Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Giáo trình bản đồ học part 9 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.06 KB, 22 trang )

177

6.4.1. Các phương pháp chính thành lập bản đồ gốc
Trong các sách vở bản đồ đều phân loại các phương pháp thành lập bản
đồ gốc theo 4 dấu hiệu sau:
- Theo mối liên quan của quá trình thành lập bản đồ với các quá trình
tiếp theo chuẩn bị in bản đồ.
- Theo kỹ thuật thành lập, phụ thuộc vào phương pháp chuyển vẽ hình
ảnh từ bản đồ tài liệu lên bản đồ cần thành lập.
- Theo tỷ lệ bản đồ cần thành lập.
- Theo phương pháp cố định hình ảnh lên các nguyên vật liệu khác nhau
(giấy, điamát, màng khắc, ).
Việc ghi chú, tên gọi trên bản đồ cũng có ý nghĩa quan trọng. Công việc
này không phụ thuộc phương pháp thành lập bản đồ.
Phân loại các phương pháp thành lập bản đồ:
1- Theo mối liên hệ giữa thành lập và chuẩn bị in bản đồ:
+ Thành lập bản gốc biên vẽ và bản gốc thanh vẽ riêng biệt.
+ Đồng thời thành lập bản gốc biên vẽ và bản gốc thanh vẽ.
+ Kết hợp bản gốc biên vẽ và thanh vẽ trên 1 bản.
2- Theo tỷ lệ bản gốc:
+ Thành lập ở tỷ lệ của bản đồ sẽ in.
+ Thành lập ở tỷ lệ lớn hơn tỷ lệ bản đồ tư liệu.
+ Thành lập ở tỷ lệ nhỏ hơn.
3- Theo kỹ thuật chuyển vẽ hình ảnh bản đồ:
+ Phương pháp quang cơ.
+ Phương pháp thu phóng đồng dạng.
+ Phương pháp phân tích: - Cơ học.
- Quang học.
- Điện tử - tin học.
4- Theo phương pháp cố định hình ảnh:
178



+ Vẽ trên nền không trong suốt (giấy, màng khắc, )
+ Vẽ trên nền trong suốt (điamát).
+ Vẽ trên vật liệu ảnh bằng dụng cụ quang học.
5- Vẽ trên khuôn in bằng tia lazer hoặc tia điện tử.
6- Vẽ trên màng khắc: - Khắc cơ học (dụng cụ khắc).
- Khắc bằng tia lazer.
- Khắc bằng ăn mòn hoá học.
1. Các phương pháp được phân theo mối liên quan với quá trình chuẩn bị in
bản đồ
a. Phương pháp thành lập và chuẩn bị in bản đồ riêng biệt
Ở phương pháp này quá trình thành lập và chuẩn bị in được tiến hành
trên các bản gốc khác nhau. Các bản gốc này do những người có trình độ và tay
nghề khác nhau thực hiện. Chúng được thực hiện tuần tự theo công nghệ sản
xuất chung (bản gốc biên vẽ  bản gốc thanh vẽ). Người thành lập bản đồ làm
ra bản gốc biên vẽ (là hình mẫu bản đồ cần lập). Để in ấn xuất bản đồ phải làm
bản gốc thanh vẽ.
Phương pháp này thường áp dụng cho đa số các loại bản đồ có nội dung
phức tạp đòi hỏi phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu và phải xử lý chúng.
b. Phương pháp đồng thời thành lập và chuẩn bị in trên một bản gốc
Ở phương pháp này thường thành lập bản gốc biên vẽ và thanh vẽ là một
và thường vẽ trên điamát hay màng khắc.
Trên bản gốc này, nét vẽ, chữ số, ký hiệu phải đáp ứng yêu cầu của quy
phạm, thời gian sản xuất, tiết kiệm. Nhưng để thực hiện phương pháp này đòi
hỏi ngưòi thành lập phải có trình độ tay nghề cao (kiến thức, khả năng vẽ, đồ
hoạ tốt). Phương pháp này chỉ áp dụng đối với bản đồ có mức độ phức tạp
trung bình về nội dung, các tài liệu, tư liệu bản đồ phải đồng nhất về tỷ lệ và
gần với tỷ lệ của bản đồ. Đôi khi trong phương pháp này, các nhà bản đồ thành
179


lập bản đồ trên bản copy tài liệu bản đồ, sau đó các thợ vẽ, công nhân kỹ thuật
vẽ lại trên bản gốc thanh vẽ với chất lượng đồ hoạ tốt hơn.
c. Phương pháp kết hợp thành lập và chuẩn bị in bản đồ
Ở phương pháp này, nội dung phức tạp khó khăn thì thành lập trên bản
gốc biên vẽ, phần đơn giản hơn thì thành lập trên bản gốc thanh vẽ. Phương
pháp này cũng rút ngắn được thời gian sản xuất, sử dụng đồng thời các cán bộ,
nhân viên có trình độ tay nghề khác nhau. Để thực hiện phương pháp này có 2
phương án:
- Phương án 1: Các kỹ sư bản đồ thực hiện công việc tổng quát hoá nội
dung bản đồ bằng bút chì. Sau đó vẽ theo đó, thực hiện vẽ trên màng khắc, giấy
hay điamát.
- Phương án 2: Thực hiện phức tạp hơn. Khi đó, từ bản gốc can ghép
người ta làm bản copy (bản lam). Trên bản này tiến hành thành lập các đối
tượng nội dung cần tổng hợp hoá hình ảnh.
Một trong những phương án của phương pháp kết hợp là thành lập bản
gốc trên copy 2 mặt của nền nhựa trong điamát. Phương pháp này áp dụng khi
tỷ lệ bản đồ tài liệu chính bằng hay gần bằng tỷ lệ bản đồ cần lập.
Để thực hiện công việc theo phương pháp này, từ các bản gốc can ghép
của bản đồ tài liệu chính, người ta tiến hành làm copy 2 màu lên 2 mặt của bản
nhựa trong điamát. Trên một mặt là copy màu lam, trên mặt kia là copy màu
nâu hoặc đen.
Trên diện tích cần chọn lọc đối tượng hay khái quát hình ảnh đối tượng
(sửa chữa hình ảnh), người ta xoá bỏ hình ảnh trên copy màu đen, còn trên
copy màu lam tiến hành vẽ thành lập đối tượng theo tài liệu. Ở những chỗ
không có gì thay đổi thì tiến hành vẽ bình thường. Kết quả trên bản gốc này là
bản gốc biên vẽ, từ đó làm copy cho bản thanh vẽ.
2. Các phương pháp thành lập phân loại theo tỷ lệ bản đồ cần lập
180

