Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đề tài: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.42 KB, 31 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự toàn cầu hoá, hứa hẹn nhiều
biến chuyển. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các công ty đa quốc gia
cùng với phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội
cùng chạy đua trên con đường phát triển. Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa
ngày càng được chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội. Chúng ta
đang sống trong giai đoạn chứng kiến những sự thay đổi nhanh chóng trong tổng
thể nền kinh tế, kĩ thuật, công nghệ, và những biến đổi khác trong chính trị, xã
hội. Tất cả đem lại cho thời đại một sắc màu riêng.
Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển
mình để không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển.Trong bối cảnh đó, xu
hướng mở cửa, hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính
phủ ta. Thể hiện điều này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư
trực tiếp nước ngoài, cho phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. Qua đó đã thu hút được một lượng vốn lớn thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tuy nhiên quá trình đó còn găp nhiều thách thức, cần có sự nỗ lực từ hai phía.
Cũng từ những suy nghĩ trên em đã chọn đề tài “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam” để tìm hiểu thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài và các tác động của nó đối với nền kinh tế nước ta. Bài làm gồm có ba
phần:
2
- Phần I: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Phần II: Thực trạng về thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
- Phần III: Những tác động của thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp


Mặc dù em đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô
trong bộ môn Luật kinh tế để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này, nhưng do sự
nhận thức còn chưa đầy đủ và thời gian nghiên cứu ít nên còn nhiều thiếu sót. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
3
NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1 Khái niệm
Cho đến nay vấn đề đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ đối với các
nước trên thế giới. Tuy nhiên các quốc gia vẫn không thống nhất được khái niệm về
đầu tư nước ngoài. Vì thế có thể nói đây là vấn đề khá phức tạp, không dễ dàng gì có
được sự thống nhất về mặt quan điểm khi mà mỗi quốc gia về cơ bản đều theo đuổi
những mục đích riêng của mình hoặc do ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế-xã hội của
chính nó.
Để đưa ra một khái niệm hoàn hảo là một điều khó khăn nhưng ta hãy tạm
hiểu đầu tư nước ngoài một cách đơn giản.
Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu
kinh tế –xã hội nhất định.
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình
thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung
và hỗ trợ cho nhau, trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các
công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. Đối với
họ, việc buôn bán hàng hoá ở nước khác là một bước đi thăm dò thị trường, luật lệ,
và cơ hội để đưa tới một quyết định đầu tư. Nó như một chiếc chìa khoá vàng mở
cửa cho lợi nhuận chảy vào túi của các nhà tư bản, khi họ được khai thác một
nguồn tài nguyên thường là cực kì phong phú, và xuất khẩu một khối lượng lớn
máy móc và trang thiết bị cho các nước đó. Còn đối với các nước sở tại, việc chấp

nhận đầu tư nước ngoài cũng là tạo một cơ hội mới cho mình trong việc phát triển
nền kinh tế. Đó là một điều kiện tốt để các nước này tận dụng tối đa nguồn vốn
nước ngoài, tiếp cận với công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ lao động, phát triển
được một số ngành cơ sở. Bên cạnh đó cũng thu được một lợi nhuận đáng kể từ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài đang
ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính
quy luật trong liên kết, hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay.
Căn cứ vào tính chất sử dụng của tư bản thì đầu tư nước ngoài thường được
chia làm hai hình thức là : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ
trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Đầu tư gián tiếp : bao gồm hình thức đầu tư nước ngoài mà trong đó phần vốn
góp của chủ đầu tư nước ngoài không đủ để trực tiếp tham gia điều hành đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư, hình thức tín dụng, hay mua trái phiếu quốc tế …
Trong pháp luật Việt Nam:
4
Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày
18/04/1977 thì khái niệm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được hiểu là “việc đưa
cở sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
* Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ.
* Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh phương pháp
cộng nghệ, bí quyết kỹ thuật
* Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ.
* Vốn bằng ngoại tệ để chi trả lương cho nhân viên và công nhân làm việc tại
các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định ở những điều của Điều lệ
này (Điều 2 Điều lệ đầu tư 1977).
Như vậy, theo Điều lệ này thì sự vận động của vốn và tài sản chỉ được coi là
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nếu có đủ hai điều kiện sau:

+ Đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn được quy định tại điều 2
của Điều lệ.
+ Nhằm mục đích xây dựng cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, các cơ
sở hiện có.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là
“việc các tổ chức, các cá nhân nước trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp
tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là
“việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ
tài sản nào để tiến hành các hoạt ddộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Như vậy, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khái niệm đầu tư nước
ngoài được hiểu như sau:
+ Là hình thức đầu tư trực tiếp.
+ Là việc bên ngoài (nước đầu tư) trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư
tại Việt Nam.
- Khái niệm về đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài năm 1987 sau
đó là luật năm 1996 đã phát triển hơn nhiều so với phạm vi nội dung khái niệm đầu
tư nước ngoài được quy định ở điều lệ đầu tư 1977 khi cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài “được đầu tư trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân” (Điều 3 luật
đầu tư nước ngoài 1987, 1996).
=>Tóm lại, từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản nhất định
vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về hình thức đầu
tư, thể hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu hút vốn đầu tư
của nhiều nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước ta phát triển
ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giới.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo luật đầu tư nước ngoài của
Việt Nam)
5

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài bỏ 100% vốn tại nước sở tại, và có quyền điều hành toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp theo quy định, pháp luật của nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư
nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Các bên tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro
theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của bên nước ngoài
không được ít hơn 30% vốn pháp định.
Hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh : đây là một văn bản được kí kết giữa
một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến hành một hay
nhiều hoạt động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cở sở quy định về trách nhiệm để
thực hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành
một pháp nhân mới.
Các hình thức khác : ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở Việt Nam
còn có các hình thức khác như : hợp đồng xây dựng –kinh doanh –chuyển giao
(BOT), hợp đồng xây dựng –chuyển giao –kinh doanh ( BTO), hợp đồng xây dựng
–chuyển giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.3. Vị trí và ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a, Vị trí
- Đầu tư nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng. Nó thúc đẩynền kinh tế
phát triển nhanh và toàn diện hơn.
- Đầu tư nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản lý cho nước
nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết
và quan trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới.
b, Ý nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh
tế của một nước.

- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động.
1.4. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yếu tố đối nội, đối
ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội có liên quan đến hoạt động
của các nhà đầu tư. Một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
phải đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:
1.4.1.Sự ổn định về chính trị-xã hội.
+ Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà đầu tư. Vì
chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì các chính sách, chủ trương của
Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững, đặc biệt là các chủ trương chính sách
nhất quán về đầu tư nước ngoài.
6
+ Các quốc gia luôn xảy ra những biến động về chính trị thì rất khó thu hút
các dự án đầu tư hoặc các nhà đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chuyển vốn
về nước hoặc sang nước khác có chính trị ổn định hơn.
+ Ở Việt Nam, giai đoạn đầu những năm 80 các nhà đầu tư còn chưa mặn mà.
Chỉ đến khi Đảng và Nhà nước ta có những thay đổi căn bản trong chính sách ,có
một Bộ luật đầu tư nước ngoài hoàn chỉnh hơn và đặc biệt là tình hình chính trị-xã
hội ở đất nước ta đã ổn định nên đã thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng
kể (khoảng 37 tỷ USD) như ngày nay.
1.4.2. Sự phát triển về kinh tế
+ Phát triển kinh tế được hiểu là sự phát triển đồng bộ trên các mặt: tăng
trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch xuất nhập khẩu, hệ
thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các loại.
+ Ở nước ta,do sự phát triển kinh tế chưa đồng bộ nên chưa tạo ra một môi
trường đầu tư hấp dẫn :
* Hệ thống giao thông tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn lộn xộn, chồng
chéo.

