Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Chủ nghĩa anh hùng qua "Rừng xà nu" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.27 KB, 22 trang )

Chủ nghĩa anh hùng qua "Rừng xà
nu" và "Những đứa con trong gia
đình"

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đạt nhiều
thành tựu to lớn, đặc biệt là những mảng tác phẩm thẻ
hiện phẩm chất anh hừng của con người Việt Nam trong
hai cuọc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm
lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai tác phẩm “rừng
xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “ những đứa con
trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành
công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu
biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho
lòng yêu nước và cam thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến
đấu của dân tộc Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm.

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong là sự thể hiện của
lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần
chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ
tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách
mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt,
qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có
tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều
gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn
chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang
hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình
tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế
chiến đấu. Nguyễn Trung Thành sinh 1932, khi mới 18
tuổi, năm 1950, ông đã vào bộ đội, sau đó làm phóng viên


báo quân đội nhân dân Liên khu V, những năm tháng lăn
lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V đã
giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên, để sau khi tập
kết ra Bắc có thể viết những cuốn tiểu thuyết cho sự
nghiẹp văn chương của mình thấm đẫm tinh thần cách
mạng dân tộc. Còn Nguyễn Thi sinh năm 1928, khi mới 17
tuổi, năm 1945, ông đã tham gia cách mạng rồi gia nhập
lực lượng vũ trang. Ông trở thành một trong những cây
bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam
thời ì kháng chiến chống Mỹ. Chính từ những năm tháng
tham gia chiến đấu đó, Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (
1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời
trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước
ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để
bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh
lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Những nhân vật chính trong hai câu chuyện đều là là
những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất
của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Làng Xô Man-
quê hương Tnú ở trong tầm đại bác của giặc, nơi mà từng
người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “
Đảng còn thì núi nước này còn”. Còn Chiến và Việt sinh ra
trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc:
Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ
kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của
cha mẹ.
Những con người đó đã chịu nhiều đau thương, mất mát
do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của

cả dân tộc. Tnú có một mối tình với Mai đẹp tựa như trong
truyện truyền kì, cuộc đời còn hứa hẹn biết bao hạnh phúc
ở trước mắt nhưng chính Tnú lại có một số phận đầy bi
kịch. Kẻ thù đã bắt vợ con anh và tra tấn họ đến chết. Tnú
tận mắt chứng kiến tất cả và lòng căm thù, long yeu
thương đã khiến đôi mắt anh hiện lên như hai hòn lửa lớn.
Anh lao thẳng vào lũ giặc nhưng vẫn không thể cứu được
vợ con, vì anh chỉ có hai bàn tay trắng, không vũ khí. Bản
thân anh cũng bị địch bắt, và thật là đau xót, anh bị chúng
đốt cả mười đầu ngón tay bằng chính thứ nhựa xà nu
vàng óng, thơm mát của quê hương mình. Đó là một bi
kịch vô lí và đớn đau.
Còn Chiến và Việt, những đứa trẻ còn thơ, mới lớn đã
phải chứng kiến cái chết đầy thương tâm của ông nội và
bố, mẹ vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với
những đe doạ, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng
chết vì đạn bom.
Và những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu,
lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến
đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu
hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường
đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và
Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù
nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm
thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì:
chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được
những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống.
Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con
đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong
hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế

đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải
khắc sâu vào lòng người.
Chịu bao thương đau, mất mát nhưng họ đều mang phẩm
chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam
kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của
con người Tây Nguyên: gan góc, dũng cảm, mạnh mẽ và
rất giàu lòng yêu thương. Trước hết, Tnú rất gắn bó với
cách mạng. được cụ Mết chỉ bảo nên ngay từ lúc nhỏ,
Tnú đã tham gia việc nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất
sắc công việc giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong
rừng vì sợ lỡ giặc lùng ai dắt cán bộ chạy. Tnú luôn nghe
lời chỉ huy của cán bộ. Được anh Quyết dạy chữ, Tnú
khắc phục khó khăn, cố gắng học tập. Không có bảng,
không có phấn, Tnú lấu nứa làm bảng và để ba ngày
đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lết đầy đá trắng
làm phấn. Khi Tnú tỏ ra chán nản vì mình tối dạ, học
không nhớ được thì một lời động viên của anh Quyết đã
truyền thêm sức mạnh tinh thần giúp Tnú cố gắng hơn.
Tnú vô cùng gan dạ, dũng cảm. Ngay từ ngày làm giao
liên, Tnú không bao giờ chịu đi đừng mòn, cứ xé rừng mà
đi, lọt tất cả vào các vòng vây. Qua sông, Tnú không thích
lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang. Khi
bị giặc bắt, Tnú can đảm chịu những đòn tra tấn, để sau
khi vượt ngục vẫn tiếp tục cùng cụ Mết lãnh đạo dân lang
Xô Man mài giáo, mài rựa chống lại kẻ thù. Khi bản làng bị
càn quét, vợ con Tnú bị giặc hành hạ, giết chết một cách
giã man, nhất là khi anh bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu để
đốt mười ngón tay thành mười ngọn đuốc. Tnú càng thấm
thía nỗi đau thương và căm thù giặc, dần dần nhận thức

sâu sắc về kẻ thù và quyết tâm hành động. Anh ra đi “ lực
lượng” quyết tiêu diệt cho hết kẻ thù tàn ác, bởi lẽ “ chúng
nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Ngoài ra Tnú là một
con người giàu tình cảm yêu thương. Anh yêu thiết tha
bản làng. Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên
hùng vĩ, giữa hững con người mộc mạc, thuần hậu, Tnú
thấy gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương
mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô
cùng xú động. Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, nơi
mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm yêu mến ngay khi
anh mới ở tù về. Anh cũng bồi hồi khi ghe tiếng chày dã
gạo của người dân làng, tiếng chày chuyên cần, rộn rã
của những người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh
ngày xưa mà suốt cuộc đời anh vẫn nhớ. Anh yêu thương
vợ con tha thiết. Chính vì yeu thươg rất nhièu nên anh
căm tù sâu sắc bọn giặc đã dùng cây sắt đánh chết vợ
con anh. Anh cũng yêu thương mọi người. Làng Xô Man
đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân
thiết. Những cặp mắt tròn xoe rồi những tiéng ré lênvà
những tiếng reo vui của mọi người đã thể hiện niềm vui
mừng khi đón Tnú về làng. Vô cùng dũng cảm khi đối diện
với kẻ thù, tha thiết yêu thương bản làng, quê hương, ấp
ôm một kỉ niệm đớn đau về cái chết của vơ con, luôn luôn
gắn bó với cách mạng, ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người
anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ.
Còn với những đứa con trong gia đình, Trước hết là nhân
vật Chiến , người con gái mang vẻ đẹp kiểu Út Tịch, một
vẻ đẹp rất riêng của người phục nữ Nam bộ mà Nguyễn
Thi vẫn hằng ưa thích: hồn nhiên, chất phác, tảo tần, biết

lo toan việc nước, việc nhà trọn vẹn mọi bề trước sau,
đánh giặc thì xông xáo, gan góc, dũng cảm mà trở về với
cuộc sống thường nhật lại rất giàu tình cảm và long yêu
thương. Trong kí ức của Việt, chị Chiến như là sự hiện
thân, sự kế thừa của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng
của mẹ mình” hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy
nắng thân người to và chắc nịch”. Đặc biệt nhất là cai
đêm hai chị em sắp xa nhà đi bộ đội. Phải tự mình đứng
ra lo liệu việc nhà, thu xếp để cùng Việt lê đường, Chiến
mới bộc lộ hết tính cách người lớn, đảm đang, tháo vát,
biết thay mẹ quán xuyến, cắt đặt mọi việc trong nhà đâu
ra đấy, từ việc em út, nhà cửa, ruộng vườn, cho đến cả
cái giường, ván và nơi gửi bàn thờ má. Chưa bao giờ Việt
lại thấy chị Chiến liệu việc nhà giống má đến như vậy :”
Chà, chị Chiến bữa nay nói in hệt má vậy. Cũng ở trong
giường mà nói với ra, cũng nằm với thằng út em, ở trên
cái giường đó”. Chính Chiến đêm ấy cũg thấy mình như
đang hoà vào mẹ. Cho nên không phải ngẫu nhiên đén
sáng hôm sau. khi nghe Chiến trình bày láịư sắp đặt của
mình, chú Năm đã phải khen “ Khôn, việc nhà nó thu
được gọn thì việc nước nó mới mở được rộng, gọn bề gia
thws đàng bề nước non ” Hai chị em đều là những chiến
sĩ dũng cảm tuy tuỏi đều còn nhỏ, nhưng so với Việt,
Chiến chỉ hơn Việt một tuổi mà đã người lớn hơn hẳn
Việt. Chiến cũng gắn bó với lớp người đi trước nhiều hơn.
Vhị có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của
gia đình. không chỉ giống má, Chiến còn học được cả
cách nói “ trọng trọng” của chú Năm. Ví truyền thống cách
mạng của cả gia đình là một dòng sông và mỗi người là
một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp người đi

trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông bao giờ
cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chõ
để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất
chồn đã không có dịp nào được cầm súng, còn Chiến đã
được đi bộ đội để đánh giặc trả thù nhà với quyết tâm :
Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì
tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. và
Chiến đã lập được nhiều chiến công lớn, bắn chìm tàu
chiến của địch trên sông Dịch Thuỷ, trở thành một tiểu đội
trưởng của bộ đội nữ địa phương quân tỉnh Bến Tre
Việt là hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả và
cũng chịu đựng nhiều nét tâm lí, tính cách khá độc đáo.
người đọc thích nhân vật này trước hết ở cái vẻ ngoài lộc
ngộc, vô lo vô nghic của cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn.
nhưng sự trẻ con vô tư vẫn khong ngă cản Việt trở thành
một dũng sĩ giệt Mỹ. Ngựoc lại chính nó càng làm cho
phẩm chất anh hùng của Việt ngày thêm độc đáo. Đọc
truyện ta chưa thấy lúc nào Việt hết ngây thơ, nhưng ta
vẫn chưa thấy lúc nào Việ phải chịu khuất phục trước sự
tàn bạo của quân giặc. Ngay từ lúc còn bé tí, Việt đã dám
xông vào đá cái thằng giặc đã giét cha mình. Đến lúc bị
thương nặng, nằm lại một mình giữu chiến trương mênh
mông bóng tối, đôi mắt không còn nhìn thấy gì và hai bàn
tay còn tê nhức đến dại đi, vậy mà lúc tỉnh lại, nghe tiếng
trực thăng trên đầu và tiếng pháo cày trước mặt vẫn ăn
thua sống mái vói quân thù: “ trên trời có mày, dưới đất có
mày, khu rừng này còn có mình tao. Màyc ó bắn tao thì
tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, Việt coi việc đi đánh
giặc nó cũng tự nhiên như chuyện đi bắt ếch hay đi bắn
ná thun thôi, đánh giặc kì cho đến lúc đền được nợ nước,

trả xong thù nhà thì cũng là chuyện tự nhiên thường tình,
chứ có gì đâu mà phải bắn hay nghỉ ngơi. Việt chính là
hiện thân của khí thế tiến công của thời ậi và cùng với chị
Chiến “ những người con trong gia đình” đã thật sự cứng
cáp, trưởng thành, chững chạc trong tư thế người anh
hùng.
Và chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở
từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh
hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất
của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà
nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia
đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất
nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân
yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm
bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn
lao khiến kẻ thù phải run sợ. Như vậy, các nhân vật của
hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá
nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương
của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những
năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả
cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả
dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa
anhhùng cách mạng.

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống
bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác
liệt: Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong
rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”,
nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho
làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên.

Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu
non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha
anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây
Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân
thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. còn trong
những đư con trong gia đình, Ông nội bị giặc giết, cha của
Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại
dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi
má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con
đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và
trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc
sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp
nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống
bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây
ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
Nghệ thuật sử thi với những vấn đề cơ bản nhất, có ý
nghĩa sống còn của đất nước đã góp phần phản ánh sâu
sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng yêu nước. Đó là
những lời ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách
mạng, ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt
Nam trong kháng chiến chống Mỹ, những con người tiêu
biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh
cộng đồng mà chiến đấu, hi sinh.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống
Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông
thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng
bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời
lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”.
Hai tác phẩm với Cuộc đời và sự hi sinh của những con

người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca
tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.

×