Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

GIÁO TRÌNH CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG part 8 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.6 KB, 19 trang )


134
- Thu gom thứ cấp: rác thải được thu gom từ các bãi chứa chung, các điểm hẹn chuyển
đến bãi xử lý. Quá trình này phụ thuộc vào các loại xe thu gom và quãng đường vận
chuyển, và ít ảnh hưởng đến người dân.
VI.3.1.1. Hiệu quả của việc thu gom được đặc trưng bởi các tiêu chí sau:
- Số tấn chất thải được thu gom trong một giờ.
- Tổng số hộ được phục vụ trong một giờ làm vi
ệc của một kíp.
- Chi phí của một ngày thu gom.
- Chi phí cho mỗi lần dừng để thu gom.
- Số lượng người được phục vụ bởi một xe trong một tuần.
VI.3.1.2. Các hình thức thu gom khác
- Thu gom theo khối: trong hình thức thu gom này các xe thu gom này xe thu gom sẽ
chạy theo một quy trình đều đặn theo tần suất đã được quy định trước đó (từ 2-
3lần/tuần hoặc theo ngày, ). Những xe này sẽ dừng tại các ngã ba, tư
hay điểm hẹn
nhất định nào đó và rung chuông. Theo tín hiệu này những người dân xung quanh đó
mang sọt rác của mình đến để đổ vào các xe. Có nhiều dạng khác nhau của hình thức
thu gom này nhưng điểm chung là mọi gia đình đều được yêu cầu phải có thùng rác
của riêng mình ở trong nhà và mang đến cho công nhân thu gom rác đúng giờ theo tín
hiệu đã quy đinh.
- Thu gom lề đường: đây là một hình thức thu gom đòi hỏi có một dịch vụ
đều đặn và
một thời gian biểu tương đối chính xác. Các hộ dân cần phải đặt lại thùng rác sau khi
rác đã được đổ ra khỏi thùng. Điểm quan trọng là những thùng này đòi hỏi phải dạng
chuẩn, nếu không lượng rác bỏ vào thùng sẽ dư ra ngoài hoặc chỉ chiếm một phần
nhỏ thể tích của thùng. Trong những điều kiện này, rác có thể bị gió thổi bay hay súc
vật hoặc người b
ới rác làm vung vãi ra đường làm cho quá trình thu gom kém hiệu
quả hoặc gây lãng phí.



VI.3.2 Vận chuyển và trung chuyển
Trong hệ thống xử lý rác, vận chuyển và trung chuyển là một khâu khá quan trọng, bao gồm
cả các phương tiện, các trang thiết bị các vật dụng có liên quan. Hoạt động trung chuyển và
vận chuyển bao gồm luôn cả việc chuyển các phế liệu từ nơi phân loại tới các cơ sở tái chế
hay chuyển sản phẩm cuối cùng c
ủa quá trình xử lý đến bãi chốn lấp.
Theo Trần Hiếu Nhuệ & CTV, (2001) thì hoạt động trung chuyển và vận chuyển có thể được
mô tả bằng sơ đồ sau:


135



Hình 6.10 Sơ đồ hoạt động thu gom, trung chuyển và vận chuyển rác (Bùi Thị Nga & ctv, 2008)

Sự vận hành hệ thống trung chuyển sẽ hổ trợ đắc lực cho hoạt động thu gom rác một cách có
hiệu quả và ngày càng trở nên cần thiết bởi các nguyên nhân sau:
- Khoảng cách quá xa từ nơi thu gom tới nơi xử lý, nếu không sử dụng trạm trung
chuyển sẽ dẫn đến việc thu gom không đạt hiệu quả kinh tế.
- Sự hiện diện của các khu vực dân cư thưa th
ớt.
- Việc sử dụng các container có kích thước trung bình để chứa rác ở những nơi sản sinh
ra rác quá lớn.
Trong đó kiểu vận hành chuyên chở được chia thành:
- Hệ thống thùng xe di động: là hệ thống thu gom trong đó các thùng chứa đầy rác
được luân phiên chuyên chở đến bãi thải và đưa thùng không vào vị trí cũ để thay thế.
Hệ thống này phù hợp để vận chuyển rác từ các nguồn tạo ra khối lượng rác lớn.
- Hệ thống dùng xe cố định: là hệ thống thu gom trong đó các thùng chứa đầy rác vẫn

cố định, người công nhân chỉ nhấc lên đổ vào xe lớn và sau đó đặt lại vị trí cũ.
Tuy nhiên, dù sử dụng phương tiện vận chuyển nào, chúng ta cũng phải thỏa các điều kiện sau:
- Vận chuyển rác với giá rẻ nhất.
- Rác phải được đậy kỹ trong quá trình chuyên chở.
-
Các loại xe này phải được thiết kế phù hợp với hệ thống giao thông hiện hành.
- Tải trọng xe không vượt tải trọng cho phép của hệ thống đường xá hiện hành.
- Phương pháp để tháo dỡ rác trong xe phải đơn giản và thuận tiện,