Theo tỷ lệ thì bản gốc biên vẽ có thể thành lập ở tỷ lệ bản đồ cần lập, hay

lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
- Đa số các trường hợp bản gốc biên vẽ được thành lập ở tỷ lệ bản đồ cần
lập vì nó cho chúng ta khái niệm tổng quan về tải trọng bản đồ và lượng các ký
hiệu, kích thước ký hiệu cần thể hiện.
Đối với bản đồ địa lý chung thì bản đồ tài liệu chính thường có tỷ lệ lớn
hơn tỷ lệ bản đồ cần lập. Đối với bản đồ chuyên đề thì sử dụng nền cơ sở địa lý
ở tỷ lệ hay gần với tỷ lệ bản đồ cần lập.
- Thành lập bản đồ ở tỷ lệ khác biệt:
Trong trường hợp các bản đồ tài liệu có tỷ lệ lớn hơn nhiều lần tỷ lệ bản
đồ cần lập (4 lần) thì người ta thực hiện phương pháp này. Khi tiến hành thành
lập bản đồ ở tỷ lệ cần lập, bản đồ tài liệu chính ở các tỷ lệ khác biệt thì phải
thực hiện chọn lọc, khái quát đối tượng có tính đến tỷ lệ bản đồ cần lập. Khi đó
các yếu tố nội dung được vẽ bằng các ký hiệu có kích thước lớn hơn để sau này
còn thu nhỏ lại. Từ các bản đồ tài liệu người ta làm bản copy và cắt dán lên
khung bản đồ ở tỷ lệ cần lập. Trên đó người ta tiến hành chính xác hoá việc
chọn lọc, khái quát đối tượng, ghi chú, tô màu nền. Kết quả ta thu được bản gốc
biên vẽ ở tỷ lệ cần lập.
- Thành lập ở tỷ lệ nhỏ hơn: Ít khi người ta sử dụng phương pháp này
trong thành lập bản đồ:
Phương pháp này được sử dụng khi thành lập các bản đồ treo tường.
Những bản đồ này có tải trọng bản đồ không lớn, dùng để đọc và sử dụng từ xa,
kích thước bản đồ lớn. Điều này cho phép thành lập bản đồ ở tỷ lệ nhỏ hơn tỷ lệ
bản đồ cần lập, từ đó rút bớt được khối lượng công việc thành lập và trình bày
bản đồ. Tải trọng của bản đồ trong các trường hợp này được thử nghiệm trên
các bản mẫu, trích mảnh đóng với tỷ lệ bản đồ cần lập. Kích thước ký hiệu
được thu nhỏ tỷ lệ thuận với tỷ lệ bản gốc biên vẽ.
3. Phân loại các phương pháp thành lập theo kỹ thuật thành lập và dạng nền
sử dụng
181


Theo kỹ thuật thành lập, phụ thuộc vào phương pháp chuyển vẽ từ bản
đồ tài liệu lên nền của bản đồ cần lập, người ta chia ra:
- Phương pháp quang cơ.
- Phương pháp đồ thị (Thu phóng đồng dạng).
- Phương pháp phân tích.
a. Phương pháp quang cơ gồm có 2 phương pháp: phương pháp cơ ảnh và
phương pháp chiếu ảnh.
- Phương pháp cơ ảnh: Là phương pháp người ta thành lập bản đồ theo
các bản lam. Những bản lam này được làm ra từ quá trình chụp ảnh. Phương
pháp này thường được áp dụng để làm bản đồ địa hình. Từ các bản đồ tài liệu
có tỷ lệ lớn hơn, người ta chụp lại (trên máy ảnh chuyên dụng) thu về tỷ lệ bản
đồ cần lập. Sau đó từ phim âm làm ra các bản lam. Các bản lam được can ghép
trên nền đế cứng không co giãn (nhôm, kẽm). Sau đó chuyển vẽ cơ sở toán học,
lưới chiếu bản đồ lên. Đây chính là nền bản đồ. Theo các nét lam này người ta
thành lập nội dung bản đồ bằng các màu mực đã quy định trong quy phạm cho
bản đồ (trên giấy). Thành công chính của phương pháp là không phải khái quát
hình ảnh theo tỷ lệ bản đồ, dễ dàng tổng quát hoá nội dung. Nó đảm bảo độ
chính xác cần thiết, tăng năng suất lao động. Phương pháp này chỉ áp dụng khi
bản đồ tài liệu chính có tỷ lệ lớn hơn không quá 2 – 3 lần tỷ lệ bản đồ cần lập.
- Phương pháp chiếu ảnh nhờ các thiết bị quang học chuyên dụng:
Hình ảnh bản đồ tài liệu được chiếu lên giấy. Theo đó người ta tiến hành
tổng quát hoá nội dung bằng nét chì và vẽ lại bằng mực luôn.
Phương pháp này thực hiện khi thành lập bản đồ từ nguồn tài liệu khác
nhau đòi hỏi đưa lên hình ảnh số lượng lớn các đặc trưng của đối tượng.
Phương pháp này thường dùng để hiệu chỉnh bản đồ theo ảnh hàng
không. Nhược điểm của phương pháp này là năng suất lao động không cao, sử
dụng máy quang học đặt và cố định ảnh bằng tay. Ưu điểm là cho khả năng
nắn ảnh, biến đổi lưới chiếu bản đồ.
b. Phương pháp đồ thị (thu phóng đồng dạng, kẻ lưới ô vuông)
182


