Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Giáo trình bản đồ học part 7 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.63 KB, 22 trang )

133

Bản đồ này đáp ứng nhiều nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và quốc
phòng. Nó được dùng để dự tính khi lập kế hoạch và thiết kế các công trình công
nghiệp lớn, các công trình giao thông lớn; dùng để đánh giá chung về lãnh thổ,
dùng làm bản đồ hàng không, để giải quyết nhiều nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
Bản đồ 1:500.000 được thành lập trong lưới chiếu hình trụ ngang đồng
góc với múi chiếu 6
0
có hệ số điều chỉnh tỷ lệ biến dạng chiều dài k
0
= 0.9996.
Các mảnh bản đồ có dạng hình thang.
Trên bản đồ địa hình khái quát cũng biểu thị các yếu tố nội dung sau:
a- Thuỷ hệ:
Khi biên vẽ thuỷ hệ trên bản đồ này, cần phản ánh được đặc trưng hình
dạng của các đường bờ và đặc điểm địa lý của chúng, mật độ tương đối của
mạng lưới sông ngòi; đặc điểm phân bố của các hồ; đặc điểm uốn khúc của
sông, đặc điểm các bãi bồi, biểu thị các kênh đào và các công trình thuỷ lợi.
Trên bản đồ chủ yếu là vẽ các con sông có độ dài  1.5 cm. Để phản ánh
đặc điểm riêng của một số khu vực thì có khi phải vẽ những con sông có độ dài
nhỏ hơn. Ở những nơi có mật độ sông ngòi quá dày đặc, thậm chí cũng có thể
loại bỏ một số con sông có độ dài  1.5 cm.
Trên bản đồ còn vẽ các đường biển. Chỉ rõ các đoạn sông nào mà tàu bè
qua lại được. Biểu thị tất cả các kênh có thể cho tàu thuyền đi được. Các kênh
khác thì được biểu thị có chọn lọc.
Trên bản đồ vẽ các đảo có diện tích  1mm
2
. Ở những nơi tập trung
nhiều đảo nhỏ thì chúng được biểu thị bằng cá chấm điểm.
Trên bản đồ vẽ các hồ có diện tích từ 2 mm


2
trở lên. Để phản ánh được
đúng mật độ phân bố của các hồ thì ở một số trường hợp có thể phải vẽ một số
hồ có diện tích trên bản đồ < 2 mm
2
.
Trên bản đồ phải ghi chú các yếu tố thuỷ văn.
b- Các điểm dân cư:
Trên bản đồ 1:500.000, các điểm dân cư cũng được đặc trưng theo kiểu
cư trú, theo ý nghĩa hành chính - chính trị và số dân:
134

- Biểu thị tẩt cả các thành phố, các vùng dân cư kiểu thành phố, các trung
tâm hành chính (từ huyện lỵ trở lên), các vùng dân cư quan trọng ở nông thôn.
Đối với các vùng dân cư còn lại thì tiến hành lựa chọn phù hợp với chỉ tiêu lựa
chọn đã quy định đối với từng vùng.
- Để phản ánh các kiểu cư trú và số dân người ta dùng các kiểu chữ với
kích thước khác nhau để ghi chú.
c- Đường sá giao thông:
Các tuyến đường sắt được phân cấp theo độ rộng của đường ray, số
đường ray, dạng sức kéo, trạng thái của đường.
Các đường bộ không ray được biểu thị theo các cấp; đường ô tô trục,
đường nhựa tốt, đường nhựa, đường đá, đường đất ô tô đi được, đường đi trên
đồng ruộng, đường trong rừng, đường mòn.
Trên bản đồ biểu thị tất cả các đường sắt rộng. Đối với những đường sắt
hẹp thì chủ yếu biểu thị những đường có độ dài lớn hơn 2cm trên bản đồ. Ở
những vùng có lưới đường sắt dày đặc thì thậm chí có thể lược bỏ một số
đường có chiều dài >2cm. Trên đường sắt phải biểu thị các nhà ga, các đường
tránh tàu.
Biểu thị tất cả các đường ôtô trục và các đường nhựa tốt. Ở những vùng có

mật độ đường sá dày đặc có thể bỏ một số đường nhựa ngắn ít quan trọng. Ở
những vùng có ít đường nhựa thì phải biểu thị tất cả những đường đá loại tốt.
Đường đất chỉ biểu thị ở những vùng không có đường cấp cao hơn. Các đường
trên đồng ruộng và đường rừng chỉ được biểu thị ở những vùng đường sá rất kém
phát triển.
d- Dáng đất:
Dáng đất được biểu thị bằng các đường bình độ với khoảng cao đều 50m
cho vùng đồng bằng và 100m cho vùng núi. Ngoài ra còn sử dụng đường bình
độ nửa khoảng cao đều và đường bình độ phụ ở những nơi cần thiết.
Trên bản đồ còn biểu thị các điểm độ cao đặc trưng. Ngoài ra còn dùng
các ký hiệu riêng để thể hiện các yếu tố địa hình không thể hiện được bằng
đường bình độ.
135

Để phản ánh trực quan, có khi người ta còn dùng phương pháp vờn bóng
địa hình và tô màu theo các tầng độ cao.
Dáng đất đáy biển được biểu thị theo thang tầng độ sâu: 10, 20, 50, 100,
150, 200, 300, 400, 500, 700, 1500, 2000. Ngoài ra còn ghi các điểm độ sâu.
e- Thực vật và đất:
Thực vật và đất thì được biểu thị với các loại sau đây: Rừng, rừng bụi
rậm, các vườn cây trồng, đầm lầy, bãi cát, bãi đá, vùng đất mặn.
Khi biên vẽ thì cần phải phản ánh được đặc điểm phân bố và tương quan
diện tích của các loại thực vật và đất khác nhau. Tiêu chuẩn lựa chọn của rừng
là 10 mm
2
, của bãi cát là 1 cm
2
, của đầm lầy và vùng đất mặn là 25 mm
2
.