* Hệ thống bưu chính viễn thông trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ
vượt bặc nhưng giá cước phí vẫn đắt đỏ.
* Hệ thống ngân hàng và các hoạt động dịch vụ khác còn nhiều bất cập, chưa
thuận lợi đối với các nhà đầu tư.
* Phân bố của các dự án đầu tư không đồng đều. Nhìn vào phân bố địa bàn
đầu tư ở nước ta, ta nhận ra rằng chỉ ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM,
Hải Phòng. Bà Rịa Vũng Tàu mới có nhiều dự án. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên
Giang, An Giang có rất ít thậm chí không có dự án đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu
kém. Các nhà đầu tư không dám đầu tư vì khả năng rủi ro quá cao.
1.4.3. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài phải rõ ràng, ổn định
+ Đây là một yếu tố mà các nhà đầu tư rất quan tâm, vì nó đảm bảo quyền lợi
trực tiếp của họ.
+ Hệ thống pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia của nước sở
tại điều chỉnh hoạt động đầu tư như : Luật đầu tư, các Luật khác có liên quan đến
hoạt động đầu tư, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật.
+ Nội dung các quy định của hệ thống pháp luật kể trên phải đảm bảo hai vấn
đề quan trọng là :
* Các quy định về ưu đãi, khuyến khích đầu tư như : ưu đãi về miễn thuế,
giảm thuế, quyền hoạt động kinh doanh.
* Các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp của
các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về luật ).
Ngoài ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài phải
đảm bảo tính đồng bộ, tính minh bạch.
+ Nước ta mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy đủ nhưng
các văn bản hướng dẫn thi hành luật lại vô cùng rắc rối, thậm chí còn mâu thuẫn
với nhau, gây khó khăn cho các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, các thủ tục hành
7
chính rườm rà, sách nhiễu đã gây phản cảm cho các nhà đầu tư nước ngoài. Dẫn
đến tác hại không nhỏ đối với môi trường đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu tư. Đó

là một yếu tố cần loại bỏ đầu tiên trong quá trình xây dựng một môi trường đầu tư
hấp dẫn hơn trong giai đoạn mở cửa của nền kinh tế nước ta.
Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số yếu tố
khác như văn hoá, du lịch có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu tư hấp dẫn với
các nhà đầu tư.trực tiếp
Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải
tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư đồng thời phải đặc biệt
chú ý cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, tiến tới áp dụng một
mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Đầu tư quốc tế (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa đang diễn
ra ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và nước xuất khẩu đầu
tư, thúc đẩy các nước này gia tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh
tế của nước mình.
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ một quốc gia
nào trên thế giới.FDI đã đem lại một hơi thở mới cho nền kinh tế thế giới. Mở cửa
cho sự toàn cầu hóa lan rộng khắp thế giới. Ta có thể thống kê lại được những vai
trò chính của FDI như sau :
a, Đối với các nước xuất khẩu đầu tư
Đối với các nhà đầu tư nó không chỉ đem lại cho họ một thị trường rộng lớn,
một tỉ suất lợi nhuận cao, một khoản lợi nhuận khổng lồ .Mặt khác, bằng cách đầu
tư về kinh tế một phần họ đã có ảnh hưởng lớn tới mọi mặt của nước được đầu tư,
tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước, thực chất là một chi nhánh của
các công ty mẹ ở chính quốc. Việc lập các doanh nghiệp ở nước sở tại sẽ mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng là biện pháp thâm nhập thị trường
hữu hiệu, tránh được các hàng rào thuế quan của các nước này .
Mặt khác, FDI còn giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, bởi tận
dụng được những lợi thế so sánh của nước sở tại như : nguồn tài nguyên thường

phong phú, nguồn nhân công rẻ, bên cạnh đó còn tiết kiệm được chi phí vận
chuyển, quảng cáo, tiếp thị…. Do đó rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu
được lợi nhuận cao.
FDI còn giúp chủ đầu tư tìm được nguồn cung nguyên vật liệu ổn định.
Ngoài ra, FDI còn giúp các chủ đầu tư đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công
nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
b, Đối với các nước tiếp nhận đầu tư
Còn đối với các nước được đầu tư, uỷ ban thương mại và phát triển của liên
hợp quốc (UNCTAD) đã chỉ ra rằng FDI có vai trò quan trọng đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước này, giúp huy động mọi nguồn lực
như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ vào trong quá trình sản xuất.
8
Hoạt động FDI đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, làm
tăng tổng sản phẩm quốc dân, nâng cao phúc lợi xã hội, tăng thu nhập của người lao
động; ảnh hưởng đến văn hoá, đạo đức, lối sống… của nước tiếp nhận đầu tư.
Việt Nam chúng ta là một nước tiếp nhận đầu tư. Và chúng ta rất kì vọng vào
nguồn vốn này. Do đó chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ về những vai trò của FDI trong sự
phát triển của nền kinh tế nước ta.
2.1. FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán
Chúng ta thường nói “đôi tay ta sẽ làm nên tất cả”. Nhưng thực sự thì
Trong xã hội ngày nay để làm kinh tế trước tiên chúng ta phải có vốn. Nếu có thể
ví nền kinh tế là một cỗ máy, thì có thể nói vật tư kĩ thuật tạo nên cỗ máy đó là tài
nguyên mà có thể chúng ta có, con người với tri thức công nghệ sẽ làm cho nền
kinh tế ấy tạo ra sản phẩm. Nhưng vốn mới chính là dầu bôi trơn cho toàn bộ quá
trình sản xuất. Không có vốn chúng ta sẽ chỉ sản xuất được ở một giới hạn nào đó
mà thôi.
Vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản xuất.
Chúng ta biết rằng,vốn đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế thường được huy động
từ hai nguồn là vốn trong và ngoài nước.Vốn trong nước thường được huy động từ
trong dân, từ quá trình phát triển kinh tế nội tại.Vốn nước ngoài đến từ các khoản

đầu tư trực tiếp (FDI) hay viện trợ (ODA),và các khoản chuyển giao khác Đối với
các nước nghèo và các nước đang phát triển, những nước có xuất phát điểm thấp,
nền kinh tế còn lạc hậu và gặp nhiều khó khăn, thì vốn là một yếu tố đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế. Thế nhưng các nước này lại luôn lâm vào tình
trạng thiếu vốn, họ luôn phải đối mặt với những khó khăn do thiếu hụt vốn gây ra.
Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang và kém phát triển,
Paul.A.samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này là một
vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
Ông chỉ ra rằng, ở các nước này thu nhập của người dân thấp làm cho tiết
kiệm và đầu tư thấp, do đầu tư thấp nên trình độ khoa học công nghệ thấp, dẫn đến
năng suất lao động thấp, kết quả là sản lượng và thu nhập thấp … Cái “Vòng luẩn
quẩn" ấy cứ lặp đi lặp lại theo chu kì như trên. Như vậy các nước này muốn phát
triển cần phải có một cú huých từ bên ngoài để phá vỡ đi cái vòng luẩn quẩn. Hoạt
động FDI đã cung cấp cho các nước kém và đang phát triển một nguồn vốn lớn.
Nhờ đó họ có thể huy động mọi nguồn lực vào đầu tư trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. làm tăng tổng thu nhập quốc dân, thu nhập người dân được cải thiện,
mức sống ngày càng được nâng cao.Vậy ta có thể xem FDI là một cú huých lớn
phá vỡ cái vòng nghèo đói trên.
Không những làm cho nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói,
các nước đang và kém phát triển còn gặp không ít khó khăn trong việc mở rộng
quy mô sản xuất hay đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động do trong
nước không có đủ lượng vốn cần thiết. Lượng hàng hoá trong nước không đủ đáp
ứng nhu cầu dẫn đến tình trạng nhập siêu, gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất
nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt, thiếu dự trữ ngoại tệ …
9
Vì vậy FDI sẽ thúc đẩy xuất, nhập khẩu và làm tăng thu ngoại tệ, cải thiện tình
trạng thâm hụt cán cân thanh toán
Trong khoảng ba thập kỉ gần đây, các nước công nghiệp mới ( NIC ) Châu Á
đã nhận được trên 50 tỷ USD vốn FDI, đây là một nhân tố quan trọng tạo nên bước
phát triển vượt bậc của các nước này, để từng bước khẳng định vị thế của mình

trên trường thế giới.
Tại những nước đang phát triển, một phần vốn lớn đang nằm trong dân. Đây
là một hạn chế lớn khi để một lượng lớn vốn “chết”trong khi rất nhiều doanh
nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Hoạt động FDI tạo động lực huy động
được nguồn vốn này đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua hoạt động này
các nước cũng tiếp thu được cách quản lý mới và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của
mình.
2.2. FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ
Công nghệ có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất. Công nghệ
tiên tiến tạo nên bước nhảy cho sản phẩm, nâng cao chất lượng, giảm giá thành,
điều này kích thích tiêu dùng dẫn đến kích thích sản xuất và tăng tổng thu (GDP)
của nền kinh tế quốc dân.Tuy vậy các nước đang phát triển và kém phát triển lại
thường sở hữu một nền công nghệ lạc hậu, trang thiết bị tồi tàn, năng suất thấp,
bên cạnh đó khả năng quản lý kém nên khả năng sản xuất cũng có nhiều hạn chế.
Việc đổi mới cải tiến công nghệ là một yêu cầu cấp bách. Dựa trên lợi thế của
những nước đi sau, ứng dụng những công nghệ hiện đại, nó sẽ giúp những nước
này theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những nước công nghệ phát triển. Tuy
nhiên việc nhập khẩu công nghệ hiện đại của nước ngoài đòi hỏi một khoản ngoại
tệ rất lớn, gần như hầu hết các nước không đủ khả năng chi trả. Thông qua FDI
bằng con đường chuyển giao công nghệ, các nước đang phát triển đã được tiếp cận
với những kĩ thuật hiện đại và từng bước đổi mới nền sản xuất của mình.
- Đối với chuyển giao công nghệ : Việc chuyển giao công nghệ ngày nay đã
có nhiều thay đổi, nó không chỉ đơn thuần là chuyển giao các may móc thiết bị từ
nước phát triển sang các nước đang và kếm phát triển, mà nó còn là chuyển giao
liên quan đến việc sử dụng dây chuyền công nghệ, kỹ năng sử dụng công nghệ,
phần mềm công nghệ. Chuyển giao công nghệ được tiến hành theo hai phương
thức. Đó là chuyển giao trực tiếp và chuyển giao gián tiếp.
+ Chuyển giao trực tiếp là hoạt động đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu nước
có công nghệ chuyển giao. Đây là hình thức chuyển giao mà bên nhận phải bỏ chi
phí lớn và thời gian tiếp nhận cao.