Đây là phương pháp đơn giản có từ lâu đời. Thành lập bản đồ theo
phương pháp này có thể biến đổi hình ảnh ở mọi hình dạng. Phương pháp này
thực hiện vất vả, chỉ áp dụng trong các trường hợp khi lưới chiếu bản đồ tài
liệu và bản đồ cần lập khác nhau hoàn toàn. Để áp dụng phương pháp này có
thể sử dụng thước thu phóng đồng dạng Pantograph hay theo cách kẻ lưới ô
vuông. Phương pháp này cho độ chính xác không cao, năng suất lao động
thấp, hiện nay ít sử dụng.
c. Phương pháp phân tích:
Được thực hiện trên cơ sở của tự động hoá thành lập bản đồ. Phương
pháp này có liên quan đến kỹ thuật điện tử, tin học, trang thiết bị sản xuất. Nội
dung của phương pháp này được xem xét kỹ trong môn học “Tự động hoá sản
xuất bản đồ”.
Đây là phương pháp đang được áp dụng, thử nghiệm trong sản xuất bản
đồ hiện nay.
4. Các phương pháp vẽ hình ảnh bản đồ trên bản gốc biên vẽ
Các phương pháp thành lập bản đồ có thể được thực hiện trên các
nguyên vật liệu khác nhau, tạo ra các bản gốc biên vẽ trên giấy, điamát, trên
màng khắc, vật liệu ảnh (giấy ảnh, phim âm, phim dương), trên các băng đĩa,
từ.
Để chuyển vẽ hình ảnh bản đồ lên nền bản đồ, có thể vẽ bằng bút chì, bút
mực (vẽ bằng tay) hay vẽ bằng các công cụ chuyên dụng đơn giản trên điamát,
khắc trên màng khắc hay vẽ trên máy vẽ ploter.
6.4.2. Sơ đồ chung thành lập các bản đồ gốc từ các tư liệu bản đồ
Thành lập bản đồ là tập hợp các công việc có liên quan tương hỗ với
nhau. Nó bao gồm:
- Xây dựng cơ sở toán học cho bản đồ.
- Chuyển vẽ hình ảnh bản đồ lên cơ sở toán học, từ bản đồ tài liệu đồng
thời tổng quát hóa các hình ảnh đó. Kết quả ta nhận được bản gốc biên vẽ.
183


Bản gốc biên vẽ là phần cơ bản của sản phẩm bản đồ. Bản gốc biên vẽ có
thể một bản hay nhiều bản. Số lượng bản gốc biên vẽ phụ thuộc vào mức độ
phức tạp của nội dung bản đồ, công nghệ thành lập và đặc điểm bản đồ.
1. Chuẩn bị tư liệu bản đồ và nền bản đồ:
Thành lập bản đồ bắt đầu từ chuẩn bị tư liệu, Đặc điểm công việc này
phụ thuộc vào nguồn tư liệu bản đồ cần lập, vào công nghệ thành lập bản đồ.
Trên nền không biến dạng, người ta chuyển vẽ lưới trắc địa, lưới chiếu bản đồ
(đối với bản đồ địa hình). Sau đó người ta can chắp các bản lam để theo đó
chuyển vẽ hình ảnh bản đồ.
Đối với bản đồ địa lý chung tỷ lệ nhỏ và các bản đồ chuyên đề, công việc
chuẩn bị nền bản đồ gồm các việc:
- Tính toán toạ độ vuông góc của các điểm trên lưới chiếu bản đồ và các
góc khung bản đồ, tính toán kích thước tờ bản đồ.
- Chuyển lên nền không biến dạng các điểm đã được tính toán.
- Biến đổi hình ảnh bản đồ tài liệu lên lưới chiếu bản đồ mới và làm copy
màu lam.
- Can chắp và nắn hình các bản copy lam theo góc khung và các điểm cố
định định vị.
Sau khi hoàn thành công việc, các biên tập viên tiến hành kiểm tra để
trên nền này người ta tiến hành thành lập bản gốc biên vẽ.
2. Thành lập bản gốc biên vẽ và trình bày nó:
Thành lập bản gốc biên vẽ là phần công việc rất phức tạp, khó khăn và
mang nhiều tính sáng tạo.
Trên các bản lam nhận được từ bản đồ tài liệu, người ta tiến hành tổng
quát hoá hình ảnh bản đồ. Đối với các loại bản đồ khác nhau thì tổng quát hoá
ở mức độ khác nhau và có những đặc thù riêng. Các yếu tố và phương pháp ảnh
hưởng đến quá trình tổng quát hoá chúng ta đã xem xét ở phần “Tổng quát hoá
nội dung bản đồ”.
184


Thành lập bản đồ có thể thực hiện từ một nguồn tư liệu bản đồ hay nhiều
nguồn khác nhau. Những tư liệu bản đồ này có thể khác nhau về cơ sở toán học
(Phép chiếu bản đồ, độ chính xác, hệ elipxoit), về hệ thống ký hiệu quy ước, về
mức độ tổng quát hoá nội dung,
Để đưa lên bản gốc cần thành lập, người ta phải thực hiện các công việc
chuyển đổi về một hệ thống nhất cho bản đồ cần lập: đơn vị đo, đơn vị diện
tích, góc, hệ toạ độ, elipxoit được chọn,
Đối với các tư liệu phi bản đồ (văn bản, số liệu thống kê, ) người ta phải
tiến hành xử lý sơ bộ và xác định cái gì cần cho bản đồ mới. Trong quá trình
thành lập bản đồ, bản đồ trực nhật có ý nghĩa rất lớn. Nó cho ta biết thực trạng
của các đối tượng bản đồ, sự thay đổi của thực tế so với bản đồ cũ.
Quá trình thành lập bản đồ chuyên đề có những đặc điểm riêng. Đó là
phải chuyển đổi lưới chiếu, hệ thống ký hiệu quy ước, lựa chọn phương pháp
thể hiện, đặt ra các nguyên tắc tổng quát hoá nội dung bản đồ. Khi thành lập
loại bản đồ này, người ta tiến hành qua 2 giai đoạn:
- Thành lập nền cơ sở địa lý. Mức độ chi tiết, đầy đủ các yếu tố địa lý
phụ thuộc vào ý nghĩa, đề tài bản đồ.
- Thành lập các yếu tố nội dung chuyên đề theo mẫu thể hiện nội dung
chuyên môn (thiết kế theo phương pháp thể hiện đã chọn).
Thứ tự thành lập từng yếu tố nội dung bản đồ phụ thuộc vào loại bản đồ
cần lập và các nguồn tư liệu bản đồ dùng để thành lập.
Việc đặt thứ tự thành lập các đối tượng nội dung nhằm đảm bảo thể hiện
chính xác hơn, rõ ràng hơn các yếu tố, đối tượng bản đồ. Từ đó xác định được tải
trọng bản đồ, thể hiện chính xác các tính chất điển hình, đặc trưng của đối tượng
bản đồ. Khi thành lập từng yếu tố nội dung, các yếu tố chính quan trọng được thể
hiện trước, sau đó đến các yếu tố phụ có liên quan. Đối với bản đồ địa hình, thứ tự
thành lập các yếu tố nội dung đã được quy định trong quy trình quy phạm.
Trong sản xuất người ta thường sử dụng 2 phương án lập bản đồ:
185