g- Ranh giới:
Trên bản đồ 1:500.000 thì các đường ranh giới hành chính – chính trị
được vẽ từ cấp huyện trở lên. Khi vẽ đường ranh giới thì phải đảm bảo độ
chính xác hình học trong phạm vi tỷ lệ bản đồ cho phép.
Ngoài các nội dung kể trên, bản đồ 1:500.000 còn được dùng để làm bản đồ
bay cho nên trên đó còn cần phải thể hiện các số liệu giao thông hàng không như
các điểm và các đường dị thường, độ lệch nam châm, các đường đẳng từ thiên.
5.2.3. Bản đồ địa hình khái quát tỷ lệ 1:1000.000
Bản đồ này cũng đáp ứng nhiều nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và quốc
phòng:
- Nghiên cứu cấu trúc bề mặt và các điều kiện tự nhiên của các vùng rộng lớn.
- Lập kế hoạch và dự thảo các phương án có tính chất an toàn về khai
thác lãnh thổ và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên.
- Làm bản đồ bay.
- Sử dụng làm tài liệu để thành lập các bản đồ địa lý chung tỷ lệ nhỏ và các
bản đồ chuyên đề
Ở nước ta hiện nay, bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000 được thành lập trong phép
chiếu hình nón đồng góc với 2 vĩ tuyến chuẩn 11
0
và 21
0
. Cách thức chia múi và
136

phân mảnh hệ thống bản đồ địa hình này theo hệ thống UTM quốc tế, danh pháp
tờ bản đồ theo hệ thống hiện hành có chú thích danh pháp UTM quốc tế. Kích
thước mỗi mảnh bản đồ là  = 4
0
và  = 6
0

. Trên bản đồ các đường kinh tuyến
và vĩ tuyến được vẽ cách nhau 1
0
.
Bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000 biểu thị các yếu tố: Thuỷ hệ, dân cư, đường sá
giao thông, dáng đất, ranh giới hành chính, chính trị, lớp phủ thực vật và đất.
a- Thuỷ hệ:
Trên bản đồ thể hiện những yếu tố sau:
- Thể hiện bờ biển, sông ngòi, hồ và những thiết bị thuộc thuỷ hệ.
- Phản ánh những đặc điểm cơ bản của các kiểu bờ biển, đặc điểm phân cắt
và mức độ khúc khuỷu của nó, đặc trưng các dải gần bờ (các bãi cát, đảo, ).
- Thể hiện đặc điểm của từng hệ thống sông, thể hiện các sông chính, đặc điểm
uốn khúc của sông, mật độ tương đối của mạng lưới sông ngòi. Đối với những vùng
có mật độ sông ngòi trung bình thì vẽ các con sông có độ dài 1.5cm trở lên, ở vùng
sông ngòi thưa thớt thì có thể vẽ những con sông < 1.5cm. Đối với những vùng có
sông ngòi dày đặc thì có khi cũng phải loại bỏ 1 số sông có độ dài 2 – 3 cm.
Các hồ và các bể chứa nước được vẽ nếu diện tích > 2 mm
2
,
các hồ nhỏ chỉ
thể hiện ở những nơi chúng tập trung dày đặc. Trên bản đồ cần chỉ rõ nhừng đoạn
sông tàu qua lại được. Các kênh đào cho tàu qua lại thì vẽ tất cả, còn các kênh để
tưới tiêu thì được thể hiện có chọn lọc.
b- Dân cư:
Các điểm dân cư được phân chia theo kiểu cư trú thành phố, kiểu thành
phố, nông thôn theo số người và theo ý nghĩa hành chính chính trị.
Trên bản đồ biểu thị tẩt cả các thành phố, điểm dân cư kiểu thành phố
cũng thường được vẽ tất, chỉ ở những nơi chúng tập trung dày đặc thì mới cần
có sự lựa chọn.
137


Các điểm dân cư có diện tích lớn thì được biểu thị bằng ký hiệu diện tích:
Hầu hết tất cả các điểm dân cư được biểu thị bằng ký hiệu phi tỷ lệ - đó là những
vòng tròn có kích thước khác nhau.
Sự phân biệt các điểm dân cư theo kiểu số người và theo ý nghĩa hành
chính – chính trị được thể hiện thông qua các ký hiệu vòng tròn và chữ ghi chú.
c- Đường sá giao thông:
Đường sắt biểu thị trên bản đồ được phân loại theo độ rộng của đường ray,
theo số đường ray và dạng sức kéo. Trên đường sắt còn biểu thị các nhà ga.
Các đường không ray thì phân biệt biểu thị: Đường ô tô trục, đường nhựa tốt,
đường nhựa, đường đá và đường đất. Thông thường thì các đường thuộc 3 cấp đầu
được vẽ tất cả. Đối với đường đá và đường đất thì có sự lựa chọn. Trên bản đồ cần
chỉ rõ các đoạn đường ngầm, các đèo, những nơi qua sông. Về giao thông đường
thuỷ thì biểu thị các đường biển, các cảng và bến tàu, các đoạn sông và các kênh mà
tàu, thuyền qua lại được.
d- Dáng đất:
Khoảng cao đều cơ bản để biểu thị dáng đất lục địa là như sau: Trong phạm
vi độ cao từ 400m trở xuống thì khoảng cao đều là 50m; ở độ cao 400 – 1000m thì
khoảng cao đều là 100m,  1000m thì khoảng cao đều là 200m. Sự biểu thị dáng
đất lục địa còn được bổ sung bằng các ký hiệu riêng, ghi chú độ cao và tên gọi các
đối tượng sơn văn.
Để thể hiện trực quan dáng đất, người ta có thể vờn bóng hoặc tô màu
theo các tầng độ cao.
Mức độ tổng quát hoá dáng đất trên bản đồ 1:1.000.000 là tương đối lớn.
Trên bản đồ chỉ thể hiện được các dạng địa hình lớn và trung bình.
Dáng đất đáy biển được biểu thị bằng các đường đẳng sâu 50, 100, 150,
200, 300, 400, 500, 700, 1000, 1500, 2000, 3000, 4000, 5000, ngoài ra còn
dùng các điểm độ sâu.
138