+ Chuyển giao gián tiếp là hiện tượng chuyển giao chủ yếu được thực hiện
thông qua hình thức FDI. Công nghệ được các công ty đa quốc gia chuyển giao
trực tiếp phần cứng và phần mềm từ nước gốc đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau khi
chuyển giao công nghệ trực tiếp được các chuyên gia kỹ thuật lành nghề của nước
đi đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp bất kì trở ngại nào.Công nghệ được
chuyển giao theo hình thức này được mang danh nghĩa là chuyển giao giữa công ty
mẹ sang công ty con nên sẽ không phải trả chi phí cho quyền sở hữu công nghệ và
nó sẽ rẻ hơn rất nhiều so với chuyển giao trực tiếp. Đây là ưu điểm lớn nhât của
10
chuyển giao công nghệ trong hoạt động FDI so với các hình thức chuyển giao công
nghệ khác.Nhìn chung FDI đã trở thành một kênh chuyển giao công nghệ có hiệu
quả nhất, nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất. Chuyển giao công nghệ qua FDI đã
làm cho “khoảng cách công nghệ “giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhân đầu tư
được thu hẹp.
- Đối với hoạt động phổ biến công nghệ: Hoạt động FDI đã tạo ra hiệu ứng
tích cực đối với các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư.
Khi có FDI, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh trên thị trường
với một đối thủ mạnh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải thiện và nâng
cao công nghệ để việc sản xuất có hiệu quả cao. Khi nhà đầu tư nước ngoài hợp tác
với các chi nhánh hoăc doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư hoặc có sự di chuyển
lao động có trình độ chuyên môn cao từ chi nhánh công ty nước đầu tư sang doanh
nghiệp nước nhận đầu tư thì cũng có quá trình chuyển giao công nghệ.
2.3. FDI góp phần nâng cao chất lượng lao đông phat triển nguồn nhân lực, tạo
thêm việc làm, giảm thất nghiệp
Chúng ta biết rằng năng suất lao động quyết định tốc độ tăng trưởng của một
quốc gia. Mà năng suất lao động lại phụ thuộc vào chất lượng lao động, trình độ
tay nghề. Do vậy, để nâng cao tốc độ tăng trưởng, để phát triển được nền kinh tế,
trước hết ta cần nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng lao động.Hoạt
động này không phải có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà là cả một quá
trình đào tạo. Khi có hoạt động FDI, người lao động của chúng ta được tiếp xúc

với một tri thức mới, một cung cách làm việc mới đã dần dần nâng cao được trình
độ của mình.
Các chi nhánh nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn FDI thường tuyển dụng
lao động địa phương để tiết kiệm chi phí sản xuất do đó đã tạo thêm nhiều việc làm
tạo điều kiện cho lao động tìm được những việc làm phù hợp với trình độ và năng
lực, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo thu nhập cho người lao động, nâng
cao mức sống.
Tuy nhiên, hầu hết các lao động địa phương làm việc trong các doanh nghiệp
FDI đều là các lao động thời vụ, có trình độ tay nghề và chuyên môn thấp do
không được đào tạo một cách chuyên nghiệp. Do đó các doanh nghiệp FDI muốn
sử dụng lực lượng lao động này cần phải đào tạo. Qua quá trình đào tạo người lao
động được tiếp cận với những công nghệ hiện đại và tác phong làm việc công
nghiệp dần dần tạo cho họ một chất lượng tốt hơn. Mặt khác, ngoài đào tạo những
lao động kỹ thuật thông thường, các doanh nghiệp FDI còn đào tạo cho chúng ta
một lực lượng các nhà quản lý.
Ví dụ như công ty dầu lửa Shell của Anh ( UK ) với doanh thu là 600 triệu
USD / 1 năm đã bỏ ra 1,2 triệu USD dành cho việc đào tạo nghề và 2,5 triệu USD
dành cho đào tạo cơ bản tại Nigeria.
Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp cũng gián tiếp nâng cao chất lượng lao động
của nước tiếp nhận đầu tư. Ngày nay chất lượng và trình độ lao động của nước
nhận đầu tư là một trong những tiêu chí quan trọng để các công ty đa quốc gia tiến
hành hoạt động đầu tư ở các nước này. Bởi vì, khi ở nước đó có trình độ chuyên
11
môn cao họ không phải tốn chi phí cho việc đào tạo lao động. Chính điều này là
động lực thúc đẩy các nước tiếp nhận đầu tư có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
để thu hút được nhiều vốn FDI.
2.4 FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế hay nói cách khác
là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Một cơ
cấu kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Hoạt động FDI qua công nghệ, kĩ năng và trình độ đã có tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế - một trong ba yếu tố cơ bản cấu thành nên cơ cấu kinh tế dẫn đến
việc thay đổi và dịch chuyển cơ bản cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Thực tế cho thấy, hoạt động FDI chủ yếu đầu tư vào sản xuất công nghiệp và dịch
vụ, tỉ lệ đầu tư tương đối thấp trong ngành sản xuất nông nghiệp. Chính điều này
đã làm thay đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu tư theo hướng công nghiệp
hoá và đưa nền kinh tế các nước này tham gia vào phân công lao động quốc tế một
cách mạnh mẽ. Hoạt động FDI tập chung vào các ngành quan trọng của nền kinh tế
chẳng hạn như các lĩnh vực : Công nghiệp chế tạo, công nghiệp lắp ráp,… có trình
độ công nghệ tương đối cao. khi tỉ trọng ngành công nghiệp ổn định trong nền kinh
tế đã phát triển lên thì các nước này có thể tham gia vào việc phân công lao động
quốc tế thông qua việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng có lợi thế so
sánh đối với các nước khác.
2.5. FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
FDI đã tham gia vào quá trình xây dựng năng lực xuất khẩu với nguồn vốn và
công nghệ mà FDI mang lại cùng đội ngũ lao động được đào tạo bài bản, chuyên
môn cao, năng suất lao động được cải thiện rõ rệt ; nhiều sản phẩm mới, mẫu mã
đẹp, chất lượng cao ngày càng đáp ứng được nhu cầu . Điều này làm cho hàng hoá
ở các nước được đầu tư trở nên đa dạng và phong phú cả về chất lượng và số
lượng, năng lực xuất khẩu tăng lên.
FDI mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các nước tiếp nhận đầu tư thông
qua các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoặc các công ty đa quốc gia. Các
doanh nghiệp FDI có lợi thế xuất khẩu hơn so với doanh nghiệp trong níc về thị
trường, thương hiệu sản phẩm. Thông qua hệ thống công ty mẹ và công ty con của
các công ty đa quốc gia, sản phẩm được xuất khẩu thuận lợi từ công ty này sang
công ty khác ở các quốc gia khác nhau. Những công ty đa quốc gia này có mối liên
hệ chặt chẽ với thị trường nước nhập khẩu và có nhiều thị trường xuất khẩu thông
qua quảng cáo, tiếp thị sản phẩm. Xuất khẩu của các chi nhánh trong cùng một tập
đoàn đa quốc gia cũng sẽ làm giảm chi phí giao dịch.
Chính do những đóng góp to lớn của FDI vào việc thúc đẩy xuất khẩu mà các