- Phương án 1: Thành lập từng nội dung bản đồ trên toàn bộ tờ bản đồ.
Thành lập các nội dung chính trước sau đó đến các nội dung phụ.
Trình tự thành lập bản đồ theo các yếu tố nội dung:
1- Thuỷ văn 4- Địa hình
2- Điểm dân cư 5- Ranh giới hành chính
3- Hệ thống đường giao thông 6- Tên gọi, ghi chú.
Trình tự thành lập bản đồ theo mức độ quan trọng của các yếu tố nội dung:
1- Các đối tượng chính của nội dung bản đồ
2- Các đối tượng chi tiết của nội dung bản đồ.
- Phương án 2: Thành lập nội dung theo từng khu vực. Thành lập hết tất
cả các nội dung ở khu vực này mới chuyển sang khu vực khác.
Phương án 1 thực hiện khi các nội dung bản đồ nằm trên nhiều bản đồ tư
liệu khác nhau.
Phương án 2 thường áp dụng khi thành lập các bản đồ địa hình.
Cũng có thể kết hợp cả 2 phương án trên.
Bản gốc biên vẽ được hoàn thành ở dạng bản gốc có các hình vẽ nét và
các yếu tố nội dung nền diện tích được tô màu bổ trợ (diện tích mặt nước, diện
tích rừng, thực vật).
Chất lượng bản gốc biên vẽ được coi là tốt nếu nó được đảm bảo:
+ Thành lập bản đồ bằng các ký hiệu, màu sắc gần với bản đồ cần lập.
+ Màu mực vẽ trên bản biên vẽ phải thuận tiện cho các công việc về ảnh
ở giai đoạn sau. (Ví dụ: Để vẽ thuỷ hệ bằng màu xanh lá cây; mật độ quang học
của mực vẽ phải đảm bảo).
+ Màu tô cho các yếu tố nền phải khó hấp thụ trên phim ảnh (Vídụ: Tô
màu tím đỏ thay cho màu xanh lá cây ở các diện tích rừng).
+ Tuân thủ hình dạng, kích thước tất cả các ký hiệu chữ số ghi chú trên
bản biên vẽ.
186


Yếu tố quan trọng của bản biên vẽ là trình bày. Nó bao gồm: Sơ đồ bố
cục, phân bố bảng chú giải, đồ thị, tên gọi đầu đề, khung bản đồ.
Bản biên vẽ làm ra phải tương tự với các bản đồ đã xuất bản trước đó.
Đối với các bản đồ nhiều tờ như bản đồ địa hình hay một số bản đồ
chuyên đề thì cần có sơ đồ ghép mảnh, có phần tiếp biên trên các tờ bản đồ.
Từ bản gốc biên vẽ, người ta tiến hành làm bản thống kê chữ số (trên
bảng này chỉ ra số lượng chữ số, kiểu chữ và kích thước chữ ) để tiến hành
chụp chữ hay chế bản điện tử trên máy vi tính phục vụ cho giai đoạn trình bày
và chuẩn bị in.
Toàn bộ quá trình thành lập bản đồ được ghi lại trong lý lịch bản đồ.
Kết quả của quá trình thành lập bản đồ gồm: Các bản gốc biên vẽ, các mẫu,
sơ đồ cho giai đoạn chuẩn bị in, mẫu màu, bảng thống kê chữ số, lý lịch bản đồ.
6.5. Các thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất bản đồ
Trong quy trình sản xuất bản đồ có nhiều công đoạn chính. Ở mỗi giai
đoạn có những đặc thù công việc riêng, do đó khác với các quy trình sản xuất
khác, quy trình sản xuất bản đồ chỉ có thể ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật trong một số công việc nhất định nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao
chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian sản xuất, thuận tiện cho việc lưu trữ,
bảo quản sản phẩm,
Vấn đề đặt ra trong chương này chỉ cho chúng ta biết các khái quát
chung, cụ thể chi tiết sẽ được xem xét trong môn học “Tin học ứng dụng” và
“Tự động hoá sản xuất bản đồ”.
Các thiết bị dùng cho thành lập bản đồ trong giai đoạn đầu tiên sản xuất
bản đồ - biên tập và thành lập bản đồ:
Ở giai đoạn đầu: Chuẩn bị biên tập vẫn là công việc quan trọng nhất, nó
được quyết định bởi trình độ của biên tập viên bản đồ (không có máy móc nào
có thể thay thế).
187

Sản phẩm dùng của giai đoạn này là kế hoạch biên tập và các phụ lục,

chỉ dẫn kèm theo.
Các tư liệu bản đồ dùng để thành lập bản đồ mới có thể ở dạng bản đồ tư
liệu (hình ảnh bản đồ) hay ở dạng số liệu biểu bảng, văn bản, , để nhập vào
máy tính điện tử cần phải qua quá trình số hoá tư liệu bản đồ.
Số hoá tư liệu bản đồ thực chất là quá trình biến đổi các ngôn ngữ, hình
ảnh thông thường sang dạng ngôn ngữ máy tính.
Quá trình số hoá tư liệu bản đồ có thể được thực hiện bằng những phần
mềm chuyên dụng mua của các hãng máy tính nước ngoài như: Autocad,
Mapinfo, Intergraph, trên các máy tính điện tử hoặc có thể số hoá bằng các
thiết bị thủ công (Bàn số hoá).
Tuỳ thuộc vào trang thiết bị của các cơ sở sản xuất, trình độ tay nghề cán
bộ công nhân viên, nguồn tư liệu bản đồ, yêu cầu kỹ thuật, độ chính xác của
bản đồ cần thành lập, mối liên hệ với quy trình công nghệ sản xuất tiếp theo mà
người ta lựa chọn phương pháp số hoá và các phần mềm dùng để số hoá. Thí
dụ đối với các tư liệu bản đồ cũ có hình ảnh không rõ ràng thì số hoá bằng bàn
số hóa, các tư liệu ở dạng số, biểu bảng được nhập qua bàn phím, các tư liệu
bản đồ cũng có thể được quét trên máy quét sau đó số hoá (vectơ hoá) trên máy
tính bằng các phần mềm chuyên dụng.
Theo đặc điểm và các tính năng kỹ thuật, các thiết bị số hoá có thể chia
làm 2 nhóm chính:
1- Các thiết bị số hoá thủ công (bàn số hoá) được các hãng máy tính
nước ngoài sản xuất (Mỹ, Anh, Đức, ).
2. Các trang thiết bị số hoá bán tự động và tự động: Bao gồm các máy
quét (scanner) đen trắng, màu với độ phân giải khác nhau, kích thước bản vẽ từ
A
4
 A
0
. Tư liệu bản đồ sau khi quét trên máy quét được đưa vào máy tính.
Bằng các phần mềm chuyên dụng, người ta tiến hành số hoá. Tuỳ thuộc vào

chất lượng hình ảnh đã quét và phần mềm sử dụng để số hoá, người ta tiến
hành số hoá tự động hoặc bán tự động.
188

