Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

ánh sáng của sự sống và hạnh phúc? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.93 KB, 43 trang )

ánh sáng của sự sống và hạnh phúc?




Tác giả nói về tác phẩm:

1. “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi
dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó cũng thuộc về
bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở
khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó
(…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là
những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn

khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách
mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do
cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.

2. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của
con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi
cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn
hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không
phải là sự giành giật nhau (…). Bối cảnh của truyện
là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân
vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói.
Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số
phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó h
ọ sẽ
bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới,
dù là rất mong manh.


3. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào
đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình
người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng
vào tương lai.

II. Một số điểm lưu ý trong quá trình tiếp cận tác
phẩm:

1. Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ:

Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm
đầy ám ảnh của cái chết rình rập cuộc sống những
người dân ở xóm ngụ cư. Không gian tối sầm vì đói
khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay, thây người
chết còng queo, người sống dật dờ, lặng lẽ nh
ư bóng
ma. Cái đói hiện hình trên gương mặt một anh ch
àng
vô tâm như Tràng , làm thay đổi diện mạo và thói
quen cố hữu, đè nặng lên đôi vai, cái lưng gấu, dập
tắt “nụ cư
ời tủm tỉm”. Ngay cả những đứa trẻ cũng “ủ
rũ”. Bầu không gian dự báo tai ương ập đến bất kỳ
lúc nào. Ấy là những ngày đói Ất Dậu khiến những
người đã qua năm 2000 “nhắc lại vẫn rùng mình”
(Nam Cao).

Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tr
àng
về làng cùng người đàn bà lạ mặt. Điều không bình

thường hiện ra trên khuôn mặt “phớn phở khác
thường” và nụ cười “tủm tỉm” trở lại trên môi Tràng.
Điều khác lạ trong thái độ của Tràng thay đ
ổi với đám
trẻ con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện tạo ra
sự tò mò ngạc nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm
vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc sống tăm tối đói khát
nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường trực về cái
đói và cái chết lấn át. Kim Lân đã đem đến cho ngư
ời
đọc cảm giác ái ngại, xót xa cho sự trớ trêu của số
phận người nghèo trước thực tại khủng khiếp.Hạnh
phúc thành hình trên nền cuộc sống tột cùng bi kịch,
khi sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con
đường duyên phận thành con đường rước thêm “cái
của nợ đời” khiến những người biết nghĩ đều phả
ithở dài ái ngại. Bóng tối mở ra mênh mông, mùi gây
của xác người, tiếng quạ vẫn gào lên thê thiết. Nỗi
bất hạnh dường như đang chờ ở phía trước.

2. Con đường về nhà Tràng - s
ự thay đổi trong tâm lý
nhân vật:

Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước
thường nhật của anh Tràng nghèo khổ, xấu xí khiến
Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống mọi người.
Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của
riêng anh. Kim Lân đã khắc họa những chi tiết thật
sống động về một gã trai được vợ “thích ý”, “cái mặt

cứ vênh vênh tự đắc với mình”. Cũng là tiếng “càu
nhàu” nhưng khác hẳn với cái “càu nhàu” của người
đàn bà cảm thấy sự hẩm hiu của thân phận, Tràng t

ra bối rối thật sự trước hạnh phúc đang được tận
hưởng. Mọi cử chỉ thật buồn cười: “lật đật”, “nhìn
ngang nhìn ngửa”, “như người xấu hổ chạy trốn”.
Kim Lân đã lồng vào giữa cảnh đói khát những tiếng
cười hóm hỉnh về một anh chàng có vợ để xua dần
không khí đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh phúc
giữa hai người.

Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã
hiện lên trên “con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa
hai bờ tre cao vút”. Chỉ còn “tiếng gió trên bờ tre rì
rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn chân”. Đó
là không gian dành cho những đôi lứa tâm tình.
Nhưng Kim Lân hoàn toàn không có ý định thi vị hoá
câu chuyện, bởi từ suy nghĩ đến lời nói, hành động
của các nhân vật vẫn chập chờn những nỗi lo thư
ờng
trực.