nước đầu tư đã đảy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới, và tăng độ mở cửa của
nền kinh tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá. Các nước này đã sử dụng
nguồn vốn FDI như là một lá bài chính trong chiến lược “ Công nghiệp hoá hướng
về xuất khẩu “. Một số nước có tỉ lệ đóng góp của tư bản nước ngoài vào việc xuất
khẩu khá lớn, chẳng hạn như Singapore là 72,1% ; brazil 32,2%, mexico 32,1% ;
Đài Loan 25.6% … (Nguồn : giáo trình sau đại học môn ‘kinh tế quốc tế’).
12
2.6. FDI góp phần bảo vệ môi trường, khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
Chúng ta luôn luôn phải sống trong sự đánh đổi. Không bao giờ có một cái gì
đó toàn vẹn.Phát triển kinh tế cũng vậy, để phát triển kinh tế có khi chúng ta phải
trả giá bằng cả những thứ quý giá, đó là môi trường.
Theo đánh giá của các tổ chức bảo vệ môi trường trên thế giới thì tốc độ tănh
trưởng kinh tế luôn tỷ lệ thuận với tốc độ huỷ hoại môi trường. Nguyên nhân của
tình trạng phá huỷ môi trường chủ yếu là do trong quá trình sản xuất, các doanh
nghiệp đã sử dụng những công nghệ lạc hậu, trình độ và nhận thức của người quản
lý và người lao động đối với vấn đề bảo vệ môi trường còn yếu, nhất là chưa có hệ
thống quản lý môi trường trong các doanh nghiệp. Những tồn tại này chủ yếu xảy
ra đói với các doanh nghiệp của các nước đang phát triển và kém phát triển.
Nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư thường sở hữu công nghệ sạch, tiên tiến và có
hệ thống quản lý môi trường tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh
đó, khi cho phép các doanh nghiệp FDI đầu tư tại nước mình, các nước tiếp nhận
đầu tư thường yêu cầu rất chặt chẽ vấn đề xử lý môi trường, tiêu chuẩn môi trường
trong sản xuất. Do vậy, dưới sức ép của các nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư
nước ngoài bắt buộc trong quá trình sản xuất phải dáp ứng các tiêu chuẩn môi
trường do các nước tiếp nhận đầu tư dặt ra. Diều này đã góp phần bảo vệ môi
trường và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các nước tiép
nhận đầu tư.
Việc áp dụng công nghệ sạch, tiên tiến có lợi cho môi trường đã tạo ra những
ảnh hưởng ngoại vi tích cực đối với các doanh nghiệp trong nước và gây sức ép đối
với các doanh nghiệp này phải có biện pháp xử lý môi trường trong hoạt động sản

xuất kinh doanh . Nhiệm vụ của các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước
đang phát triển là phải tối thiểu hoá ảnh hưởng có hại của tăng trưỏng kinh tế đối
với môi trường và tối đa hoá tác động có lợi của tăng trưởng kinh tế đối với môi
trường.
2.7. FDI góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
Quan hệ đầu tư quốc tế xuất hiện từ thế kỉ 18, trong thời kì này các nước có
quan hệ đầu tư với nhau trên cơ sở tự nguyên, có lợi ích và chưa đặt ra cho nhau
các nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế trong
phạm vi giữa các quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới biểu hiện tự do hoá trong
4 lĩnh vực thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tư vào thương mại dịch vụ.
Như vậy, đầu tư là một trong 4 lĩnh vực được các quốc gia xem xét tự do hoá.
FDI đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa các quốc gia đầu tư và tiếp
nhận đầu tư, làm cho quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu.
Những cam kết về tự do hóa đầu tư nước ngoài được coi như là những quan điểm
hội nhập kinh tế quốc tế của từng quốc gia. Cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu
vực và trên thế giới diễn ra theo chiều sâu và rộng, các nước trên thế giới đã có
nhiều hình thức áp đặt các cam kết tự do hoá lĩnh vực đầu tư.
Trên đây, chúng ta nói về lợi ích của các nước nhận đầu tư khi các nước này
là các nước đang hoặc kém phát triển. Đó là xu hướng đầu tư sang những nước
13
kém phát triển hơn để tận dụng được những lợi thế so sánh của họ qua đó làm giảm
chi phí sản xuất. Và còn để mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ngày nay, trên thế giới thịnh hành một loại hình đầu tư khác. Đó là đầu tư sang
các nước tư bản phát triển. Và họ đầu tư chủ yếu ở các ngành có hàm lượng kĩ thuật
cao. Như thế sẽ có lợi hơn rất nhiều khi đầu tư vào những ngành kĩ thuật cơ bản.
Chúng ta thường quan niệm các nước công nghiệp phát triển là các nước xuất
khẩu đầu tư nhưng thực sự đây là một môi trường đầu tư lí tưởng. Bởi nội tại họ đã
có một nền công nghệ tiên tiến, sẽ không phải tốn kinh phí đầu tư nghiên cứu cũng
như ứng dụng công nghệ mới. Mặt khác, tận dụng được những trang thiết bị có
sẵn, người lao động có tay nghề và trình độ cao. Những ngành sản xuất với hàm

lượng kĩ thuật cao sẽ rất thích hợp trong điều kiện này.
Đây là những nước xuất khẩu FDI nhiều nhất, nhưng cũng tiếp nhận vốn
nhiều nhất hiện nay, tạo nên luồng đầu tư hai chiều giữa các quốc gia, trong đó các
tập đoàn xuyên quốc gia( TNCs) đóng vai trò chủ chốt.
Nguồn vốn FDI có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế của các nước
này và chiến lược của các TNCs, đặc biệt là tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật của
nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế, mở rộng nguồn thu của chính
phủ, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và kiềm chế lạm phát …
3.Hạn chế của FDI
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của FDI đối với việc phát triển
kinh tế, xã hội. Tuy nhiên bên cạnh nhưng ảnh hưởng tích cực đó nó cũng gây nên
những ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy,
khi đánh giá tác động của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chung ta không
nên chỉ đánh giá những mặt tích cực mà cần phải xem xét, nghiên cứu cả các mặt
tiêu cực của hoạt động này để từ đó có thể đưa ra những chính sách nhằm hạn chế
mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực của hoạt động FDI.
Sau đây là một số mặt hạn chế của hoạt động FDI.
3.1 Hoạt động FDI làm ảnh hương xấu đến chất lượng môi trường
Như chúng ta đã biết, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn tỷ lệ thuận với tốc độ ô
nhiễm môi trường. Muốn có tốc độ tăng trưởng cao thì con người phải sử dụng,
khai thác tài nguyên thiên nhiên và những chất thải từ hoạt động sản xuất là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường. Hoạt động FDI chủ yếu
được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và những chất thải nếu không
được xử lý và kiểm soát chặt chẽ từ những nhà máy do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập sẽ gây ra ô nhiễm môi trường. Một trong những lý do thúc đẩy hoạt động
đầu tư tại các nước kém và đang phát triển đó là tiêu chuẩn kiểm soát môi trường ở
những nước này thấp hơn những nước phát triển. Nhiều nước tiếp nhận đầu tư
thậm chí đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà không đặt ra
các tiêu chuẩn chặt chẽ về môi trường.
Bên cạnh những tác động gây ô nhiễm môi trường thông qua hoạt động sản

xuất trực tiếp, việc chuyển giao công nghệ lạc hậu từ các nước đầu tư sang các
nước tiếp nhận đầu tư là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
14
Các nước đi đầu tư chủ yếu là các nước phát triển. ở những nước này công
nghệ luôn là những công nghệ hiện đại, tiên tiến. Các hoạt đông nghiên cứu và
triển khai công nghệ mới luôn được chú trọng. Khi công nghệ mới được tìm ra thì
họ sẽ thay thế, loại bỏ công nghệ cũ để nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong quá trình
đó họ cần nơi thải những công nghệ lạc hậu. Do chi phí để thực hiện việc này ở
các nước phát triển là rất cao nên họ đã biến các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là
các nước kém và đang phát triển thành những bãi rác thải công nghệ. Thông qua
đó họ không những giảm được phí thải mà còn kiếm thêm được một số nguồn thu.
3.2 FDI làm giảm hiệu quả sản xuất
Ngoài việc gây ra ô nhiễm môi trường, việc chuyển giao công nghệ cũng làm
giảm hiệu quả sản xuất tại các nước tiếp nhận đầu tư. Công nghệ là một trong bốn
yếu tố phát triển kinh tế nếu áp dụng công nghệ lạc hậu sẽ kìm hãm phát triển kinh
tế ở những nước tiếp nhận đầu tư. Một số nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển giao
công nghệ đã không chuyển giao toàn bộ công nghệ mà chỉ chuyển giao một phần
công nghệ dẫn đến tình trạng chắp vá, không đồng bộ. Đối với một số nước kém
phát triển, khi chuyển giao công nghệ không phù hợp với năng lực tiếp nhận công
nghệ cũng không làm tăng hiệu quả sản xuất. Năng lực tiếp nhận công nghệ của
những nước kém và đang phát triển thường là thấp do điều kiện về con người và cơ
sở vật chất của những nước này kém hơn so với những nước phát triển.Những
công nghệ tiên tiến được chuyển giao nhiều khi không khuyến khích hoạt động sản
xuất và tiêu dùng ở những nước kém phát triển.
3.3.Những mặt hạn chế khác
Ngoài những hạn chế trên hoạt động FDI còn gây nên một số tác động tiêu
cực khác như :
-Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường chịu ảnh
hưởng rất lớn bởi các công ty xuyên quốc gia.Việc hợp nhất, sáp nhập và giải thể
của các công ty này với xu hướng ngày càng tăng trên thế giới là nguyên nhân dẫn

