lời
và rủi ro có thể gặp phải, phải xác định được sự phối hợp tối ưu giữa nợ phải trả và


22

vốn chủ sở hữu mà việc phối hợp đó là tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Khi xem
xét, lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý đối với từng doanh nghiệp, ta cần phải chú ý:
- Sự phát triển của doanh nghiệp: Nếu dự án trong tương lai có khả năng
phát triển, có thể tăng doanh thu một cách chắc chắn thì sự việc sử dụng vốn vay có
lợi nhiều hơn cho doanh nghiệp.
- Sự ổn định doanh thu: Doanh nghiệp đạt được doanh thu và lợi nhuận
tương đối ổn định thì việc sử dụng vốn vay ít bị rủi ro. Những doanh nghiệp có biến
động về doanh thu như những hoạt động có tính chất thời vụ khơng nên sử dụng
vốn vay thường xuyên.
- Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường: Doanh nghiệp hoạt
động trong ngành có nhiều cạnh tranh th phải thận trọng trong việc sử dụ g
ì

n
vốn vay.
- Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp: Doanh nghiệp sử dụng nhiều tài sản cố
định có thời gian sử dụng dài trong thị trường chưa ổn định thì phải xem xét kỹ việc
sử dụng vốn vay. Như vậy, các quyết định tài trợ có ảnh hưởng lớn tới giá trị doanh
nghiệp. Tuy nhiên, các quyết định không phải lúc nào cũng nhất quán với nhau và
nhất quán với cấu trúc vốn tối ưu của doanh nghiệp, bởi cấu trúc vốn như đã trình
bày cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Trong thực tế, các doanh nghiệp thường
tự xác định một hệ số nợ để cố gắng vượt qua. Sự quan tâm này thể hiện trong việc
lập các kế hoạch tài trợ.
1.3.4 Độ nghiêng đòn cân nợ (DFL) và tác động của đòn bẩy tài chính lên
doanh lợi và rủi ro của doanh nghiệp
Địn bẩy tài chính dùng các chi phí tài chính cố định làm điểm tựa. Khi một
doanh nghiệp sử dụng các chi phí t i chính cố định, một thay đổi trong EBI sẽ
à
T
được phóng đại thành một thay đổi tương đối lớn hơn trong thu nhập mỗi cổ phần
(EPS). Tác động số nhân này của việc sử dụng các chi phí tài chính cố định được
gọi là độ nghiêng địn bẩy tài chính hay độ nghiêng địn cân nợ (DFL).
Có thể dùng nhiều tỷ số tài chính khác nhau để đo lường rủi ro gắn với việc
sử dụng nợ và cổ phần ưu đãi trong cấu trúc vốn của một doanh nghiệp. Các tỷ số


23

này bao gồm tỷ số nợ trên tổng tài sản, tỷ số nợ trên vốn cổ phần thường, tỷ số khả
năng thanh toán lãi vay. Riêng tỷ số khả năng thanh tốn l i vay có thể giúp đo
ã
lường mức độ mà một doanh nghiệp có thể đáp ứng được các chi phí tài chính cố
định lấy ra từ EBIT. Một phương thức khác để đo lường rủi ro tài chính của một

doanh nghiệp là độ nghiêng địn bẩy tài chính (DFL).
Độ nghiêng địn bẩy tài chính của một doanh nghiệp được định nghĩa là
phần trăm thay đổi trong thu nhập mỗi cổ phần (EPS).
D FL tại X =

Phần trăm thay đổi trong EPS
Phần trăm thay đổi trong EBIT

Điều này ngụ ý rằng nếu EBIT tăng t ơng đối 1% thì EPS tăng lên một
ư
khoản bằng DFL %. Và ngược lại, khi EBIT giảm 1% thì EPS sẽ giảm một khoản
bằng DFL %. DFL cịn có thể viết thành:
- Trường hợp: Cấu trúc vốn gồm cổ phần thường và nợ:
D FL taïi X =

Q (p-v) - F
Q (p-v) - F - R

Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm, DFL
được tính như sau:
D FL tại X =

EBIT
EBIT - R

- Trường hợp: Cấu trúc vốn gồm cổ phần thường, nợ, cổ phần ưu đãi:
Với: R: Chi phí trả lãi vay
T: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Dp: Lợi tức cổ phần ưu đãi
DFL taïi X =


Q (p-v) - F
Q (p-v) - F - R Dp/(1 - T)

Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm, DFL
được tính như sau:
DFL tại X =

EBIT
EBIT - R - Dp/(1 - T)


24

Theo các công thức trên, khi doanh nghiệp sử dụng nợ càng nhiều, rủi ro (lãi
vay) càng lớn thì DFL càng lớn, EBIT chỉ cần thay đổi một ít thì EPS sẽ thay
đổi lớn.
Khi doanh nghiệp hồn tồn khơng sử dụng nợ (R = 0) khi đó DFL=1, địn
cân nợ bị triệt tiêu, lúc này EBIT tăng bao nhiêu % thì EPS sẽ tăng bấy nhiêu %
tương ứng. Mối quan hệ giữa EBIT và EPS (với những giả định khác nhau của lợi
nhuận) có thể được biểu diễn qua đồ thị dưới đây.
Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa EBIT và EPS của doanh nghiệp
(với những giả định khác nhau của lợi nhuận)
EPS

3

Tài trợ bằng vốn vay
và vốn chủ sở hữu


Tài trợ bằng
vốn chủ sở hữu

2

1

Điểm hòa
vốn EBIT

EBIT
500

1.000

1.500

2.000

So sánh hai trường hợp biểu diễn trên đồ thị ta thấy giao điểm giữa h
ai
đường biểu diễn chính là điểm hịa vốn EBIT. Tại thời điểm này bất kể phương thức
tài trợ như thế nào EPS đều bằng nhau (và bằng 1). Hay nói cách khác: Điểm hịa
vốn EBIT là điểm mà tại đó bất chấp phương thức tài trợ như thế nào thì thu nhập
trên mỗi cổ phần (EPS) của doanh nghiệp vẫn khơng đổi.
Độ nghiêng địn bẩy tài chính tiến đến cực đại khi doanh nghiệp tiến gần đến
hoạt động ở mức lỗ, khi EBIT = 0. Khi tất cả các yếu tố khác bằng nhau, độ nghiêng


25


địn bẩy tài chính của một doanh nghiệp càng cao, rủi ro tài chính của doanh nghiệp
càng lớn.
- Nếu EBIT dưới điểm hịa vốn thì đường tài trợ bằng vốn cổ phần nằm trên
đường tài trợ bằng vốn cổ phần v vốn vay, do đó tài trợ bằng vốn cổ phần có
à
lợi hơn.
- Nếu EBIT trùng với điểm hịa vốn EBIT, bất chấp phương thức tài trợ thì
EPS là khơng đổi.
-Nếu EBIT vượt qua điểm hịa vốn thì đường tài trợ bằng vốn cổ phần và
vốn vay nằm trên đường tài trợ bằng vốn cổ phần, do đó tài trợ bằng vốn cổ phần và
vốn vay có lợi hơn.
1.4 Mối quan hệ giữa độ nghiêng địn cân định phí và độ nghiêng đòn cân nợ
Đòn bẩy tổng hợp xảy ra khi một doanh nghiệp sử dụng cả hai đòn bẩy kinh
doanh và địn bẩy tài chính trong nổ lực gia tăng thu nhập thu nhập cho cổ đơng. Nó
tiêu biểu cho độ phóng đại của gia tă (hay sụt giảm) doanh thu thành gia tăng
ng
(hay sụt giảm) tương đối lớn hơn trong thu nhập mỗi cổ phần, do việc doanh nghiệp
sử dụng cả hai loại đòn bẩy. Tác động số nhân tổng hợp được gọi là độ nghiêng đòn
bẩy tổng hợp hay là độ nghiêng đòn cân tổng hợp (DTL).
Độ nghiêng đòn bẩy tổng hợp (DTL) được xác định là phần trăm thay đổi
trong thu nhập mỗi cổ phần từ phần trăm thy đổi cho sẵn trong doanh thu
a
(sản lượng).
Độ nghiêng đòn bẩy tổng hợp (DTL) là mối quan hệ giữa doanh số và EPS.
Nó biểu diễn độ nhạy của EPS khi doanh số thay đổi.
D TL tại X =

Phần trăm thay đổi trong EPS
Phần trăm thay đổi trong doanh thu


Nó cho thấy khi doanh số tăng lên 1% thì EPS tăng lên một khoản bằng
DTL %. Và ngược lại, khi doanh số giảm 1% thì EPS sẽ giả một khoản bằng DTL
%. DTL cịn có thể viết thành:


×