Chỉ “trong một lúc” ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lý
giải được sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn Tràng,
tạo mối dây ràng buộc hai con ngư
ời khốn khổ lại với
nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với Tràng,
khoảnh khắc ấy vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm
tỉm cười cùng anh, giúp anh “quên hết những cảnh

sống ê chề, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe
doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt”. R
õ ràng,
đối với Tràng hạnh phúc không còn là sự vô tình
ngẫu nhiên nữa. Nó giúp anh tự tin hơn, tự chủ đư
ợc
tình cảm của mình. Thiêng liêng thay phút
ấy hai chữ
“tình nghĩa”, như dự báo khả năng của con người
từng bước vượt qua hoàn cảnh, tiếp sức cho con
người vượt lên định mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối
đồng cảm đầu tiên cho những người trước đó còn xa
lạ.

Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ
đối thoại và tiếng cười của những người trong cuộc.
Câu chuyện giữa hai ngư
ời mang theo không khí chờ
đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã kéo
hai con người khốn khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ
ngàng khi đến lúc này thị mới quan tâm đến gia cảnh
của Tràng. Vẻ ngờ nghệch của anh trai quê đã làm
nên nụ cười “tủm tỉm” của người đàn bà. Kim Lân
quả thật đã dụng công mô tả tiếng cười của từng
nhân vật. Từ nụ cười “tủm tỉm” thường nhật của
Tràng đến nụ cười “tủm tỉm” của thị đã có một ý
nghĩa khác nhau. Để rồi niềm vui nhân lên, lan toả
làm thành khoảnh khắc “bật cười” của Tràng khi ngộ
ra bản thân, rồi cả âm vang “hì hì…” ý nhị và hài
hước, cuối cùng bùng lên thành khoảnh khắc “hắn

thích chí ngửa cổ cười khanh khách” rồi “phì ra cười”
làm hiện rõ một anh Tràng đang ngập tràn vui sư
ớng.
Đó cũng là lúc họ nói với nhau bằng ngôn ngữ của
vợ chồng, rất quê mùa nhưng cũng rất đáng yêu.

Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi
họ chạm vào cái cổng nhà Tràng, bước vào “cái nhà
vắng teo rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”. Sự thực nghèo khó phơi bày trần
trụi khiến hạnh phúc bỗng trở nên chơi vơi. Tràng ch

biết “cười cười” khoả lấp nhưng nỗi thất vọng đã hi
ện
rõ, khi “thị nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Đến lúc này,
thực tại buộccon người phải đối diện với nó, khiến
con người không dám tự tin chính mình để làm nên
hạnh phúc. Ranh giới hạnh phúc - bất hạnh thật
mong manh khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị như nói
lên tất cả nỗi tủi hổ, đắng cay của một kiếp đàn bà
khốn khổ: “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư
khư cái thúng, mặt bần thần”. Không ai báo trước
được điều gì sẽ xảy đến trong mối quan hệ của hai
con người đói khổ ấy. May mắn thay, giữa lúc đang
“tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét”, “loanh quanh” rối bời
ấy, Tràng vẫn còn “tủm tỉm cười” được. Dẫu sao anh
cũng đã có những phút giây để được sống trong
hạnh phúc. Dẫu cho hạnh phúc ấy đang có nguy cơ
tuột khỏi tầm tay như một trò đùa của số phận, tràng
vẫn còn cảm giác được một cách đầy đủ về ý nghĩa

thiêng liêng của bước ngoặt đời mình: “Ra hắn đã có
vợ rồi đấy ư?”. Khi ý thức được nhen lên, chắc chắn
con người có đủ dũng khí để vượt lên hoàn cảnh,
không để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay.

3. Người vợ nhặt:

Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với
Tràng không phải là nàng tiên hạnh phúc. Câu
chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ quả thật
là một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ,
duyên phận buộc ràng. Kim Lân đã tạo nên nh
ững ấn
tượng thật khó quên về thị - một kẻ không t
ên, không
tuổi, không nhà, không lai lịch – như một nạn nhân
cùng cực đáng thương của cái đói và miếng ăn.

Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng ăn
trong cuộc sống người dân cùng trước cách mạng
tháng Tám. Ngô Tất Tố đã để nước mắt chị Dậu rơi
lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm chó (T
ắt
đèn). Nam Cao khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức
hủy diệt của cái đói - miếng ăn với nhân tính trong
bao truyện ngắn đầy nước mắt xót thương của ông
(Lão Hạc, Một bữa no). Kim Lân trở về với đề tài hi
ện
thực cũ, đã dựng nên một tình huống bi hài có một
không hai: bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng.