e- Lớp phủ thực vật và đất:
Trên bản đồ biểu thị các loại rừng , rừng bụi rậm, đầm lầy, bãi cát, vùng
đất mặn, Các khu rừng riêng biệt có diện tích từ 10 mm
2
trở lên thì được vẽ.
Ở những khu vực chuyển tiếp từ rừng sang kiểu vùng khác thì vẽ các khu rừng
có diện tích từ 2 mm
2
trở lên.
Trên bản đồ vẽ các đầm lầy có diện tích từ 25 mm
2
và các bãi cát có diện
tích từ 1 cm
2
.
f- Ranh giới hành chính – chính trị:
Trên bản đồ biểu thị ranh giới quốc gia, ranh giới tỉnh và ranh giới huyện.
Đường ranh giới quốc gia được thể hiện với sự khái quát ít nhất.
Ngoài các yếu tố kể trên, trên bản đồ 1:1.000.000 còn thể hiện một số số
liệu giao thông hàng không như các đường đẳng từ thiên, các đường dị thường
có độ lệch từ.
*****
CHƯƠNG 6:
THIẾT KẾ BIÊN TẬP VÀ THÀNH LẬP BẢN ĐỒ
6.1. Cơ sở lý thuyết thiết kế, biên tập và thành lập bản đồ
6.1.1. Những vấn đề chung về thể hiện bản đồ và mô hình hoá bản đồ
Thiết kế và thành lập bản đồ là môn học quan trọng cơ bản của bản đồ
học về lý thuyết cũng như thực tế.
Nhiệm vụ quan trọng của sự phát triển lý thuyết bản đồ học là soạn thảo
ra cơ sở lý luận về môn học này. Kết quả của quá trình thiết kế và thành lập bản

đồ là phần chính quan trọng của sản phẩm bản đồ. Đó là bản gốc biên vẽ (Bản
đồ tác giả), trên đó chứa toàn bộ nội dung, đặc điểm của tác phẩm bản đồ cần
thành lập.
139

Lý thuyết của môn học này bao gồm các khái niệm và lý luận về các vấn
đề:
1- Thể hiện trên bản đồ các đối tượng, hiện tượng.
2- Mô hình bản đồ.
3- Soạn thảo các phương pháp thể hiện, xây dựng các ký hiệu quy ước
bản đồ và xác định các nguyên tắc chính khi thiết kế chúng.
4- Thông tin bản đồ, bản chất thông tin bản đồ, sử dụng, đánh giá dung
lượng thông tin bản đồ.
Các khái niệm và các vấn đề đã nêu là cơ sở, cầu nối mối liên hệ giữa lý
thuyết và thực hành của thiết kế và thành lập bản đồ. Nó là phần chung nhất
không thể thiếu trong mọi trường hợp của quy trình sản xuất bản đồ.
Phần cơ sở chung này bao gồm các vấn đề:
- Thiết kế cơ sở trắc địa và toán học cho bản đồ.
- Lý thuyết chung về thiết kế và thành lập bản đồ.
- Các phương pháp thể hiện thông tin bản đồ, các vấn đề về thành lập bản đồ gốc.
- Trang thiết bị kỹ thuật dùng để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ của bản
đồ.
1. Sự thể hiện trên bản đồ các đối tượng, hiện tượng
Sự thể hiện trên bản đồ các đối tượng, hiện tượng là quá trình đưa, biến đổi
các thông tin cho trước về đối tượng, hiện tượng nào đó lên hình ảnh bản đồ. Hay
nói cách khác đó là quá trình sắp đặt các đối tượng, hiện tượng trong một không
gian topo, có mối liên hệ mật thiết với nhau về tự nhiên và kinh tế xã hội thông
qua hệ thống ký hiệu quy ước bản đồ.
Khái niệm về sự thể hiện bản đồ làm rõ bản chất và toàn bộ quá trình
thành lập bản đồ.

Đó là vấn đề lựa chọn cơ sở toán học cho bản đồ:
- Lựa chọn bề mặt toán học của trái đất, hành tinh và các thông số khác.
- Lựa chọn phép chiếu bản đồ.
140

- Tỷ lệ bản đồ
Đó là lý thuyết, phương pháp cụ thể để xác định sự tương ứng giữa toạ
độ thực của đối tượng trên bề mặt trái đất và trên bản đồ.
Trên bản đồ không thể hiện toàn bộ các đối tượng, hiện tượng thực tế, do
đó cần phải chỉ ra các đặc trưng tiêu biểu của đối tượng để khái quát hoá hình
dạng của chúng. Các đối tượng được biểu thị trong mối quan hệ không gian,
lôgic. Khi xây dựng hình ảnh bản đồ có thể chỉ trên cơ sở sử dụng các phương
pháp thể hiện tương ứng và hệ thống ký hiệu bản đồ.
Sự phát triển của bản đồ học và các ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác
(Trắc địa, địa lý) đã dẫn đến các khái niệm mới, thuật ngữ mới: Ví dụ, trong bản đồ học
có thuật ngữ, khái niệm: Mô hình bản đồ, hệ thống ký hiệu bản đồ,
Ứng dụng các khái niệm, hiểu biết này cho phép tìm ra và phát triển các
khái niệm và phương pháp mới trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật mới như:
Tự động hoá thành lập, lưu trữ bản đồ, điện tử tin học (các phần mềm chuyên
dụng) Nghiên cứu và sử dụng mô hình bản đồ trong mọi lĩnh vực đời sống
kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Ví dụ, dùng mô hình bản đồ để thành lập
hệ thống thông tin địa lý (GIS)
2. Mô hình bản đồ. Bản chất và các dạng mô hình bản đồ:
Mô hình bản đồ là sự thành lập các bản đồ bằng cách xây dựng các mô
hình không gian cho từng đối tượng nội dung bản đồ và mối liên hệ giữa chúng
trên một cơ sở toán học xác định.
Đối tượng của mô hình bản đồ là các vấn đề thực tế hiển nhiên, khách quan.
Sự khác nhau giữa mô hình bản đồ với các mô hình khác được đặc trưng và xem xét
ở 3 khía cạnh:
a. Về mặt toán học: Trong quá trình mô hình hoá bản đồ phải xem xét và

xử lý các vấn đề về bản chất toán học của mô hình (lựa chọn phép chiếu bản
đồ, tỷ lệ và các yêu tố khác, ). Đồng thời trong quá trình đó, người ta sử dụng
141

