Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tìm hiểu đoạn trích "Trao duyên" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.46 KB, 18 trang )

Tìm hiểu đoạn trích "Trao duyên" (trích Truyện Kiều-
Nguyễn Du)

I. Tìm hiểu chung

1. Vị trí đọan trích.

Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim
Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập
đến nhà Kiều vì sự xưng xuất của thằng bán tơ. Cha, em
bị đánh đập tàn nhẫn, của nả bị cướp sạch. Kiều buộc
phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà
tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ còn lại một
đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy
Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đọan
trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều”.
Tiêu đề do người biên sọan đặt.

2. Bố cục: hai đọan:

+ Đọan 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên, cậy nhờ
Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.

+ Đọan 2: Còn lại: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều sau
khi trao duyên. Đó là lưu luyến những kỉ vật, với tình yêu
của mình. Nàng coi hạnh phúc của mình đã chấm dứt,
nàng càng đau đớn vì tình yêu tan vỡ, vì buộc phải phụ
tình Kim Trọng.

3.Đại ý : Đọan trích miêu tả cách xử sự của Thúy Kiều khi
cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đồng thời làm


rõ diễn biến tâm trạng đầy đau khổ tuyệt vọng của Kiều
khi tình yêu tan vỡ, buộc phụ tình với Kim Trọng.

II. Đọc – hiểu

1.Kiều trao duyên

- Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một
chuyện bất đắc dĩ. Trường hợp của Kiều không thể đành
được, buộc nàng phải làm thế. Vả lại việc vợ chồng là
chuyện hệ trọng cả một đời người. Không yêu sao có thể
lấy chồng được. Trao duyên trong hòan cảnh của Thúy
Kiều là chuyện tế nhị và khó nói.

- Kiều đã xử sự như thế nào đã lựa chọn cách nói như thế
nào để người em gái của mình chấp nhận lời thỉnh cầu.
Ngay từ lời mở đầu Kiều đã lựa chọn lời lẽ thích hợp nhất:

Cậy em, em có nhận lời

- “Cậy” chứ không phải nhờ. “Cậy” là thể hiện niềm tin
nhất, chỉ có em mới là người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy”
có sức nặng của niềm tin hơn. “Chịu lời” chứ không phải
nhận lời. “Chịu lời” buộc người mình tin phải nghe theo
kghông thể từ chối. Nếu nói nhận lời thì người nghe có
thể từ chối.

- Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn chọn những
lời lẽ thuyết phục đứa em ruột của mình. Bởi vì những gì
nàng sắp nói ra vô cùng hệ trọng với hạnh phúc của em

mình. Kiều không chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại
“Ngồi lên đây chi lạy rồi sẽ thưa”

- Tại phải lạy em? Làm thế có trái với đạo lí không? Kiều
lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân phải chấp nhận
lấy người mình không được yêu, cụ thể “lấy người yêu chị
làm chồng”.

Hai câu mở đầu đọan trích, ta nhận ra dù trong hòan cảnh
tan nát lòng Thúy Kiều vẫn bộc lộ sự đoan trang tế nhị.

- Nàng có nói về mối tình của mình, hòan cảnh của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt nước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Tình sau mà hiếu cũng nặng. Hòan cảnh này buộc Kiều
phải lực chọn. Lẽ tất nhiên Kiều phải hi sinh tình yêu để
làm tròn chữ Hiếu. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để
Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương lấy
nàng. Đến đây Kiều có thể nói được những điều muốn
nói:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non

Điều muốn trao gửi, Kiều đã nói được rồi. Sau phút ấy
tâm trạng của Kiều ra sao, ta đọc - hiểu tiếp.


2.Tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên

- Trao duyên cho Thúy Vân, Thúy Kiều trao kỉ vật:

Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung

+ Bức tờ mây: tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lời thề
chung thủy của Kim – Kiều.