đến tình trạng người lao động bị sa thải ở các doanh nghiệp FDI. Điều này đã làm
cho thu nhập của người lao động không ổn định và giảm, làm cuộc sống của
người lao động lâm vào tình trạng khó khăn, chất lượng cuộc sống không được
đảm bảo, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
-Những công ty FDI, đặc biệt là những công ty xuyên quốc gia thường sở
hữu công nghệ hiện đại., trình độ tổ chức sản xuất, vốn lớn hơn so với các doanh
nghiệp trong nước do vậy sẽ gây nên những tác động tiêu cực đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này. Trong nhiều trường hợp, hàng
hoá, dịch vụ của các công ty xuyên quốc gia chiếm ưu thế hơn so với doanh nghiệp
trong nước dẫn đến doanh nghiệp trong nước dần mất dần thị trường,và do năng
lực cạnh tranh kém hơn nên có thể lâm vào tình trạng phá sản hoặc bị thôn tính.
Nhiều nghành sản xuất mới trong nước khó có thể cạnh tranh được với các công ty
độc quyền do vậy sẽ bị ảnh hưởng trong quá trình sản xuất.
-Do phải nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, công nghệ,
chuyển lợi nhuận, vay nợ nước ngoài …sẽ là một trong những nguyên nhân tiềm
ẩn gây thâm hụt cán cân thanh toán của một quốc gia.
15
- Do thành công trong hoạt động kinh doanh, những công ty FDI và các công ty
xuyên quốc gia ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động xã hội, chính trị. Các
công ty xuyên quốc gia có thể can thiệp vào chính sách, quyết định phát triển kinh tế
của một quốc gia và hoạt động chính trị ở nước tiếp nhận đầu tư.
II. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 ĐẾN NAY
1.Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1989
Vào tháng 12 năm 1987 quốc hội Việt Nam đã lần đầu tiên thông qua luật
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện các chương trình
lớn. Việc làm này của đảng và nhà nước ta đã khuyến khích và tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động FDI phát triển làm cho hoạt động FDI có những chuyển biến quan
trọng tạo nên những bước đột phá trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn
FDI và khuyến khích nhiều công ty của các nước phát triển đầu tư vào Việt Nam

thay vì hoạt động đầu tư chỉ xảy ra giữa các nước xã hội chủ nghĩa như trong giai
đoạn trước.
Cụ thể, trong giai đoạn này Việt Nam đã thu hút được 213 dự án với tổng số
vốn đăng ký là 1793,3 triệu USD. trong đó tổng số vốn pháp định là 1007,4 triệu
USD.Tốc độ tăng trưởng vốn của FDI của các năm sau cao hơn so với các năm
trước cả về số lượng lẫn chất lượng.
Tuy nhiên hoạt động tăng trưởng vốn FDI trong giai đoạn này còn nhiều hạn
chế so với các nước trong khu vực và trên thế gới. bởi vì Việt Nam vừa mới thay đổi
chính sách về FDI, cơ sở hạ tầng kĩ thuật còn yếu nên chưa tạo được lòng tin đối với
các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều quy định của luật đầu tư còn là rào cản đối với hoạt
động FDI, chưa khuyến khích và bảo đảm cho các nhà đầu tư.
2. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1996.
Nhận thấy được những mặt còn hạn chế trong các chính sách đầu tư, sang
giai đoạn này luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được sửa đổi và bổ sung qua các
năm 1990, 1992 và được hoàn thiện vào năm 1996 nhằm đáp ứng yêu cầu về thu
hút nguồn vốn FDI và xu thế hội nhập với các nước trên thế giới. Điều này đã làm
cho vốn FDI vào Việt Nam tăng đều đặn qua các năm.
Trong giai đoạn này Việt Nam đã thu hút được thêm 1655 dự án với tổng số
vốn đăng ký tăng là 25181 triệu USD. Tính bình quân quy mô của mỗi dự án là
15,21 triệu USD / dự án. Đến cuối năm 1996, Việt Nam đã thu hút được 1868 dự
án với tổng số vốn đăng kí là 269743 triệu usd. Giai đoạn này cho thấy nhịp độ thu
hút vốn FDI có xu hướng tăng rất nhanh qua các năm và không có sự suy giảm về
nguồn vốn FDI.
Tình hình thực hiện vốn FDI trong giai đoạn từ 1991 đến 1996
Năm Số dự án
Vốn đăng kí
(triệu USD)
Quy mô
(triệu
USD)

So với năm trước (%)
Số dự án Vốn đăng kí Quy mô
1991 151 1322,3 8,76 139,81 157,60 112,74
1992 197 2165,0 11,0 130,46 163,73 125,57
1993 269 2900,0 10,78 136,55 133,95 98,00
16
1994 343 3765,6 10,98 127,51 129,85 101,85
1995 370 6530,8 17,65 107,87 173,43 160,75
1996 325 8497,3 26,15 87,84 130,11 148,16
Tổng 1655 25181 15,21
( Nguồn : Niên gián thông kê năm 2002, NXB Thống Kê )
Qua bảng trên ta thấy, vốn đăng kí đều có tốc độ tăng trưởng năm sau cao
hơn năm trước. Cụ thể, năm 1992 so với năm 1991 tăng 163,73% ; Năm 1993 so
với năm 1992 tăng 133,95%; năm 1994 so với năm 1993 tăng 129,85% ; năm 1995
so với năm 1994 tăng 173,43%; năm 1996 so với năm 1995 tăng 130,11%. Đặc
biệt trong năm 1996, lượng vốn FDI tăng vượt trội so với các năm là do có hai dự
án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được
phê duyệt với quy mô dự án lớn nhất so với quy mô các dự án đã được phê duyệt
( hơn 3 tỷ USD / 2 dự án.)
3.Giai đoạn từ năm 1997 đến nay.
Để khắc phục những mặt hạn chế của khung pháp luật hiện hành về FDI ;
tiếp tục tạo dựng môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh thông thoáng, ổn định,
có sức hấp dẫn và cạnh tranh cao, năm 1998 Chính phủ ta đã có những giải pháp
tạm thời như : điều chỉnh mục tieu hoạt động của nhiều dự án ; bổ sung các biện
pháp khuyến khích đầu tư và bảo đảm đầu tư; xử lý linh hoạt chuyển đổi hình thức
đầu tư… và đến tháng 6 năm 2000 Quốc hội Việt Nam đã thông qua luật sửa đổi,
bổ sung một số điều luật ĐTTTNN của năm 1996. Nhờ những cải cách chính sách
này mà chúng ta đã thu hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn FDI, ngăn chặn được tình
trạng suy giảm vốn FDI.
Trong giai đoạn 1997 đến nay Việt Nam đã thu hút được thêm 4054 dự án

với tổng số vốn đăng ký tăng 20.355,7 triệu USD so với thời kì năm 1991 đến năm
1996. Tính bình quân quy mô của mỗi dự án là 5,02 triệu USD/dự án. Giai đoạn
này cho thây nhịp độ thu hút vốn FDI có xu hướng giảm mạnh so với năm 1995,
năm 1996. Nguyên nhân xuất hiện dòng vốn FDI vào Việt Nam giảm dần từ năm
1997 là do cuộc khủng hoảng kinh tế -tài chính khu vực châu á. Phần lớn các
nguồn vốn FDI vào Việt Nam (trên 70% ) đều bắt nguồn từ các nước châu á, trong
đó các nước ASEAN chiém gần 25%, các nước và lãnh thổ ở khu vực đông bắc á
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan chiếm trên 31%. Khi nền kinh tế các nước này
rơi vào tình trạng khủng hoảng cùng với sự phá sản hàng loạt của các công ty lớn
nên các nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính. Do vậy đầu tư ra nước
ngoài của các nhà đầu tư ở những nền kinh tế này bị giảm sút. Tuy vậy đây cũng
không phải là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng hoạt động FDI ở Việt Nam
giảm sút mà còn do một số nguyên nhân khác. Đó là do điều kiện nội tại của nền
kinh tế Việt Nam và môi trường đầu tư kếm hấp dẫn so với các nước khác trong
khu vực và trên thế giới.
Tình hình thực hiện vốn FDI trong giai đoạn từ 1997 đến 2004
Năm
Số dự
án
Vốn đăng kí
(triệu USD)
Quy mô (triệu
USD)
So với năm trước (%)
Số dự án Vốn đăng kí Quy mô
1997 345 4649,1 13,48 106,15 54,71 58,23
17
1998 275 3897,0 14,17 79,71 83,83 105,12
1999 311 1568,0 5,04 113,09 40,24 35,57
2000 371 2012,4 5,42 119,30 128,30 107,5