các phương pháp toán học khác nhau để xây dựng các biểu, bảng để hoàn thành
các công việc phân tích, tổng hợp, đáp ứng mục đích, yêu cầu đối với bản đồ.
b. Về mặt cấu trúc nội dung: Mô hình bản đồ biểu diễn các tính chất đặc
trưng của các đối tượng thực tế. Khi thể hiện luôn phải đảm bảo sự tương ứng
của đối tượng và mô hình. Nói cách khác, sự tương ứng cấu trúc nội dung được
đảm bảo bằng:
- Sự thể hiện đúng, chính xác bản chất , nội dung của đối tượng, hiện tượng.
- Hình dạng bên ngoài, cấu trúc không gian bên trong được tổng quát hoá
tương ứng với mục đích, ý nghĩa của bản đồ cần thành lập.
- Sự thể hiện đúng, chính xác bản chất nội dung của đối tượng, hiện tượng.
- Hình dạng bên ngoài, cấu trúc không gian bên trong được tổng quát hoá
tương ứng với mục đích, ý nghĩa của bản đồ cần thành lập.
- Sự thể hiện các dấu hiệu chính, các đặc trưng của đối tượng.
Như vậy, trong quá trình mô hình hoá bản đồ cần xem xét đến mục đích,
nội dung và tỷ lệ bản đồ để xác định sự đầy đủ và tính chi tiết nội dung của mô
hình, mối liên hệ giữa chúng, sự tương ứng với thực tế khách quan.
c. Về mặt ký hiệu: Sự thể hiện các đối tượng tất nhiên phải thông qua ký
hiệu bản đồ. Các phương pháp thể hiện bản đồ bao gồm:
- Các quy luật, công thức toán học dùng để mô hình hoá các đối tượng,
hiện tượng thực tế.
- Các phương pháp biểu diễn hình ảnh bản đồ trên các loại vật liệu khác
nhau (giấy, điamát, băng, đĩa từ ).
Tất cả các khía cạnh, vấn đề vừa nêu trên có mối quan hệ mật thiết, gắn
bó với nhau trong một tổng thể thống nhất đặc trưng cho các mô hình bản đồ
tương ứng.
Các dạng mô hình bản đồ:

142

Trong mô hình hoá bản đồ, phụ thuộc vào nhiệm vụ, điều kiện cụ thể,
phương pháp mô hình hoá, người ta chia mô hình bản đồ thành 2 dạng chính:
Dạng cơ bản và dạng dẫn xuất.
1- Dạng cơ bản: Được lập ra từ các dạng tư liệu khác nhau (Số liệu đo
toàn đạc trắc địa, ảnh mặt đất, ảnh hàng không, ảnh vũ trụ, ).
Khi xây dựng dạng mô hình này có thể đo vẽ trực tiếp thực địa hoặc theo
các kết quả đo vẽ trên ảnh, kết quả nghiên cứu, thực hành khác (khí tượng, địa
chất, hải dương học, ).
2- Dạng dẫn xuất: Là các mô hình được thành lập từ mô hình của dạng
thứ nhất. Căn cứ vào mục đích, đề tài của bản đồ mà người ta xác định các cơ
sở toán học, chọn phương pháp thể hiện nội dung, thiết kế hệ thống ký hiệu quy
ước. Khi thành lập mô hình bản đồ dẫn xuất người ta tiến hành khái quát cấu
trúc các đối tượng cần thể hiện đồng thời thiết kế cấu trúc mới của đối tượng
dựa trên cơ sở cấu trúc ban đầu.
Khi thiết kế mới các đối tượng có thể dùng các thông tin bổ sung về đối
tượng bản đồ, mối liên quan giữa chúng và hướng phát triển đối tượng.
Các mô hình bản đồ dẫn xuất được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực
khoa học kỹ thuật, đời sống kinh tế, xã hội phục vụ cho mọi đối tượng để giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể trong khoa học và kinh tế quốc dân.
6.1.2. Hệ thống ký hiệu bản đồ và những nguyên tắc cơ bản khi thiết kế
1. Các nguyên tắc cơ bản khi thiết kế hệ thống ký hiệu bản đồ
Khi thiết kế hệ bất kỳ bản đồ nào cũng phải xác định đặc điểm, khối
lượng nội dung cần thiết để đảm bảo chất lượng bản đồ. Để đạt được điều đó
cần chọn lựa phương pháp tối ưu thể hiện các đối tượng, hiện tượng thông qua
hệ thống ký hiệu quy ước bản đồ.
- Khi thành lập bản đồ địa hình, bản đồ địa lý chung thì các phương pháp
thể hiện, hệ thống ký hiệu mang tính truyền thống, định sẵn (nó được ghi trong
quy trình, quy phạm cho bản đồ địa hình).

143

- Khi thành lập các bản đồ chuyên đề, chuyên môn, atlas thì điều cần
nhất là trong điều kiện cụ thể chọn và thiết kế được hệ thống ký hiệu quy ước
và các phương pháp thể hiện phù hợp với mục đích, đề tài, nội dung bản đồ.
- Khi xem xét các nguyên tắc cơ bản thiết kế các ký hiệu quy ước, chúng
ta không xem xét về mặt ngôn ngữ, trình bày khái niệm (phần này được xem
xét kỹ trong môn học “Trình bày bản đồ” và “Vẽ bản đồ”). Ở đây ta chỉ nêu
các bước thiết kế ký hiệu quy ước.
Dưới góc độ hệ thống ký hiệu bản đồ (HTKHBĐ), HTKHBĐ là tập hợp
các ký hiệu có nguyên tắc chung về thiết kế và thể hiện chúng trên bản đồ.
- Ký hiệu bản đồ thể hiện hình ảnh đối tượng lên bản đồ.
- Các ký hiệu bản đồ được đưa lên bản đồ theo mục đích, đề tài bản đồ.
- Khi thiết kế HTKHBĐ cần tính đến đặc điểm sinh học của mắt, điều
kiện sử dụng chúng, trình độ hiểu biết của người sử dụng bản đồ, khả năng
công nghệ khoa học kỹ thuật của cơ sở sản xuất.
Ngoài ra, khi thiết kế HTKHBĐ cần tính đến tính kinh tế, khả năng ứng
dụng công nghệ cao, kỹ thuật điện tử tin học,
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thiết kế HTKHBĐ
a. Về mặt Sintacsic (cấu trúc bên trong của ký hiệu – Phương diện cú pháp)
HTKHBĐ đặc trưng cho mối quan hệ các ký hiệu và các chức năng của
chúng trên bản đồ. Chỉ số Sintacsic của HTKHBĐ là lượng các ký hiệu và khả
năng kết hợp các ký hiệu để thể hiện các đề tài bản đồ.
Theo khái niệm này, nguyên tắc cơ bản của thiết kế HTKHBĐ bao gồm:
+ Lựa chọn số lượng ký hiệu tối ưu cho bản đồ.
+ Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn về cấu trúc không gian, kích thước ký
hiệu để đảm bảo sự khác nhau về dạng cấu trúc lôgic của ký hiệu.
+ Lựa chọn các ký hiệu đơn giản, dễ vẽ, dễ định vị trên bản đồ bằng các
quy luật hình học đơn giản.
144