Để thuận tiện cho sử dụng và lưu trữ thông tin bản đồ và cũng để tránh
nhầm lẫn, bỏ sót trong quá trình số hoá bản đồ, người ta thường tiến hành tách
lớp nội dung bản đồ. Việc tách lớp nội dung bản đồ phụ thuộc vào đặc điểm
của tư liệu bản đồ, yêu cầu đối với bản đồ cần lập, sự thuận tiện cho sử dụng và
lưu trữ, bảo quản thông tin bản đồ.
Các dữ liệu thông tin bản đồ khi nhập vào máy tính điện tử thường được thể
hiện dưới 2 dạng chính:
+ Dạng raster (tơ ram) đó là dạng lưu và thể hiện hình ảnh bản đồ bằng tập
hợp các điểm ảnh có độ sáng tối, mật độ quang học và màu sắc khác nhau. Chất
lượng hình ảnh phụ thuộc vào độ phân giải của máy móc thiết bị (Kích thước của
một đơn vị điểm ảnh: pixel).
+ Dạng vectơ: Hình ảnh bản đồ là tập hợp các điểm có toạ độ xác định
(x,y,z) trong một hệ tọa độ xác định và chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Mỗi hình ảnh bản đồ ở dạng dữ liệu này có thể ở 3 dạng:
- Điểm: Đó là các điểm riêng biệt có toạ độ xác định độc lập (x,y,z).
- Đường: Đó là tập hợp của một số điểm có cùng tính chất, đặc điểm, chúng
liên hệ với nhau theo một quy luật nào đó.
- Vùng: Đó là một diện tích được xác định bằng một đường bao xung
quanh. Những điểm nằm trong diện tích này có cùng đặc điểm và tính chất.
Số hoá bản đồ là quá trình chuyển đổi hình ảnh bản đồ tư liệu (dạng rater)
sang hình ảnh bản đồ cần lập (dạng vectơ). Trong quá trình số hoá, người ta có thể
tiến hành biên tập, tổng quát hoá các đối tượng, hiện tượng. Việc biên tập, tổng
quát hoá nội dung bản đồ có thể được thực hiện bằng nhiều cách:
- Tổng quát hoá sơ bộ trước khi số hoá.
- Đồng thời tổng quát hoá trong quá trình số hoá.
- Tổng quát hoá sau khi số hoá.

Sau khi số hoá ta mới được các yếu tố nét bản đồ, người ta dựa vào các
yếu tố nét để tô màu nền bản đồ ở các diện tích cần tô.
Trên máy tính điện tử có thể tạo ra 256 màu từ 3 màu cơ bản. Ba màu cơ
bản này có thể chọn theo các hệ màu khác nhau (tuỳ theo màu của máy tính hay
189

màu do phần mềm điều khiển). Việc bố trí, sắp xếp chữ số trên bản đồ dựa vào các
phông chữ (kiểu, kích thước chữ) đã cài đặt trên máy tính. Các ký hiệu quy ước
dùng cho các đối tượng riêng rẽ độc lập có thể lấy từ thư viện ngân hàng ký hiệu
của mỗi phần mềm hay tự thiết kế (bằng cách viết các chương trình vẽ ký hiệu
bằng ngôn ngữ tương thích của máy tính và phần mềm).
Sau khi biên tập và thiết kế bản đồ trên máy tính điện tử người ta được bản
đồ cần thành lập ở dạng số (bản đồ số). Bản đồ này có thể hiển thị trên màn hình
của máy tính (để xem, kiểm tra và báo cáo) cũng có thể được ghi vào băng, đĩa từ
(VCD). Nếu nối máy tính điện tử với máy vẽ (ploter) có thể in ra bản đồ trên giấy
điamat, trên vật liệu ảnh (tạo ra bản đồ dạng truyền thống) hoặc nối với máy khắc
tạo ra các khuôn in.
Trên máy tính điện tử, nếu bản đồ được thành lập bằng phần mềm đồ hoạ
Freehand, Coreldraw thì còn có khả năng nối với máy in ảnh để tạo ra các phim
tách màu (phục vụ cho giai đoạn chuẩn bị in).
6.6. Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ địa lý chung
Theo phân loại bản đồ ta có 2 nhóm chính: Bản đồ địa lý chung và bản
đồ chuyên đề.
Bản đồ địa lý chung và atlas địa lý chung là một trong những dạng sản
phẩm quan trọng của bản đồ.
Trong bản đồ địa lý chung, các bản đồ có tỷ lệ  1:1.000.000 được gọi là
bản đồ địa hình. Việc thiết kế và thành lập bản đồ địa hình đã được quy định,
tiêu chuẩn hoá trong các quy phạm, chỉ dẫn biên tập của quốc gia và được xem
xét cụ thể trong môn học “Bản đồ địa lý chung”. Vì vậy, ở chương này chúng
ta chỉ xem xét một số đặc điểm trong thiết kế thành lập bản đồ địa lý chung.

6.6.1. Một số yêu cầu khi thiết kế bản đồ địa lý chung
Theo phân loại bản đồ địa lý ta có:
A- Bản đồ địa lý chung:
1- Bản đồ địa lý chung phần đất liền (Lục địa):
- Bản đồ địa hình (tỷ lệ lớn và trung bình)
190

- Bản đồ địa hình khái quát (tỷ lệ nhỏ).
- Bản đồ địa lý chung: + Tra cứu chi tiết.
+ Tra cứu khái quát.
+ Địa lý chung.
2- Bản đồ biển và đại dương:
- Bản đồ địa hình thềm lục địa.
- Các bản đồ biển khác và bản đồ địa hình đáy biển:
+ Bản đồ hàng hải.
+ Bản đồ độ sâu đáy biển.
+ Các loại bản đồ khác.
B- Bản đồ chuyên đề:
1- Bản đồ tự nhiên – Các bản đồ địa lý tự nhiên
2- Bản đồ kinh tế - xã hội.
C- Bản đồ chuyên đề tự nhiên – xã hội: Là kết hợp nội dung của bản đồ chuyên
đề và địa lý chung.
Từ cách phân loại trên ta thấy vai trò, ý nghĩa quan trọng của bản đồ địa lý
chung. Trong sản xuất bản đồ thì loại sản phẩm chủ yếu là bản đồ địa lý chung.
Các giai đoạn chính và dạng công việc khi thiết kế thành lập bản đồ địa
lý chung là:
- Xác định vùng lãnh thổ bản đồ cần thể hiện và mục đích của bản đồ.
- Thiết kế cơ sở toán học.
- Xác định các yếu tố nội dung bản đồ và soạn thảo các nguyên tắc tổng
quát hoá nội dung.