2001 523 2535,5 4,85. 140,97 125,99 92,55
2002 754 1557,7 2,06 144,16 61,43 42,47
2003 752 1914,0 2,55 0,99 122,87 123,78
2004 723 2222,0 3,07 0,96 116,09 120,39
Tổng 4054 20.355,7 5,02
Qua bảng trên ta thấy sự tăng giảm vốn FDI qua các năm như sau : năm
1997 so với năm 1996 giảm 54,71% ; năm 1998 so với năm 1997 giảm 83,83% ;
năm 1999 so với năm 1998 giảm 40,24% ; năm 2000 so với năm 1999 tăng
128,3%; năm 2001 so với năm 2000 tăng 125,99% ; năm 2002 so với năm 2001
giảm 61,43% ; năm 2003 so với năm 2002 tăng 122,87% và năm 2004 tăng
120,39% so với năm 2003. Quy mô dự án được cấp phép trong giai đoạn này nhìn
chung là không lớn so với giai đoạn trước.
III.NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP
1. Những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
1.1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tính từ khi luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành vào năm 1987
đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta luôn trong tình trạng không ổn
định. Thời kì đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là từ năm 1992 đến năm 1997 với
mức tăng trưởng GDP trên 8%. Sau một thời gian chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997-1998, tốc đọ tăng trưởng GDP có xu hướng
giảm sút và thấp nhất là 4,8% vào năm 1999. Tuy vậy, trong mấy năm trở lại đây,
từ năm 2002, 2003, 2004 nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao
hơn nhiều so với những năm trước đây và mang tính ổn định cao : 7,12% (2002);
7,24% ( 2003) và 7,6% năm 2004. Đạt dược tốc độ tăng trưởng như trên phải kẻ
đến vai trò quan trọng của hoạt động ĐTTTNN trong việc làm gia tăng sản lượng
GDP. Từ mức đóng góp 2% của hoạt động FDI đối với GDP trong năm 1992 thì
trong 3 năm gàn đây từ năm 2002 đến năm 2004 tỷ lệ này đã đạt tới con số 13,9% ;
14,3% ; 14,5%. Như vậy có thẻ nói tốc đọ tăng trưởng GDP của nền kinh tế Việt
Nam cùng chiều với đóng góp của hoạt động FDI và tỷ lệ dống góp ngày càng

tăng.
1.2.FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế
Kể từ khi có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn FDI, vốn FDI thực
hiện tăng nhanh qua các năm : thời kì từ năm 1991 đén năm 1995 đạt trên 7,15 tỷ
USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội ; thời kì từ năm 1996 đến năm
2000 đạt trên 12,8 tỷ USD chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và gấp trên 1,8
lân thời kì từ năm 1991 đến năm 1996. Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với GDP trong
thời kì từ năm 1996 đến năm 2000 đã đạt trên 6%.
Riêng thời kì từ năm 2001 đến năm 2005 tổng số vốn đầu tư toàn xã hội vào
khoảng 830 – 850 nghìn tỷ đồng, tương đương với 59 – 61 tỷ USD, tăng khoảng
18
11- 12% / năm.Trong đó tổng số vốn ĐTTTNN chiếm khoảng 16-17% tổng số vốn
đầu tư toàn xã hội. Trên thực tế mấy năm gần đây tổng số vốn FDI thực hiện đạt
trên 8 tỷ USD, riêng năm 2003, vốn đầu tư vào Việt Nam đã đạt 4,2 tỷ USD.
1.3.FDI góp phần chuyển giao công nghệ
Một trong những định hướng quan trọng cho nến kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay là tăng nhanh tiềm lực kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; vừa
tăng thêm sản lượng của các năng lực sản xuất hiện có vùa xây dựng mới nhiều xí
nghiệp với ưuy mô thích hợp, mở thêm nhiều ngành, nghề mới; vừa đổi mới nhanh
chóng công nghệ, nâng cao năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất.
Thông qua hoạt động FDI đã tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực thúc đẩy việc
nghiên cứu và áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Nhiều công nghệ mới và hiện đại đã được chuyển giao thông qua
hoạt động FDI, tạo bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển một số ngành mũi
nhọn của đất nước. Việc chuyển giao những công nghệ mới, hiện đại vào Việt
Nam không chỉ có lợi cho hoạt động sản xuất của chính doanh nghiệp FDI đó mà
còn có tác dụng phổ biến những công nghệ này cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế khác, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng
những công nghệ mới trong các doanh nghiệp và tại các cơ sở nghiên cứu khác ở
Việt Nam.Qua đó hoạt động FDI đã góp phần nâng cao năng lực công nghệ của

nước ta.
Trong ngành công nghiệp và xây dựng thì những công nghệ được sử dụng
tại các dự án có vốn FDI đều là những công nghệ hiện đại hơn so với công nghệ
vốn đã tồn tại ở nước ta trước khi có hoạt động FDI. Cụ thể là các nhà đầu tư nước
ngoài đã chuyển giao và phát triển tại Việt Nam công nghệ khai thác dầu khí ngoài
khơi, lắp đặt tổng đài kĩ thuật số, robot, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử,
mạch điện tử, công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông tin, cáp điện … Đi kèm
với những công nghệ hiện đại này là những dây chuyền sản xuất tương đối hiện đại
trên thế giới. Việc chuyển giao công nghệ này đã góp phần làm tăng năng suất lao
động, nâng cao khả năng sản xuất một số mặt hàng mới, có lợi thế so sánh so với
các nước khác làm gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Trong ngành nông,lâm,ngư nghiệp, các dự án FDI đầu tư thường tập trung
chủ yếu vào trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản thực phẩm, chế biến thức ăn
gia súc, trồng rừng và chế biến gỗ Phần lớn các dự án này được đầu tư vào vùng
có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn như : Phú thọ, Tuyên Quang, Hải Dương,
… Việc thu hút các dự án có vốn FDI trong lĩnh vực này đã góp phần tích cực
trong việc đẩy mạnh công nghệ hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Nhiều
loại vật nuôi, giống cây trồng mới cùng với những dây chuyền chế biến hàng nông
sản – thực phẩm tiên tiến đã dược nhập khẩu và chuyển giao vào nước ta.
Trong ngành dịch vụ thì việc chuyển giao công nghệ không được tiến hành
mạnh mẽ như đối với lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. chuyển giao công
nghệ được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn. Nhiều dự án
đầu tư với những tập đoàn nổi tiếng của các nước trên thế giới như: Singapore,
Đài Loan, Nhật Bản… đã đầu tư vào Việt Nam. Những dự án này đã góp phần vào
19
quá trình chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý kinh doanh khách sạn cho phía
đối tác Việt Nam và tạo nên hiệu ứng tích cực đối với các thành phần kinh tế khác
cùng kinh doanh lĩnh vực này.
1.4. FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động hiện đang được xã hội quan

tâm và coi đây là một trong những nhân tố góp phần làm choa xã hội ngày càng
phát triển, công bằng và bền vững. Mọi người đều có việc làm sẽ làm giảm các vấn
đề xã hội. Kể từ khi có hoạt dộng FDI ở Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài không
những thu hút và sử dụng lao động mà còn tạo ra những hiệu ứng tích cực đối với
vấn đề giải quyết việc làm gián tiếp.
Có thể nhận thấy lực lượng lao động trong các dự án có vốn FDI tăng lên
hàng năm. Cuối năm 1993, số lao động trong các dự án co vốn FDI chỉ có 49.892
lao động, đến năm 1994 là 88.054 lao động, tăng 1,76 lần. Trong 4 năm gần đây
khu vực FDI đã giải quyết một khối lượng lớn lao động Việt Nam, năm 2001 khu
vực này đã thu hút thêm 6,9 vạn lao động, tăng 19% ; năm 2002 có thêm 17,5 vạn
lao động được thu hút vào khu vực FDI, tăng 39%, năm 2003 thu hút thêm 7,5 vạn
lao động, tăng 12,7 % và năm 2004 thu hút thêm 7,4 vạn lao động.
Bên cạnh việc trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động thông qua việc
tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc trong các công ty FDI, đầu tư trực
tiếp nước ngoài còn giải quyết công ăn việc làm thông qua các hoạt động gián tiếp.
Cùng với sự phát triển của khu vực FDI, một số khu vực sản xuất cung ứng sản
phẩm cho khu vực này thuộc các thành phần kinh tế khác cũng phát triển theo. Các
thành phần kinh tế khác phát triển sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm cho người lao
động. Hiện nay, với chính sách tăng dần tỷ lệ nội địa hoá trong các doanh nghiệp
có vốn FDI như công ty chế tạo ô tô, xe máy, giày da, may mặc … đã hình thành
một số doanh nghịêp vệ tinh cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho các doanh
nghịêp FDI. Việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh sẽ nảy sinh tuyển dụng thêm
lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Để kiểm định kêt quả tạo việc làm gián tiếp của khu vực FDI các nhà nghiên
cứu đã thực hiện nhiều cuộc điều tra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp FDI bên cạnh thu hút và
sử dụng lao động trực tiếp thì số việc làm gián tiếp do khu vực này tạo ra còn cao
gấp nhiều lần. Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là các doanh
nghiệp hoat động trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản
thường có tỷ lệ việc làm gián tiếp trên việc làm trực tiếp cao nhất.