136
-





























Hình 6.11 Sơ đồ mạng lưới thu gom chất thải rắn tư nhân
(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ & CSV, 2001)

Nguồn phế thải
phế liệu
Nhóm thu gom
phế liệu
Nhóm thu mua
phế liệu
Nhóm buôn bán và
sử dụng lại phế
Bãi chân lấp
Đội quân bới rác
tại bãi rác
Thu mua rác tại
bãi đổ
Bãi tập kết tạm
thời trạm trung
chuyển
Xe rác đẩy tay
Đường phố

Thùng rác, bể
chứa rác
Các hộ gia đình
Khách sạn
Cơ quan trường
học
Các cơ sở sản
xuất ngành công
nghiệp
Đội quân nhặt rác
lưu động
Thu mua đồng nát
tại kho chứa
Đại lý và những
người buôn bán
Xuất
khẩu
Những người mua đồng
nát lưu động
Hoạt động thu mua
dọc đường phố
Nhà hàng ăn
uống, nhà trọ

137
VI.3.3 Thu hồi và tái chế
Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế biến
thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất. Đây là công
việc ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực quản lý và xử lý rác nhằm thỏa mãn hai mục tiêu: bảo
vệ tài nguyên thiên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hoạt động tái chế c

ũng cần chi phí để
thu gom, vận chuyển, chế biến và ngăn chặn các tác động tiêu cực đến môi trường do quá
trình tái chế gây ra. Do đó, nếu như chi phí tái chế cao hơn lợi ích tái chế thì lúc đó hoạt
động tái chế không được coi là hoạt động có ích. Sơ đồ hệ thống thu hồi các chất và dòng
lưu chuyển các nguồn vật liệu được thể hiện hình sau.























Hình 6.12 Dòng lưu chuyển các vật liệu
(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ & CSV, 2001)

Môi trường toàn cầu
(Hệ sinh thái)
Tác động môi
trường
Tiêu hủy cuối cùng
(chôn lấp)
Sản xuất

Phân phối

Tiêu dùng
Chất thải
Tái chế
Xử lý trung gian
“Xử lý tốt hơn”
(Tái chế)
Tài nguyên
thiên nhiên
Tài nguyên
kinh tế
Các nguồn tài
nguyên tái chế
Tài nguyên có
thể tái chế
Hoạt động kinh tế
“kinh tế thị trường”
Tái sản xuất
Các tác động môi trường

138

VI.4 CÔNG CỤ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH TRONG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
VI.4.1 Các công cụ pháp lý trong công tác quản lý chất thải rắn
Ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường lao động là một trong những nguyên nhân cơ bản
làm ảnh hưởng tới sức khỏe, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động, rộng
hơn là ảnh hưởng tới sức khỏe của cả cộng đồng và môi trường. Việc tìm kiếm các giải pháp
để giảm thi
ểu ô nhiễm vì thế luôn là mối quan tâm của tất cả mọi người mà trước hết là của
các cơ quan xã hội. Xử lý ô nhiễm môi trường gây ra bởi chất thải không thể chỉ trông chờ
vào một vài biện pháp cụ thể nào đó mà cần phải thực hiện đồng bộ: từ các giải pháp quản lý
vĩ mô như hoạch định chính sách, luật pháp, các quy chế, quy định , các giải pháp quy
hoạch tổng thể cho cả
khu công nghiệp cho đến các giải pháp cụ thể về công nghệ và xử lý
“cuối đường ống”.
Trên thế giới người ta thường sử dụng 2 công cụ quản lý môi trường: công cụ pháp lý và
công cụ kinh tế. Công cụ pháp lý là chính phủ đặc ra các tiêu chuẩn, các quy định, chính
sách để các cơ quan quản lý về môi trường dựa theo đó làm cơ sở để kiểm tra, thẩm định,
đánh giá và xử phạt. Công cụ kinh tế là dùng các chính sách về lệ
phí, thuế, vốn nhằm kích
thích hoặc cưỡng bức doanh nghiệp thực hiện Luật BVMT.
VI.4.1.1 Các quy định và tiêu chuẩn môi trường
Tiêu chuẩn môi trường là công cụ chính sách để điều chỉnh chất lượng môi trường. Trong
tiêu chuẩn môi trường có các loại tiêu chuẩn như: Tiêu chuẩn quy định về các giá trị về nồng
độ hoặc số lượng của các chất thải lỏng, rắn hoặc khí trước khi thải vào môi trường; tiêu
chuẩ
n lấy mẫu và phân tích; tiêu chuẩn thiết kế các thiết bị xử lý có tiêu chuẩn quốc gia
(TCVN) và tiêu chuẩn bộ hoặc ngành. Thường thì tiêu chuẩn gắn với các quy định về hình
phạt (phạt tiền, đóng cửa cơ sở sản xuất thậm chí truy tố trước pháp luật).
VI.4.1.2 Các loại giấy phép môi trường
Các loại giấy phép này do các cơ quan quản lý Nhà nước cấp cho các cơ sở sản xuất, cho
phép các cơ sở này