- Thiết kế phương pháp, cách thể hiện nội dung bản đồ và trình bày bản đồ.
- Xác định công nghệ hoàn thành các công việc biên tập, thành lập chuẩn
bị in bản đồ.
191

Xác định vùng lãnh thổ bản đồ cần thể hiện xuất phát từ các nhiệm vụ
được đặt ra, nó liên quan đến xác định ranh giới, vị trí địa lý cũng như các yếu
tố của vùng lân cận. Tên gọi của lãnh thổ thể hiện đối tượng địa lý hay địa
phương, đơn vị lãnh thổ của bề mặt trái đất. Nó được xác định sao cho thể hiện
được đề tài của bản đồ địa lý chung. Trên các bản đồ địa lý chung cùng với số
liệu bản đồ (bản đồ địa hình) bao giờ cũng có tên gọi to, rõ ràng của đối tượng
chính của bản đồ có tên gọi theo ý nghĩa tự nhiên hay kinh tế xã hội.
Xác định mục đích của bản đồ là xác định bản đồ làm ra để giải quyết
nhiệm vụ gì? Đối tượng sử dụng bản đồ là ai?
Phụ thuộc vào điều này mà người ta sẽ quyết định dạng, loại bản đồ, bản
đồ tờ đơn hay trong sêri bản đồ, atlas bản đồ, chức năng của bản đồ trong số
các bản đồ của atlas.
Cũng từ mục đích của bản đồ mà người ta sẽ xác định các tư liệu bản đồ
cần thiết, cơ sở địa lý cho các loại bản đồ khác. Hiện nay đòi hỏi đối với bản đồ
địa lý chung là nâng cao tính thông tin (khả năng lưu trữ, truyền đạt, truy nhập
thông tin từ bản đồ).
Cụ thể hoá mục đích của bản đồ địa lý chung được thiết kế bao gồm: Các
loại bản đồ và đặc điểm sử dụng chúng.
Nói chung, về nguyên tắc, vấn đề thể hiện các thông tin địa hình, đảm
bảo độ chính xác hình học và sự tương ứng của hình ảnh bản đồ với đối tượng
thực tế là mục đích của bản đồ địa lý chung.
Đặc điểm chính của thiết kế cơ sở toán học cho bản đồ địa lý chung là
dựa vào mục đích bản đồ, hình dạng và kích thước vùng lãnh thổ, vị trí địa lý
của nó, yêu cầu và đòi hỏi về độ biến dạng (góc, diện tích, khoảng cách); yêu
cầu tối thiểu với đặc điểm sinh học của mắt để phân biệt hình ảnh.

Nhiệm vụ lựa chọn phép chiếu bản đồ rất phức tạp khó khăn (vùng lãnh
thổ càng rộng càng khó). Vấn đề lựa chọn phép chiếu cho bản đồ địa lý chung
và các loại bản đồ được xem xét kỹ trong môn học: Toán bản đồ.
192

Khi thiết kế nội dung bản đồ địa lý chung, người ta dựa vào loại bản đồ,
mục đích bản đồ và tỷ lệ bản đồ. Giải quyết trường hợp này cần xem xét trong
các trường hợp cụ thể. Ví dụ: Các bản đồ tra cứu chi tiết để giải quyết nhiệm vụ
bản đồ thì phải thể hiện đầy đủ các thông tin địa hình, thể hiện khái quát địa lý
tổng hợp về mối quan hệ về cấu trúc của vùng lãnh thổ, mối quan hệ của các đối
tượng với nhau. (Để thể hiện địa hình người ta thường dùng đường bình độ
nhưng ngoài ra còn dùng thang tầng màu địa hình, vờn bóng địa hình, ). Trên
các bản đồ này tên gọi địa danh, ghi chú, chú giải cũng đóng vai trò rất quan
trọng.
Nói chung, để xác định loại bản đồ địa lý chung, người ta thường xem
xét 2 đặc tính chính:
- Tính tra cứu.
- Tính khái quát.
Khi thể hiện tập hợp địa lý cần phải tiến hành nghiên cứu, làm rõ các đặc
điểm cơ bản của nó, từ đó xác định điều kiện và nguyên tắc tiến tới từng bước
cụ thể hoá chỉ ra các đối tượng, các thành phần yếu tố của nó (trong đó có tính
đến tỷ lệ bản đồ và phương pháp thể hiện).
Trong trường hợp soạn thảo các phương án cho bản đồ mà nội dung chính
là tập hợp địa lý chung thì khi thiết kế cũng hướng sao cho thể hiện được các đặc
điểm tự nhiên (cảnh quan, dạng địa hình tự nhiên) hay các điều kiện địa lý xã hội.
Đồng thời với việc xác định nội dung cơ bản người ta cũng đặt ra các
nguyên tắc phản ánh các khái niệm tra cứu tương ứng với mục đích bản đồ và
đặc điểm của các tư liệu bản đồ được sử dụng.
Những vấn đề quan trọng trong thiết kế các bản đồ địa lý chung là:
- Lựa chọn phương pháp thể hiện.