+ Xây dựng các ký hiệu trên cơ sở số lượng tối ưu các yếu tố thành phần
cấu trúc ký hiệu để thể hiện các đối tượng ở thứ, hạng, bậc khác nhau.
+ Khả năng truyền đạt bằng HTKHBĐ nằm trong mối liên hệ về không
gian, lôgic, giữa các đối tượng.
b. Về mặt Semantic (ý nghĩa của HTKHBĐ – phương diện ngữ nghĩa)
Đó là sự đặt ra mối tương quan giữa ký hiệu và đối tượng được thể hiện.
Đặc tính Semantic của HTKHBĐ đảm bảo tính đầy đủ, tính chặt chẽ của sự thể
hiện bản đồ cả về mặt chất lượng, số lượng của đối tượng được thể hiện.
Đáp ứng các yêu cầu về ý nghĩa của HTKHBĐ, khi thiết kế ký hiệu bản
đồ cần tính đến các nguyên tắc sau:
+ Thể hiện bằng ký hiệu số lượng lớn nhất các khái niệm về đối tượng,
truyền đạt các tính chất của đối tượng và mối liên hệ, tương quan giữa chúng
với nhau, đáp ứng mục đích bản đồ.
+ Thể hiện cấu trúc phân loại đối tượng bản đồ và các phương tiện đồ hoạ.
+ Đảm bảo mỗi ký hiệu chỉ tượng trưng, tương ứng với một nội dung của
đối tượng được thể hiện đồng thời tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản của mã
hoá.
+ Xem xét khả năng thể hiện mối liên hệ nội dung giữa các đối tượng
bằng cách sử dụng cấu trúc lôgic.
c. Về mặt thực tiễn của HTKHBĐ (Pragmatic – Phương diện ngữ dụng).
Đó là sự xem xét tương quan, quan hệ của ký hiệu với người sử dụng
chúng. Tính thực tiễn đảm bảo độ rõ ràng, dễ đọc của các hiện tượng được thể
hiện trên bản đồ. Chỉ số đặc trưng này là mức độ nhận biết bằng mắt và bằng
máy các ký hiệu và khả năng kết hợp chúng trong một tổng thể chung.
Về mặt này khi thiết kế HTKHBĐ cần theo nguyên tắc sau:
145

+ Sử dụng các quy luật, khả năng phục hồi bản đồ để xây dựng
HTKHBĐ với yêu cầu nhanh chóng, dễ dàng phục hồi và giải mã hình ảnh bản

đồ.
+ Tính đến cơ sở lý luận dùng các mẫu để xây dựng HTKHBĐ có thể
dùng cho cả bản đồ máy tính (Máy tính điện tử và các thiết bị chuyên dụng để
nhập, xuất hình ảnh bản đồ).
+ Sử dụng các nguyên tắc tạo hình và thẩm mỹ để nâng cao khả năng
xem và mỹ thuật của bản đồ.
+ Áp dụng các nguyên tắc cơ bản xây dựng HTKHBĐ nhằm bảo đảm
tính thông tin của chúng lớn nhất.
6.1.3. Các giai đoạn của quá trình sản xuất bản đồ
Bản đồ là loại sản phẩm đặc biệt, nó có các đặc điểm và tính chất quan
trọng để dễ dàng phân biệt chúng với các loại hình sản phẩm khác như ảnh vệ
tinh, ảnh hàng không, tranh ảnh khác (đặc điểm của nó đã nói đến trong phần
đầu của bản đồ học).
Với những đặc thù như vậy nên quy trình sản xuất bản đồ cũng có những
đặc điểm, tính chất riêng. Những đặc điểm này thể hiện rõ trong từng giai đoạn
công việc của quy trình sản xuất bản đồ.
Sơ đồ về quy trình công nghệ sản xuất bản đồ có thể chia ra 4 giai đoạn
chính sau:
1. Chuẩn bị biên tập: Đó là giai đoạn đầu tiên của quá trình sản xuất bản đồ. Nó
được tiến hành đồng thời với quá trình thiết kế bản đồ. Nội dung công việc của
giai đoạn này chúng ta sẽ xem xét kỹ ở phần “Công tác chuẩn bị biên tập”. Sản
phẩm cuối cùng của giai đoạn này là “Kế hoạch biên tập bản đồ” cùng với các tài
liệu, tư liệu bản đồ phục vụ cho thành lập tờ bản đồ mới.
2. Biên tập và thành lập bản đồ: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quy
trình sản xuất bản đồ. Ở giai đoạn này, mô hình bản đồ cần thành lập sẽ được
hình thành. Chất lượng bản đồ (nội dung, phương pháp thể hiện, độ chính
146

xác ) được xác định ở đây Đây là công việc sáng tạo khoa học, nó không chỉ
phụ thuộc vào tay nghề, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của các biên tập