Như vậy, ngoài khả năng thu hút lao đọng trực tiếp thì khu vực FDI đã đóng
vai trò rất quan trọng trong việc thu hút lao động gián tiếp của các doanh nghiệp
khác thuộc mọi thành phần kinh tế.
Yêu cầu về trình độ lao động trong hu vực FDI cao hơn nhiều so với các
doanh nghiệp trong nước. Yêu cầu này đã gián tiếp nâng cao chất lượng lao động
của Việt Nam. Bởi vì, chính phủ phải thông qua các cơ sở đào tạo dài hạn hoặc
ngắn hạn và có kế hoạch đào tạo lao động Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của các
doanh nghiệp có vốn FDI.Đối với từng cá nhân người lao động, yêu cầu này còn
20
khuyến khích, nâng cao ý thức tự rèn luyện trình độ lao động trước khi tham gia
vào làm việc trong khu vực FDI. Thông qua hoạt động FDI, người lao động đã
được đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học,công nghệ và đủ sức
thay thế chuyên gia nước ngoài ; được đào tạo, nâng cao tay nghề, tiếp thu những
kỹ năng công nghệ tiên tiến ; được làm việc trong môi trường lao động an toàn, vệ
sinh, được rèn luyện tác phong lao động công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế
lao động mới ; thu nhập ngày càng tăng lên so với khu vực kinh tế khác.
1.5 FDI góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam trước những năm thực hiện chính sách đổi mới là nền
kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp ; một nền kinh tế nông nghiệp, tỷ
lệ lao động trong lĩnh vực này chiếm 80% dân số. Từ khi thực hiện chính sách kinh
tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
cơ cấu kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến cơ bản.
Trong thời gian qua hoạt động FDI đã góp phần quan trọng vào quá trình cải
thiện cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tốt, ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu của Việt Nam.
-Đối với việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, hoạt động FDI đã giúp cơ
cấu ngành kinh tế theo GDP có xu hướng phát triển hợ lý phù hợp với mục tiêu
tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP.
Nếu như hoạt động FDI những năm đầu tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh

doanh khách sạn, văn phòng cho thuê,…thì trong thời kì từ năm 1995 đến năm
2004 đã có chuyển bién tích cực, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật
chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 58% năm 1995 lên 82% vào năm 2004.
FDI trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn đăng ký và
82% vốn thực hiện. Về giá trị sản lượng công nghiệp cả nước, FDI hiện chiếm gần
35% với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công
nghiệp cả nước đạt từ 11 – 13%/ năm. FDI đã tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm
mới góp phần làm tăng đáng kể năng lực ngành công nghiệp Việt Nam.
FDI trong các ngành dịch vụ chiếm 36% vốn đăng ký và vốn thực hiện. Hoạt
động FDI đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng dịch vụ cả nước đạt từ 6,8 – 7%/
năm.
FDI trong các ngành nông lâm nghiệp chiếm 8% vốn đăng ký và 6% vốn
thực hiện. Hoạt động FDI góp phần đưa tốc độ tăng trưởng nông nghiệp cả nước
tăng 4,2%/năm.
+Đối với cơ cấu vùng kinh tế, trước đây hoạt động FDI chủ yếu tập trung
vào những tỉnh, thành phố lớn như : Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dương, Hà Nội, Hải Phòng,…Tuy vậy trong thời gian gần đây, vốn FDI đang được
đầu tư mạnh vào các vùng nông thôn, các địa phương có điều kiện kinh tế đặc biệt
khó khăn như các tỉnh miền núi phía bắc, các tỉnh duyên hải miền trung, các địa
phương thuộc vùng đông bằng sông Cửu Long,…Việc đầu tư vào các địa bàn này
đã góp phần thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ; góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
21
1.6. FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
Xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng
thu nhập cho nền kinh tế các nước nói chung và Việt Nam ta nói riêng. Cũng như
các nước đang phát triển khác, cán cân thanh toán của nước ta luôn trong tình trạng
thâm hụt. Hoạt động FDI đã góp phần vào việc hạn chế một phần nào đó tình trang
thâm hụt cán cân thanh toán thông qua thặng dư xuát khẩu và chuyển vốn đầu tư
vào Việt Nam.

Kể từ khi có hoạt động FDI tại Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của khu vực
này đã góp phần vào tăng trưởng xuất khảu chung của cả nước, góp phần đưa Việt
Nam đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. trong một số măt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, xuất khảu của khu vực FDI đã chiếm tới
42% đối với mặt hàng giày dép, 25% đối với mặt hàng may mạc và 84% với hàng
điện tử, máy tính và linh kiện. tỷ trọng xuất khẩu so với các doanh thu của các
doanh nghiệp FDI tăng nhanh : Tính bình quân thời kì năm 1991 đến năm 1995 đạt
gần 30% ; thời kì 1996 – 2000 đạt 48,7%. Ngoài ra, khu vực FDI đã góp phần mở
rộng thị trường trong nước ; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, dặc
biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công
nghệ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc
tiếp cận với các thị trường quốc tế.
Đối với cán cân thanh toán, trong những năm đầu việc mở rộng nguồn thu
ngoại tệ gián tiếp từ hoạt đông FDI thông qua khách tham quan, tìm hiểu cơ hội
đầu tư, tiền chop thuê đất, tiền lương cho lao động khu vực FDI, tiền cung cấp
nguyên vật liệu ….đã góp phần cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán.Bên
cạnh đó, tỷ trọng tăng trưởng xuất khẩu khu vực FDI trong nền kinh tế cũng đã góp
phần duy trì và cải thiện cán cân thanh toán cho Việt Nam. Trong khu vực FDI,
trong năm 1995 thặng dư cán cân thương mại là 5 triệu USD ;trong 2 năm gần
đây : năm 2002 là 1,184 triệu USD và năm 2003 là 1,300 triệu USD,tăng gấp nhiều
lần so với năm 1995. Đồng thời dòng vốn đầu tư ra của doanh nghiệp Việt Nam
gồm cả doanh nghiệp có vốn FDI và doanh nghiệp không có vốn FDI luôn nhỏ hơn
số vốn thu hút đầu tư vào trong nước.
1.7. FDI góp phần vào quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế
Hoạt động FDI thể hiện sự phân công lao động quốc tế, sự hợp tác với nhà
nước, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Hoạt động FDI đã góp một phần quan trọng
trong quá trình thực hiện chính sách đối ngoại của cả nước ; góp phần thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. ĐTTTNN đã giúp Việt

Nam từng bước phá thế bao vây cấm vận, bình thường hoá quan hệ với các tổ chức
tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB,… bình thường hoá và kí hiệp định thương
mại Việt Nam – Hoa Kì ; gia nhập ASEAN,…Đến nay đã có 66nước và vùng lãnh
thổ có dự án FDI tại Việt Nam.Trong tổng số vốn đăng ký đã cấp giấy phép, nguồn
vốn từ châu âu, mỹ, canada, australia đạt trên 14 tỷ USD, chiếm gần 36,5%, vốn từ
22
một số nền kinh tế Đông Bắc á đạt 15,18 tỷ USD, chiếm 39,2%, từ các nước
ASEAN đạt 8,46 tỷ USD, chiếm 22%.
2. Những mặt hạn chế, tồn tại của hoạt đông FDI đối với phát triển kinh tế ở
Việt Nam
Bên cạnh những đóng góp đối với tăng trưởng kinh tế của nước ta, FDI vẫn
còn một số mặt hạn chế như :
Vốn đầu tư tuy đã tăng qua các năm nhưng còn ở mức thấp, đặc biệt lại có
xu hướng giảm dần tỉ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng FDI trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm từ 24% trong giai đoạn 1995 – 1999 xuống
còn 17% trong giai đoạn 2000- 2004.
Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa khắc phục
được tình trạng mất cân đối theo ngành kinh tế và theo địa bàn đầu tư. FDI mới chỉ
tập trung vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Bình Dương, do đó mục tiêu gọi vốn vào các địa bàn khó khăn như các
tỉnh vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã không đạt được. Mặt khác vốn đầu tư cho các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong cơ
cấu vốn đầu tư trực tiếp mặc dù đây là ngành kinh tế Việt Nam có lợi thế so sánh
và rất cần gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Trong khi đó, FDI lại tập trung
nhiều ở lĩnh vực khách sạn du lịch đã dẫn đến tình trạnh thừa nên không khai thác
hết công suất thiết kế dẫn đến tình trạng mất cân đối cơ cấu vốn đầu tư giữa các
ngành kinh tế trong nước.
Hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp FDI chưa cao chỉ khoảng 50% số
doanh nghiệp có lãi còn lại là không có lãi hoặc lỗ, có khoảng 200 dự án bị giải
thể với tổng số vốn bị giải thể gần 3 tỷ USD.