- Soạn thảo ra các ký hiệu quy ước.
- Giải quyết trình bày bản đồ.
193

Khi thiết kế hệ thống ký hiệu và xác định dạng bản đồ địa lý chung theo
trình bày màu sắc phải giải quyết các vấn đề sau:
+ Soạn thảo các phương pháp tối ưu cho mỗi yếu tố cấu thành cấu trúc không
gian lãnh thổ (đường sá, điểm dân cư, thuỷ hệ, ), truyền đạt các thông tin đo được và
các thông tin khác về chúng từ góc độ trực quan và theo phân loại chúng.
+ Phối hợp các phương pháp thể hiện khác nhau và sử dụng chúng để
truyền đạt khái quát nhiều mặt nội dung bản đồ, truyền đạt mối liên hệ các đối
tượng tự nhiên và kinh tế xã hội.
+ Đảm bảo độ đọc của bản đồ, với từng yếu tố nội dung riêng lẻ, từng ký
hiệu và cả khi thể hiện tất cả, đồng thời, ở đây cần tính đến cả các ghi chú, chú
giải và đặc điểm phân bố chúng.
+ Đảm bảo tính thẩm mỹ trong trình bày, sử dụng màu tươi, sống động hài
hoà.
Trong các phương pháp truyền thống thể hiện hình ảnh bản đồ của các
yếu tố nội dung bản đồ địa lý (BĐĐL) chung, người ta thường dùng ảnh hàng
không, ảnh vệ tinh để thể hiện mô hình địa hình. Khi thành lập bản đồ cho
quảng đại quần chúng cố gắng thành lập hình ảnh sống động về cảnh quan
vùng, địa phương để tăng thêm sự hấp dẫn và chú ý của người sử dụng.
Thiết kế công nghệ hoàn thành các công việc thành lập BĐĐL chung liên
quan đến đặc điểm của nguồn tư liệu bản đồ, khả năng sử dụng thứ tự in với
vờn bóng địa hình, trình bày màu sắc.
6.6.2. Công tác chuẩn bị biên tập, đặc điểm tổ chức và phương pháp tiến hành
Các công việc của giai đoạn chuẩn bị biên tập BĐĐL chung và đặc điểm
của chúng gồm có:
- Tập hợp, thu thập, lưu trữ và xử lý các tư liệu bản đồ và các nguồn tư
liệu khác phục vụ cho sản xuất và hiệu chỉnh bản đồ.

- Tiến hành các công việc thử nghiệm khoa học và một số công việc đặc
trưng của công tác tổ chức - chuẩn bị.
194

- Chuẩn bị các tài liệu biên tập khác nhau.
Thu thập, lưu trữ và xử lý bản đồ, các tư liệu thống kê, tra cứu cho thành
lập bản đồ địa lý chung được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đây là một
trong những nhiệm vụ của bộ phận tra cứu ở các cơ sở sản xuất bản đồ. Các tư
liệu chính để thành lập bản đồ địa lý chung là các bản đồ địa lý chung tỷ lệ
khác nhau, bản đồ địa hình, bản đồ hàng hải và một loạt các số liệu thống kê.
Các tư liệu phụ bổ sung có thể là: Bản đồ hành chính – chính trị, giao thông, du
lịch và ảnh vũ trụ, hàng không, các bài viết, sách báo, công trình khoa học,
bách khoa toàn thư
Các tư liệu chính và phụ để thành lập bản đồ cần đảm bảo: Độ chính xác
đối tượng trên bản đồ được thành lập; thể hiện được đặc điểm địa lý; sự đầy đủ
khái quát đối tượng (tổng quát hoá); độ tin cậy và tính hiện đại của bản đồ.
Hệ thống hoá nguồn tư liệu được thực hiện theo: vùng lãnh thổ, đề tài
(nội dung), mục đích và năm xuất bản.
Trong số các phụ lục tra cứu cho thành lập bản đồ phải kể đến các biểu
bảng, sơ đồ, phụ lục khái quát và trực nhật.
Ví dụ: Bảng dân cư cho biết số dân, thời gian hình thành thành phố, lăng
mạc, ; sơ đồ đường sá dùng để lựa chọn, lấy bỏ các con đường thể hiện trên
bản đồ
Các tư liệu này cũng có thể thu thập, yêu cầu ở thư viện, ngân hàng
thông tin, trung tâm thông tin quốc gia
Đặc biệt trong tương lai, người ta có thể lấy từ hệ thống thông tin địa lý
(GIS) của mỗi quốc gia, thế giới và thông qua hệ thống Internet.
Thử nghiệm khoa học và soạn thảo các tài liệu biên tập có ý nghĩa rất quan
trọng đối với thành lập BĐĐL chung. Trước tiên phải làm các mẫu thử nghiệm
cho tờ bản đồ. Các mẫu này phải đặc trưng cho nội dung cơ bản của bản đồ, cho

các nguyên tắc tổng quát hoá, trình bày bản đồ và công nghệ thành lập. Khi tiến
hành thử nghiệm phải sử dụng các nguồn tư liệu, vật liệu mới, công nghệ hiện đại.
195

Ví dụ: Dùng nguồn tư liệu ảnh vệ tinh, dùng các phần mềm chuyên dụng để thể
hiện địa hình (mô hình DEM) thay cho đánh vờn bóng bằng tay.
Soạn thảo tài liệu biên tập của BĐĐL chung tuân thủ theo nguyên tắc
chung cho các bản đồ (xem mục 6.2 về thiết kế bản đồ) nhưng nó cũng có các
đặc điểm riêng phụ thuộc vào mức độ phức tạp của tác phẩm bản đồ (bản đồ 1
tờ, bản đồ nhiều tờ hay sêri bản đồ).
Đặc thù mục đích và nội dung của các tài liệu biên tập cơ bản cho các tác
phẩm bản đồ lớn là khi soạn thảo các tài liệu này đồng thời giải quyết nhiệm vụ
xác định các thông số và đặc điểm thành lập tác phẩm và cũng đặt ra các nguyên
tắc đảm bảo hình ảnh lãnh thổ được thống nhất trên các tờ bản đồ (bản đồ nhiều
tờ) hay trên mỗi bản đồ của sêri bản đồ. Công việc này được nhóm biên tập thực
hiện.
6.6.3. Các yếu tố nội dung bản đồ địa lý chung, đặc điểm thành lập và tổng
hợp chúng
Nội dung bản đồ địa lý chung được xác định phụ thuộc vào dạng bản đồ
và mục đích, tỷ lệ bản đồ. Khi thành lập cần tính đến đặc điểm hình ảnh bản đồ
(gồm các đối tượng riêng lẻ và nguyên tắc tổng quát hoá chúng).
Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề chính khi thành lập từng đối tượng này:
1- Thuỷ hệ:
Gồm có: Đường bờ biển, đại dương với các đặc điểm liên quan đến thuỷ
triều, đến không gian của lục địa với biển, sông, kênh, hồ và các công trình có
liên quan.
Thể hiện đường bờ biển bằng cách giữ nguyên hay khuyếch đại các đặc
trưng đường bờ, kiểu bờ (vịnh, đảo, quần đảo, dạng bờ biển).
Sông được đặc trưng bằng chế độ nước (chảy thường xuyên, theo mùa,
thay đổi liên tục). Người ta chỉ ra các sông suối cạn, bãi đá, cát, bãi bồi, thác,

ghềnh, phần sông chảy ngầm. Trên các bản đồ tỷ lệ nhỏ thể hiện đầy đủ châu
thổ, lưu vực sông lớn, truyền đạt các dạng và mật độ hệ thống sông. Phân loại
196