viên, những người thành lập bản đồ.
Sản phẩm cuối cùng của giai đoạn này là bản gốc biên vẽ hoặc bản gốc tác
giả (đối với bản đồ chuyên đề).
3. Trình bày và chuẩn bị in bản đồ:
Kết thúc giai đoạn biên tập – thành lập bản đồ, chúng ta được bản gốc biên
vẽ (Bản gốc tác giả). Tuy nhiên, chất lượng đồ hoạ trên các bản gốc này chưa cao,
chưa đáp ứng yêu cầu đối với bản đồ cần thành lập. Hơn nữa, màu sắc, mật độ
quang học hình ảnh bản đồ chưa phù hợp, chưa thuận tiện cho công nghệ chế in,
nhân bản bản đồ. Do đó người ta phải thực hiện giai đoạn trình bày và chuẩn bị in
bản đồ (theo công nghệ truyền thống).
Ở giai đoạn này người ta thực hiện các công việc:
- Thanh vẽ bản đồ: Nhằm nâng cao chất lượng đồ hoạ của bản đồ (kích
thước ký hiệu, kích thước và kiểu chữ, màu sắc nền bản đồ ). Kết quả của thanh
vẽ người ta được các bản gốc thanh vẽ có chất lượng đồ hoạ cao, nét vẽ, mực vẽ
phù hợp với giai đoạn tiếp theo: Chuẩn bị in bản đồ.
- Chuẩn bị in bản đồ: Đây là giai đoạn chế ra các âm bản, dương bản tách
màu nền, màu nét, chế khuôn in thử, in thử màu. Nó là giai đoạn không thể thiếu
nhằm kiểm tra lại chất lượng công việc của các giai đoạn trước (Biên tập thành
lập, trình bày bản đồ) để quyết định đưa vào in ấn xuất bản đồ. Đồng thời nó cũng
là bước thử nghiệm cho việc lựa chọn phương án chế in ấn xuất, thử nghiệm chất
lượng giấy in, màu mực in,
Kết thúc giai đoạn này là bản thừ màu bản đồ. Bản thử màu bản đồ là hình
mẫu của bản đồ (cả về nội dung và hình thức) sẽ in ra hàng loạt.
Bản thử màu đã được ký duyệt cho in ấn xuất bản đồ sẽ là bản mẫu để kiểm
tra chất lượng bản đồ in ra hàng loạt.
4. In bản đồ. Cắt xén đóng gói sản phẩm:
147

Bản đồ được thành lập và in thử màu là kết quả của 3 giai đoạn đã kể trên.
Chất lượng bản đồ hàng hoá phục vụ cho các đối tượng tiêu dùng lại chịu ảnh

hưởng nhiều bởi quy trình in ấn xuất bản đồ và hoàn thiện cắt xén đóng gói. Khi
in ấn xuất bản đồ, người ta thường phải xác định loại máy in dùng in bản đồ, thiết
kế trang in, phương pháp chế khuôn in, chuẩn bị giấy in, màu in và các phương
pháp gia cố nâng cao chất lượng sản phẩm bản đồ (bồi vải, phủ màng polyme lên
mặt bản đồ).
Sơ đồ quy trình sản xuất bản đồ:






6.2. Thiết kế bản đồ
Thiết kế và biên tập bản đồ là các quá trình liên quan và bổ trợ lẫn nhau.
Công việc biên tập là dạng các công việc thành lập sản xuất bản đồ trong đó
bao gồm cả các công việc chuẩn bị biên tập và biên tập toàn bộ các giai đoạn
sản xuất bản đồ.
Thiết kế bản đồ là giai đoạn quan trọng của công việc chuẩn bị biên tập.
Kết quả của quá trình này là soạn thảo ra các tài liệu biên tập. Tập hợp các công
việc này tạo ra phần chính của bản thiết kế biên tập kỹ thuật bản đồ.
6.2.1. Bản chất và nội dung của việc thiết kế bản đồ
Thiết kế bản đồ được bắt đầu từ nghiên cứu nhiệm vụ và các vấn đề đặt
ra với bản đồ cần thành lập. Đó là các vấn đề liên quan đến biên tập, công nghệ
và tổ chức sản xuất bản đồ.
Chuẩn bị biên tập
Biên tập – Thành lập
Trình bày và chuẩn bị in
In bản đồ - Đóng gói sản phẩm
148


Kết quả của quá trình thiết kế bản đồ là soạn thảo ra các thông số tối ưu
cho bản đồ cần thành lập. Đây là cơ sở để thực hiện các công việc biên tập cụ
thể. Thiết kế bản đồ được thực hiện trên cơ sở các quy luật của các môn khoa
học kỹ thuật. Các môn khoa học này có liên quan đến tính chất, đặc điểm của
các tác phẩm bản đồ cần lập.
Tương ứng với cơ sở lý luận chung, quá trình thiết kế bản đồ gồm các bước sau:
1- Giải thích rõ mục đích, ý nghĩa bản đồ.
2- Thiết kế cơ sở Trắc địa – Toán học cho bản đồ.
3- Soạn thảo nội dung bản đồ và phân loại các đối tượng, hiện tượng.
4- Xác định các đặc tính, chỉ số (số lượng, chất lượng) của các đối tượng, hiện
tượng bản đồ.
5- Thiết kế các phương pháp thể hiện bản đồ, hệ thống ký hiệu quy ước, bảng
chú giải bản đồ.
6- Thiết kế trình bày bản đồ.
7- Thiết kế công nghệ thực hiện các công việc làm bản gốc và các phương pháp
chế in bản đồ.
Trong từng trường hợp cụ thể, thiết kế bản đồ là chỉ dẫn cụ thể (phụ
thuộc vào dạng bản đồ cần lập, mức độ hiện tại, mới của bản đồ).
Theo đặc điểm thiết kế bản đồ, người ta chia bản đồ ra thành 3 loại
chính:
a. Bản đồ địa hình.
b. Bản đồ truyền thống hay sêri bản đồ (Địa lý chung và chuyên đề).
c. Sêri các bản đồ gốc hay các bản đồ gốc mới làm lần đầu.
Ngoài ra còn có thể xuất hiện một số đặc điểm thiết kế khi soạn thảo lý
thuyết chung thể hiện trong các quy phạm, các tài liệu khác.
Nói chung việc thiết kế bản đồ phụ thuộc vào thể loại bản đồ, tỷ lệ bản
đồ, Đối với các loại bản đồ truyền thống đã xuất bản nhiều lần thì tài liệu
thiết kế có thể đã được viết trong các quy định, quy phạm, tài liệu biên tập kỹ
thuật.
149