Tính khả thi của các dự án đầu tư không cao cho thấy đội ngũ cán bộ làm
công tác thẩm định các dự án đầu tư còn quá yếu dẫn đến hiệu quả sử dụng các
nguồn lực trong nước lãng phí.
Tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài sau một thời gian giảm sút đã có sự phục
hồi nhưng còn chậm và không cao nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực.
3. Nguyên nhân của tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
Trong mấy năm gần đây, vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng tăng nhưng
tăng không đáng kể. Chẳng hạn, năm 2000 thu hút được 2.695,7 triệu đôla, năm
2001 tăng lên 3.230 triệu đôla, nhưng năm 2002 chỉ thu hút được 2.963 triệu đôla,
năm 2003 cũng chỉ hơn 3.145,7 triệu đôla, năm 2004 là 4.222,2 triệu đôla. Có tình
trạng trên là do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trước hết đó là các nguyên nhân chủ quan, có thể kể đến một vài nguyên nhân sau:
- Một là, môi trường pháp lý vẫn chưa minh bạch, chưa rõ ràng, thiếu tính nhất
quán, hệ thống luật pháp hay thay đổi, làm cho các nhà đầu tư khó khăn khi tiếp
xúc với hệ thống pháp lý, làm xáo trộn các phương án kinh doanh của các nhà đầu
tư và làm tổn hại tới lợi ích của họ. Bên cạnh đó, việc ban hành các thông tư
hướng dẫn, một số chính sách về thuế…còn chậm.
23
Lấy dẫn chứng cụ thể chứng minh tính không đồng bộ, thiếu tính nhất quán,
hay thay đổi của hệ thống pháp luật.
- Hai là, môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa đồng
bộ, thiếu sự kết hợp và thiếu tính ổn định; nhiều công cụ tài chính và nhiều thị
trường chưa hoạt động đầy đủ và phát huy hiệu quả gây trở ngại cho quá trình thực
hiện đầu tư của các nhà đầu tư. Mặc dù chính phủ đã lập một số dự thảo cho phép
xây dựng thêm các khu công nghiệp ở các địa phương, hay mở cửa thị trường
chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh (tháng 7/2000), nhưng vẫn chưa đủ để có
thể thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư vào Việt Nam. Dưới con mắt của các
nhà đầu tư thì còn có nhiều trở ngại như: thủ tục cấp giấy phép còn rườm rà tuy là
đã có một số giấy phép không cần thiết đã được bãi bỏ, mức dự trữ ngoại tệ của
Việt Nam chưa cao, chi phí thông tin liên lạc đắt đỏ, thuế suất thuế thu nhập vẫn

cao, 50%, thuế nhập khẩu linh kiện của nhiều loại sản phẩm còn cao, dẫn đến giá
của thành phẩm cao hơn so với các nước trong khu vực, và còn bắt buộc mua một
số linh kiện nội địa sử dụng cho nhiều loại mặt hàng…
- Ba là, Việt Nam còn thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết hoặc có
quy hoạch nhưng chất lượng chưa cao, dẫn tới tình trạng một số ngành, một số lĩnh
vực có vốn FDI có lượng sản phẩm vượt quá nhu cầu hiện tại (như các dự án
khách sạn, sản phẩm điện tử gia dụng, ô tô…), dẫn tới tình trạng không lãi. Việc
quy hoạch chi tiết ở các địa phương chồng chéo, chèn lấn nhau, gây nên tình trạng
cạnh tranh không bình thường để lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất. Và
một phần là do tại các cấp chính quyền địa phương xảy ra tệ quan liêu, tham
nhũng. Đồng thời vốn FDI phân bổ tập trung ở Đông Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ,
các thành phố chính và phân bổ rất ít ở miền núi phía Bắc, các tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên.
- Bốn là, công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài vừa cồng kềnh,
vừa trùng lặp, vừa buông lỏng quản lý, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của
doanh nghiệp. Việc quản lý kiểm tra trùng lặp làm cho các doanh nghiệp không
cảm thấy hài lòng; song nhiều khi lại sơ hở trong các trường hợp chuyển giá, gian
lận thương mại, trốn thuế, đưa các thiết bị cũ, lạc hậu vào Việt Nam hoặc lợi dụng
độc quyền để đẩy giá sản phẩm lên cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
- Năm là, các hình thức đầu tư nước ngoài chưa phong phú, hạn chế khả năng
góp vốn và hiệu quả sử dụng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với một số
ngành kinh doanh như gas và xăng dầu chịu mức thuế suất 50% làm cho các nhà
đầu tư không cảm thấy hấp dẫn chút nào.
- Sáu là, chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp, thiếu lao động lành nghề,
lao động có kỹ thuật, có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại. Hơn nữa, cán bộ
quản lý trong các liên doanh, cán bộ quản lý FDI còn thiếu kiến thức về kinh tế thị
trường, không nắm vững pháp luật và trình độ ngoại ngữ còn yếu, chưa phát huy
hết khả năng của mình trong công việc.
Ngoài ra chúng ta còn có thể kể đến một số các nguyên nhân khác như: do
thiếu cung cấp các dịch vụ công cần thiết cho những đối tác đầu tư và thương mại;

24
do cơ sở hạ tầng (đường xá, sân bay, bến cảng…) còn thiếu thốn và chưa thực sự
hiện đại…
Bên cạnh đó là phải kể đến một vài nguyên nhân khách quan như: sự suy thoái
của nền kinh tế thế giới, bắt đầu từ Mỹ đầu năm 2000 rồi sau đó lan dần đến các
khu vực còn lại của thế giới. Và việc Trung Quốc gia nhập WTO đã làm cho môi
trường đầu tư của Trung Quốc trở nên thông thoáng hơn, thu hút được rất nhiều sự
chú ý của các nhà đầu tư quốc tế. Một số nước trong khu vực như Thái Lan,
Inđônêsia, Singapore, Bruiney…cũng không ngừng cải thiện môi trường đầu tư của
mình.
4. Giải pháp cho quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng lượng vốn FDI vào Việt Nam
đã tăng dần. Có điều đó là do sự nỗ lực của chính phủ trong sửa đổi các chính sách,
xoá bỏ dần những rào cản, tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư. Có thể
kể đến như: sự thay đổi tỷ lệ ký gửi ngoại tệ trong tài khoản “quản lý và giữ hộ” tại
ngân hàng được giảm bớt xuống còn 40% ( vào tháng 5/2002) và đến tháng 4/2003
thì bãi bỏ, xây dựng mới một số kết cấu hạ tầng cơ sở…
Mặc dù vậy lượng vốn cần cho đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước ngày
càng tăng và việc tăng cường thu hút thêm nguồn FDI là cực kỳ cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng. Đồng thời với việc tạo ra những điều kiện cần thiết để thu hút
FDI, sử dụng có hiệu quả nguồn FDI đã tạo lập được là giảm thiểu những hiệu ứng
tiêu cực của nó nhằm mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư và lợi ích cho quốc
gia. Cụ thể các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng
FDI vào Việt Nam là:
4.1.Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức đầu tư
a.Về mở rộng lĩnh vực đầu tư
- Triển khai các đề án đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng sau:
+ Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài để Việt Nam sớm trở thành một
trong những trung tâm sản xuất khu vực về điện tử, cơ khí chế tạo ; tăng cường thu

hút đầu tư nước ngoài để phát triển mạnh các ngành công nghiệp hỗ trợ
+ Đẩy nhanh tiến độ hình thành các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn.
+ Rà soát các quy định về tạm dừng hoặc hạn chế cấp giấy phép đầu tư nước
ngoài để xem xét, nới lỏng điều kiện đầu tư phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường
theo cam kết hội nhập khu vực và quốc tế
+ Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài để góp phần cải thiện cuộc
sống của người dân
+ Rà soát để mở rộng những lĩnh vực hưởng ưu đãi khuyến khích hoặc đặc
biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài
- Ban hành kịp thời các chính sách để thu hút đầu tư nườc ngoài vào những
lĩnh vực đầu tư như khu công nghệ cao, kinh doanh bất động sản, dịch vụ phân
phối, giáo dục, đào tạo. Cụ thể:
+ Ban hành quy chế khu công nghệ cao và chính sách ưu đãi thu hút đầu tư
nước ngoài.
25

×