+ Chiếc vành còn gọi là xuyến bằng vàng, đồ trang sức
của phụ nữ. Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin.
Đó là những kỉ vật.

Một tiếng “giữ” không có nghĩa là “trao” hẳn mà chỉ để cho
em giữ. Nhưng tiếng “chung” mới thật xót xa. Bởi đáng lẽ
kỉ vật này là của riêng nàng mới đùng sao lại là của
chung. Không đành được, Kiều phải trao lại cho em. Thế
mới biết tình yêu Kim – Kiều nồng nàn tới mức độ nào.
Kiều vẫn trao duyên cho em chứng tỏ trong tình yêu và vì
tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên
hết.

- Có người cho rằng khi trao kỉ vật, tâm trạng Thúy Kiều
chứa đầy mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa hòan cảnh bắt
buộc và nội tâm của Kiều. Nàng đã vượt qua mâu thuẫn
ấy để nhận nỗi đau về mình.

- Nàng coi như mình đã chết. Đó là cái chết của tâm hồn.

Vì nàng ý thức hạnh phúc của mình là hết rồi, đã chấm
dứt. Từ đây ngôn ngữ trong lời thoại của Kiều gợi ra cuộc
sống ở cõi âm, đầy ma mị.

Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió là hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan

Những từ ngữ và hình ảnh: cách mặt khuất lời, dạ đài,
người thác oan, hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió là hay
chị về, …

Nàng đã ý thức được thân phận của mình. Lời của Kiều là
lời của một oan hồn. Tâm trạng của nàng đau đớn đến tột
cùng. Nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho
thân phận.

- Nàng quên hẳn người ngồi trước mặt mình là Thúy Vân,
Kiều tâm sự với chàng Kim:

“Bây giờ trâm gãy binh tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa vôi lỡ làng
Oái! Kim lang hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Từ đau khổ, lời thơ chuyển thành tiếng khóc. Nỗi đau cứ
tăng lên mãi, đau cho “tơ duyên ngắn ngủi”, đau cho
“phận bạc”, đau cho một đời “hoa trôi lỡ làng” và cuối
cùng tiếng khóc ấy nức nở tự cho mình là người phụ bạc
với người yêu.

Trao duyên là âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh,
đau đớn của Thúy Kiều.

- Đọan trích bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều
trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ, nàng đã làm tất cả những
gì cho hạnh phúc của người mình yêu.
- Đọan trích cũng thể hiện nỗi đau đớn cực độ khi phải tự
nguyện lìa bỏ mối tình đầu của mình.

- Nghệ thuật của đọan trích thể hiện Nguyễn Du rất thấu
hiểu về con người qua lời thoại thể hiện tâm trạng của
Kiều.

* Bi kịch của tình yêu trong đọan trích thể hiện:

Khát vọng lớn lao của Kiều là xây dựng tình yêu và hạnh
phúc vơiù Kim Trọng. Song thực tế xã hội phong kiến đã
không để nàng thực hiện khát vọng ấy. Nó như một trở
lực, một thế lực đè nặng lên khát vọng của nàng mà kéo
xuống thành bi kịch, buộc nàng phải từ bỏ mối tình đầu.

Vì thế cơ sở của bi kịch tình yêu ấy là sự hi sinh. Trong

tác phẩm, Kiều đã hai lần hi sinh tình yêu của mình. Lần
thứ nhất nàng chọn chữ “hiếu” “làm con quyết phải đền ơn
sinh thành”. Lần thứ hai nàng cũng tự hi sinh để mang lại
hạnh phúc cho người yêu. Sự hi sinh ấy làm cho nhân
phẩm của Thúy Kiều càng thêm cao thượng. Mặt khác, ta
nhận ra sự đau đớn xót xa của sự hi sinh. Nỗi mất mát
nào chẳng mang đến sự thức tỉnh về hạnh phúc, quyền
sống cá nhân con người. Từ đây, đọan trích “Trao Duyên”
thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Đại thi hào
Nguyễn Du.



×