6.2.2. Những giai đoạn chính của thiết kế bản đồ
1. Xác định mục đích, ý nghĩa bản đồ cần thành lập.
Ở đây cần thực hiện các công việc sau:
- Xác định, nghiên cứu các yêu cầu đối với bản đồ cần lập. Xác định đối
tượng sử dụng bản đồ.
- Giải quyết các nhiệm vụ của bản đồ, chỉ dẫn thực hiện các công việc
nhằm đạt mục đích của bản đồ.
- Xác định rõ điều kiện sử dụng bản đồ: treo tường, để bàn, sử dụng
ngoài thực địa, trong phòng, các phương pháp đọc bản đồ (bằng mắt thường,
bằng máy quét, máy đọc + máy móc thiết bị chuyên dụng).
2. Thiết kế cơ sở toán học bản đồ.
Đây là giai đoạn khó khăn và phức tạp, gồm các vấn đề sau:
- Lựa chọn tỷ lệ bản đồ.
- Lựa chọn phép chiếu bản đồ.
- Lựa chọn và trình bày lưới tọa độ, lưới chiếu bản đồ.
- Sơ đồ bố cục (kích thước vùng lãnh thổ, kích thước khung trong, khung
ngoài, bảng chú giải, các bản đồ phụ, ).
- Hệ thống chia mảnh bản đồ (đối với bản đồ nhiều mảnh).
a. Lựa chọn tỷ lệ bản đồ - Tỷ lệ bản đồ xác định kích thước không gian mô
hình bản đồ:
Tỷ lệ quyết định kích thước không gian của mô hình, chính vì vậy mà độ
chính xác có thể đạt được từ các kết quả đo toạ độ, độ dài trên bản đồ, mức độ
đầy đủ và chi tiết của nội dung bản đồ phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ bản đồ.
Ý nghĩa của tỷ lệ bản đồ là đảm bảo:
+ Độ chính xác khi đo đạc tọa độ các điểm và độ dài của đường được xác
định bằng công thức:
k
md
k

ml
N



 7101000
+ Độ chính xác định vị điểm của các đối tượng:
150


q
n
M
0


+ Phản ánh của các đối tượng diện tích ở kích thước nhỏ nhất có thể:

P
p
N
5
10
11

Trong đó:
N: Mẫu số của tỷ lệ bản đồ
M: Tỷ lệ thể hiện số km/1cm

k

: Sai số trung phương về vị trí của đối tượng trên bản đồ so với thực
địa (đơn vị mm).
m
k
và m
d
: Sai số trung phương khi xác định toạ độ các điểm riêng biệt và
khoảng cách giữa chúng trên bản đồ (đơn vị:m)
q: Mật độ các đối tượng trên thực địa được định vị theo điểm (số đối
tượng trên 100 km
2
thực địa).
n
0
: Tải trọng bản đồ tính theo đối tượng điểm (số đối tượng trên 100
cm
2
).
p: Đối tượng diện tích nhỏ nhất trên thực địa (km
2
)
P: Diện tích nhỏ nhất trên bản đồ tương ứng với p (cm
2
).
Khi lựa chọn tỷ lệ bản đồ người ta thường phải căn cứ theo mục đích ý
nghĩa bản đồ, yêu cầu độ chính xác khi đo đạc trên bản đồ, mức độ đầy đủ khi
truyền đạt, thể hiện đối tượng từ thực tế lên bản đồ.
Sau khi đã chọn ra một số tỷ lệ có thể đáp ứng với các yêu cầu trên,
thông thường người ta sẽ chọn tỷ lệ lớn nhất trong các tỷ lệ đã chọn vì tỷ lệ này
cho nhiều ưu điểm hơn so với tỷ lệ nhỏ hơn.

Trong một số trường hợp cụ thể việc lựa chọn tỷ lệ bản đồ còn cần xem
xét cụ thể vùng lãnh thổ (Thế giới, châu lục, đất nước, vùng, khu vực, ) được
giới hạn cụ trong khung bản đồ (kích thước đã định trước). Đặc biệt là đối với
sêri bản đồ, tập bản đồ.
151

Ngoài các yếu tố kể trên khi lựa chọn tỷ lệ bản đồ người ta cũng phải
tính đến tương quan của bản đồ cần thiết kế với các bản đồ cùng loại, tương tự;
tính đến các yếu tố như:
- Hiệu quả kinh tế liên quan đến kích thước giấy in bản đồ.
- Khả năng của máy in ốp sét (kích thước khuôn in).
- Giảm đến mức nhỏ nhất khi chia bản đồ ra làm nhiều mảnh (số mảnh
bản đồ ít nhất).
b. Lựa chọn phép chiếu bản đồ:
Việc lựa chọn phép chiếu cho bản đồ cần lập phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
đặc biệt là những yếu tố sau:
- Mục đích, ý nghĩa và đặc điểm sử dụng bản đồ.
- Đặc điểm, đặc tính không gian của vùng lãnh thổ bản đồ cần thể hiện:
kích thước, hình dạng và vị trí địa lý của lãnh thổ.
Yêu cầu biến dạng nhỏ nhất (thường được đặt ra yêu cầu cơ bản khi lựa
chọn phép chiếu trong môn học “Toán bản đồ”) chỉ có ý nghĩa quyết định đối
với các bản đồ mà trên đó thực hiện, sử dụng các công việc đo đạc bản đồ,
trong một số trường hợp cụ thể đó là bản đồ địa hình.
Đôi khi người ta chỉ cần có sự phân bố biến dạng có lợi cho người sử
dụng vào mục đích nào đó.
Lựa chọn phép chiếu và tính toán lưới toạ độ cho lưới chiếu bản đồ về
nguyên tắc là bắt buộc phải có trong quy trình thành lập bản đồ mới. Nhưng
trên thực tế có một số loại bản đồ, việc này có thể đơn giản hơn và xét trong
từng trường hợp cụ thể. Thí dụ đối với bản đồ địa hình của mỗi quốc gia
thường được thành lập trên 1 phép chiếu xác định phù hợp với đặc điểm của

quốc gia đó (ở Việt Nam là phép chiếu Gauss-Cruger, UTM và hiện nay là
phép chiếu VN-2000). Đối với các bản đồ chuyên đề, đa số sử dụng phép chiếu
của bản đồ tư liệu – đó là bản đồ địa hình, bản đồ địa lý chung. Bởi vậy việc
lựa chọn phép chiếu bản đồ, trên thực tế chỉ thực hiện đối với các bản đồ tỷ lệ
152