Để kiếm miếng ăn, thị dường như đã đánh mất tất cả
sự dịu dàng kín đáo thùy mị của người phụ nữ. Ngay
từ lúc xuất hiện đầu tiên, thị đã nhảy xổ vào Tràng
với tất cả vẻ “cong cớn”, “ton ton” và ỡm ờ “liếc mắt,
cười tít” với gã trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung
cụ thể hoá cảnh “trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp
nhau”. Lần thứ hai, thị xuất hiện với bộ dạng thật thê
thảm và cung cách thật khó ưa. Cái đói ghi dấu ấn
trên “áo quần rách tả tơi như tổ đỉa”, dáng vóc “gày
sọp đi” và “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy
hai con mắt”. Đáng sợ hơn, nó không chỉ biến đổi
nhân dạng mà còn lấy mất của thị lòng tự trọng, tính
sĩ diện cần thiết ở một con người. Nó làm cho thị
trong lời nói “sưng s
ỉa, cong cớn” qua lời nói “đon đả”
chẳng còn một tư cách người nào. Tràng thành chi
ếc
phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn là sống, không
ăn là chết. Ranh giới sự sống – cái chết đã không
cho thị quyền chọn lựa. Thị trở thành hiện thân của
con người bản năng.

Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp
bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn
sàng theo không kẻ cho ăn về làm vợ, chi tiết ấy
khiến người đọc thương h
ại thay cho chị. Nhân phẩm
đã mất, dường như thị đã biến thành nô l
ệ của miếng

ăn, bởi sau bữa ăn vội vàng thô tục ấy thị còn ti
ếp tục
cùng Tràng “Ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê:.
Ấy vậy mà tuyệt nhiên nhà văn không để bộc lộ một
mảy may thái độ phản ứng nào của Tràng trước
những việc làm đáng khinh của thị, nên đ
ọng lại trong
ta một cái nhìn đầy thương hại cho thị mà thôi. Phải
đến khi xuất hiện trong xóm ngụ cư, thị mới hiện lên
v
ới đầy đủ tâm trạng, mặc cảm về thân phận vợ nhặt.
Số phận của thị đã ngoặt sang ngõ rẽ mới sau tiếng
tặc lưỡi: “Chặc, kệ” của Tràng. Nhưng cuộc sống
tương lai quá mơ hồ với thị. Trái ngược với Tràng, th

bước đi trong dáng “Đầu hơi cúi xuống”, “rón rén, e
thẹn”, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Bởi thị sợ
những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra sự thật phũ phàng
về thân phận vợ nhặt. Đến lúc chỉ còn hai người với
nhau, thị cũng không giấu nổi ánh nhìn “tư lự”. Ám
ảnh thân phận thực sự rõ nét khi thị đã ở trong nhà
Tràng, khi đứng trước một hiện thực đáng thất vọng.
Kim Lân đã đặc tả vào thái độ của thị như gợi tả bao
suy tư sâu sắc về kiếp người trong nhữg ngày đói
quay quắt. Cái nghèo gặp cái eo, báo cho họ biết
những ngày túng đói đe doạ. Nếu vấn đề của Tràng
quẩn quanh trong mong ước tạo nên hạnh phúc bền
lâu thì vấn đề của thị lúc này là vượt lên nạn đói.
Không có bất cứ một tín hiệu nào bảo đảm cả hai
người sẽ vượt qua thử thách của chính mình. Sự ch


đợi thật nặng nề, căng thẳng. Thị đã dễ dàng đ
ến với
Tràng thì thị cũng dễ dàng bỏ đi. Nhà văn đã kéo dài
khoảnh khắc ấy để giúp người đọc hình dung, giả
đ
ịnh những khả năng sẽ xảy đến cho nhân vật, để có
những suy ngẫm cảm thông, ngậm ngùi cho thân
phận con người trong hoàn cảnh trớ trêu.

4. Cuộc gặp gỡ của ba người khốn khổ:

Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào b
ức tranh
ảm đạm của cuộc sống nghèo khổ, đói kém. Vẻ lam
lũ in hình trên dáng đi “lòng khòng”, “vừa đi vừa lẩm
bẩm tính toán”. Trong những lo toan của người mẹ,

×