các dạng lưu vực sông và xây dựng các hình ảnh đặc trưng cho cấu trúc của hệ
thống sông. Kết quả là qua hệ thống sông, người ta thể hiện được ở mức độ
khác nhau của đồng bằng và các đặc điểm cấu trúc của nó.
Các con sông có thể thể hiện bằng một nét với lực nét thay đổi hay bằng
hai nét phụ thuộc vào độ rộng của con sông ở thực địa và tỷ lệ bản đồ.
Đối với hệ thống sông ngòi có mật độ khác nhau, đặc điểm địa lý lãnh
thổ khác nhau sẽ có chỉ tiêu tổng quát hoá khác nhau.
Các ao hồ chia ra làm hồ nước ngọt và nước mặn với đường bờ cố định,
hay thay đổi theo mùa. Khi thể hiện các ao hồ phải chỉ ra được sự phân bố của
chúng với các đặc điểm cơ bản của nó. Định mức để tổng quát hoá các ao hồ
cũng phụ thuộc vào từng vùng, địa phương.
2- Điểm dân cư:
Các dấu hiệu chung để phân loại điểm dân cư trên bản đồ địa lý chung là:
Số dân, kiểu cư trú, ý nghĩa hành chính – chính trị của chúng. Chúng được đặc
trưng bởi kích thước và hình dạng điểm dân cư, chữ số ghi tên gọi các điểm dân
cư.
Số dân được biểu diễn bằng thang bậc phân chia số dân.
Kiểu cư trú chia ra: Thành phố, làng xóm cư trú kiểu thành phố và
làng xóm nông thôn.
Các thành phố lớn trên các bản đồ tỷ lệ lớn có thể thể hiện đúng hình
dạng của nó hoặc đường viền lãnh thổ nhưng cũng có thể thể hiện theo ý nghĩa
hành chính – chính trị: Thủ đô, thị xã, thị trấn,
Mạng lưới điểm dân cư và cấu trúc của nó được biểu thị trên bản đồ theo
hình dạng, phân bố của chúng và theo mật độ khác nhau.
Khi phân bố trên bản đồ tên gọi các điểm dân cư cần cố gắng nhấn mạnh
được đặc điểm cấu trúc và mật độ.

3- Mạng lưới đường giao thông:
197

Người ta sử dụng phân loại để đặc trưng cấu trúc mạng lưới đường sá theo
dạng đường, điều kiện giao thông vận tải, chỉ ra ý nghĩa đường sá (quốc lộ, tỉnh lộ, ).
Đường bộ thể hiện đường sắt và đường giao thông bộ. Trên bản đồ còn
thể hiện các tuyến đường thuỷ, đường biển, cảng biển, kênh đào biển,
Ở những vùng sâu, khó khăn thể hiện cả đường mòn, đường nội bộ.
Khi tổng quát hoá phải truyền đạt các đặc điểm phân bố đường sá, mật
độ đường, đặt thứ tự thể hiện đường và mối liên hệ của đường với các điểm dân
cư.
4- Địa hình:
Trên bản đồ địa lý chung sử dụng các phương pháp khác nhau biểu thị
địa hình. Phụ thuộc mục đích bản đồ và nhiệm vụ cụ thể cần thiết với đặc điểm
của địa hình bề mặt trái đất mà quyết định sử dụng phương pháp nào.
Khi biểu thị đặc điểm địa mạo, loại và hình dạng địa hình, loại cảnh
quan, diện tích phân bố địa hình thường áp dụng phương pháp thang tầng địa
hình. Bằng cách này có thể thể hiện hình dạng địa hình, biểu thị rõ ràng hướng
núi, đồng bằng, đồi gò và thác
Trên cơ sở giải quyết vấn đề lựa chọn thang cắt địa hình để người ta tiến
hành tô màu và khái quát hình dạng địa hình. Với mục đích truyền đạt các tính
chất điển hình, đặc điểm địa hình người ta dùng thang độ cao, độ sâu với các
đường bình độ chính, phụ.
Địa hình dưới nước biển biểu thị bằng các đường đẳng sâu với các tầng
màu và ghi chú độ sâu.
Soạn thảo thang màu nền theo thang tầng độ cao sao cho đảm bảo định
hướng chung về phân bố độ cao và thể hiện rõ các dạng cảnh quan quan trọng
(đồng bằng, trung du, vùng núi, núi đá, núi cao, ).
Khi khái quát dạng địa hình phải hợp lý về lôgic và địa lý:
+ Theo cấu trúc đường.

198

+ Sát nhập các đường bình độ (có tính đến mối liên hệ với thuỷ hệ, ).
Đối với địa hình đặc biệt không thể hiện bằng các đường bình độ thì
dùng các ký hiệu chuyên dụng (đất sụp lở, núi lửa, núi đá, sông cạn, ). Khi
dùng các ký hiệu này phải kết hợp ghi chú độ cao, độ sâu.
Các đường bình độ không dùng kết hợp thang tầng màu độ cao, được
dùng cho các bản đồ địa lý chung dạng nền cơ sở.
Trong một số trường hợp, người ta không dùng đường bình độ mà chỉ dùng
thang tầng màu độ cao và vờn bóng để thể hiện một cách khái quát địa hình.
5- Lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng:
Trên các bản đồ tỷ lệ nhỏ thường thể hiện rừng, cát, đầm lầy,
Biểu thị rừng thường kết hợp với vờn bóng địa hình hay hình vẽ các
đường bình độ.
Các cồn cát, bãi đá, bãi san hô, đầm lầy cũng được thể hiện trên bản đồ.
Khi tổng hợp hoá các đối tượng này cần biểu thị được diện tích tương đối của
chúng, có thể bằng đường bao bọc hay sự phân bố của các đối tượng riêng lẻ và
các mối liên hệ không gian của chúng với các yếu tố nội dung khác.
Trên bản đồ biểu thị ranh giới của rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
6- Ranh giới:
Trên bản đồ thể hiện biên giới quốc gia, thủ đô, tên quốc gia. Trong mỗi
quốc gia thể hiện mức phân chia hành chính. Đường ranh giới phải chính xác
tới mức tối đa theo tỷ lệ bản đồ. Mỗi loại đường ranh giới được biểu thị bằng
các ký hiệu tương ứng ý nghĩa của nó.
7- Tên gọi địa lý:
Khi bố trí chúng trên bản đồ phải giải quyết một loại nhiệm vụ: mối liên
quan với đối tượng (cấu trúc, chức năng tra cứu, truyền đạt các đặc điểm khác
của đối tượng). Nhiệm vụ đặc biệt nữa là: phiên âm tên gọi và thành lập các chỉ
dẫn sử dụng (đối với atlas, bản đồ phức tạp).

×