nhỏ và mới làm lần đầu. Đối với các bản đồ này cũng cần hạn chế một số lượng
các phép chiếu vừa đủ dùng.
Trong một số trường hợp khi công việc đo đạc trên bản đồ không đòi hỏi
độ chính xác cao (chiều dài, diện tích  1%; góc 1%) thì sai số cho phép có
thể lớn hơn và như vậy đồng thời có thể có nhiều phép chiếu đáp ứng yêu cầu
của bản đồ cần lập.
Đặc biệt đối với bản đồ treo tường, quảng cáo không thực hiện các công
việc đo đạc trên bản đồ thì sai số biến dạng về chiều dài và diện tích cho phép
10%.
Vấn đề khó khăn và phức tạp nhất chỉ là lựa chọn phép chiếu cho bản đồ
thế giới và các bản đồ có mục đích chuyên dùng trên vùng lãnh thổ lớn.
Để giải quyết vấn đề này cần nắm vững khả năng áp dụng toán bản đồ hiện
đại và phương tiện, công nghệ mới.
c. Lựa chọn và trình bày lưới toạ độ, lưới chiếu bản đồ.
Bản đồ là mô hình ghi lại vị trí không gian của đối tượng trong hệ toạ độ đã
được lựa chọn. Hệ toạ độ này cần có lưới đường toạ độ cần thiết cho xác định tọa
độ điểm bất kỳ trên bản đồ. Bản đồ không có lưới toạ độ không thể gọi là bản đồ.
Trên bản đồ địa lý người ta thường sử dụng hệ toạ độ địa lý để xác định vị
trí các điểm, đối tượng trên bề mặt trái đất tương đối so với bề mặt elípxôit ).
Để xác định toạ độ địa lý người ta thường dùng lưới chiếu bản đồ. Lưới
chiếu bản đồ là hình ảnh của phép chiếu bản đồ được thể hiện thông qua lưới
đường kinh tuyến và vĩ tuyến.
Mật độ và mức độ thể hiện các đường kinh, vĩ tuyến phụ thuộc vào đặc
điểm bản đồ và đặc điểm sử dụng bản đồ. Thí dụ: Trên bản đồ địa hình khái quát,

tỷ lệ 1:1.000.000, cứ cách 1
0
lại thể hiện một đường kinh tuyến, vĩ tuyến. Ở tỷ lệ
1:500.000 các đường kinh tuyến cách nhau 30’, các đường vĩ tuyến cách nhau 20’.
Mật độ của lưới toạ độ trên bản đồ tỷ lệ nhỏ còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố khác như: dạng phép chiếu, số độ làm tròn số, dạng bản đồ,
153

Thí dụ: Khoảng cách giữa các đường kinh tuyến và vĩ tuyến trên lưới chiếu bản
đồ như sau:
Bản đồ
Tỷ lệ bản đồ
1:1.000.000
1:500.000
1:2.500.000
1:5.000.000 1:7.500.000
1:10.000.000

1:15.000.000

Để bàn 30’ 1
0
2
0
4
0
5
0

Treo tường


1
0
2
0
4 – 6
0
8
0
10
0

Đối với bản đồ hàng hải được thành lập ở phép chiếu đồng góc Mercator,
khoảng cách giữa các vĩ độ sao cho trong giới hạn tỷ lệ theo kinh tuyến (m) không
thay đổi.
Khi đó, sai số độ dài ở khung trên của bản đồ  0.2mm. Ngoài ra để thuận
tiện cho xác định tọa độ, phương hướng, đánh giá khoảng cách, diện tích Đặc
biệt là cho mục đích quân sự, trên bản đồ địa hình thường có thêm lưới toạ độ
vuông góc (lưới km), phép chiếu hình trụ ngang đồng góc là phép chiếu của bản
đồ. Trên các bản đồ này, lưới toạ độ địa lý chỉ được thể hiện trên khung bản đồ.
Còn trên bản đồ chỉ có lưới toạ độ vuông góc. Kích thước của các ô lưới này phụ
thuộc vào tỷ lệ bản đồ.
1:25.000 – 4cm
1:50.000 – 2cm
1:100.000 – 2cm
Trên các bản đồ chuyên dùng còn có các đường khác như: đường đẳng từ
(trên bản đồ hàng hải)
d. Soạn thảo sơ đồ bố cục bản đồ:
Trên sơ đồ bố cục thường bao gồm:
1- Xác định ranh giới, giới hạn vùng lãnh thổ bản đồ và vị trí tương đối của nó so

với khung bản đồ.
154

2- Sự phân bố, bố trí tên gọi bản đồ, tỷ lệ bản đồ, bảng chú giải, các khái niệm bổ
sung hỗ trợ, các đồ thị biểu đồ và các bản đồ phụ (nếu thấy cần)
Mục đích chính của công việc soạn thảo sơ đồ bố cục bản đồ là:
- Đảm bảo cho bản đồ có bố cục mang tính khoa học thực tiễn.
- Thuận tiện cho sử dụng bản đồ.
- Đáp ứng yêu cầu và tính thẩm mỹ cho bản đồ.
- Đáp ứng yêu cầu kỹ thuật (kích thước giấy in, kích thước và khả năng
của máy in ốp sét ).
Thiết kế sơ đồ bố cục bản đồ là làm bản maket, sơ đồ bố cục cho tờ bản
đồ, trên đó chỉ ra:
- Kích thước tờ bản đồ
- Khung bản đồ (kích thước khung trong, khung ngoài)
- Vị trí lãnh thổ bản đồ
- Phân bố vị trí tên bản đồ, bảng chú giải,
- Một số thông tin về cơ sở sản xuất bản đồ, người chịu trách nhiệm xuất
bản, năm xuất bản,
- Kích thước, tỷ lệ sơ đồ bố cục tốt nhất là bằng tỷ lệ bản đồ cần lập, cũng
có thể nhỏ hơn 1.5 – 2 lần.
Để giải quyết nhiệm vụ này không chỉ với các tờ bản đồ riêng mà cần cho
các bản đồ nhiều tờ và xêri bản đồ, tập bản đồ.
* Sơ đồ bố cục cho bản đồ 1 tờ riêng lẻ có mấy dạng chính sau:
- Tất cả các yếu tố chính trong sơ đồ bố cục (lãnh thổ bản đồ, tên gọi bản
đồ, tỷ lệ, chú giải, ) đều nằm trong khung bản đồ (Hình 6.1).
- Trong khung bản đồ chỉ thể hiện lãnh thổ và nội dung còn các yếu tố khác
như: bảng chú giải, tỷ lệ, tên bản đồ, bố trí ngoài khung bản đồ (Hình 6.2).



×