được hành nghề mà không gây nguy hại đến môi trường, ví dụ: giấy
thẩm định môi trường, giấy thỏa thuận môi trường, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường tùy theo loại hình và quy mô sản xuất mà các cơ quan quản lý có các yêu cầu khác
nhau. Theo Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT về hướng dẫn và thẩm định báo cáo đánh
giá tác động môi trường có quy định:
- Các dự án đầu tư có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng, dễ gây ra sự
cố môi trường, khó khống chế và khó xác định tiêu chuẩn môi trường thì phải lập và
trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Các dự án còn lại sẽ đăng ký
đạt tiêu chuẩn môi trường trên cơ sở tự xác lập và phân tích báo cáo đánh giá tác
động môi trường của mình.
- Phiếu xác nhận bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường là căn cứ pháp lý về mặt môi
trường để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét và cho phép dự
án thực
hiện các bước tiếp theo.

139
VI.4.1.3 Kiểm soát môi trường
Kiểm soát môi trường chính là khống chế ô nhiễm, ngăn ngừa hoặc loại bỏ chất thải nguy hại
ngay tại nguồn phát sinh, làm sạch ô nhiễm, thu gom, tái sử dụng và xử lý chất thải. Kiểm soát
môi trường là kiểm soát nguồn thải vào môi trường: các ống khói, các cống xả nước thải, các
nguồn rác thải. Muốn quản lý được các nguồn này, buộc các cơ quan quản lý về môi trường
tiến hành thố
ng kê được các cơ sở sản xuất và các dòng chất thải đổ ra. Căn cứ thống kê là các
báo cáo đánh giá chất lượng môi trường. Trên cơ sở hồ sơ kiểm kê nguồn thải có thể xác định
được các khu vực cơ nguy cơ cao về ô nhiễm hoặc sự cố môi trường để từ đó có sự chú ý hoặc
đầu tư nhất định trong việc phòng ngừa ô nhiễm hoặc kiểm soát nguồn thả
i.
VI.4.1.4 Thanh tra môi trường
Thanh tra môi trường là biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi
phạm về BVMT, góp phần quan trọng đảm bảo cho hiệu lực Luật BVMT được thực hiện

một cách nghiêm chỉnh. Các cơ sở pháp lý cho việc hình thành các tổ chức thanh tra về
BVMT gồm: Pháp lệnh thanh tra, Luật BVMT, ngoài ra còn các văn bản và quy định khác
như: tiêu chuẩn môi trường, cam kết BVMT đó là những công cụ để tổ chức thanh tra đánh
giá mức độ
thực hiện Luật BVMT.
VI.4.1.5 Đánh giá tác động môi trường
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là một quá trình xác định, miêu tả và đánh giá ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp của một dự án đến sức khỏe con người, đến động vật và thực
vật, đến môi trường đất, nước, không khí, đến cảnh quan, đến kinh tế - xã hội của khu vực có
dự án, và những biện pháp áp dụng để ngăn ng
ừa hoặc khống chế các ảnh hưởng có hại tới
các yếu tố đó.
VI.4.1.6 Luật bảo vệ môi trường
Luật bảo vệ môi trường có đề cập một số qui định cụ thể về quản lý chất thải:
- Việc đặt các điểm tập trung, bãi chứa, nơi xử lý, vận chuyển rác và chất gây ô nhiễm
môi trường phải tuân theo quy định của cơ quan qu
ản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường (BVMT) và chính quyền địa phương.
- Đối với nước thải, rác thải có chứa chất độc hại, nguồn gây dịch bệnh, chất dễ cháy,
dễ nổ, các chất thải không phân hủy được phải có biện pháp xử lý trước khi thải. cơ
quan quản lý Nhà nước về BVMT quy định danh mục các loại nước thải, rác thải nói
ở khoản này và giám sát quá trình xử lý trước khi th
ải.
Các văn bản dưới luật:
Nghị định số 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT:
- Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, bệnh viện, khách sạn, nhà hàng có các chất thải ở
dạng rắn, lỏng, khi cần phải tổ chức thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường trước
khi thải ra ngoài phạm vi quản lý của cơ sở mình. Công nghệ xử lý các loại chấ
t thải
rắn trên phải được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.

- Nghiêm cấm việc xuất, nhập khẩu chất thải có chứa độc tố hay các vi trùng gây bệnh
có thể gây ô nhiễm môi trường.

140
- Bộ KHCN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ tổ chức và chỉ đạo thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, quyền hạn, phạm vi hoạt động của thanh tra chuyên ngành về BVMT do Bộ
trưởng Bộ KHCN&MT và Tổng thanh tra Nhà nước thống nhất quy định, phù hợp
với các quy định của Luật BVMT và Pháp lệnh thanh tra (Điều 38).
Các tiêu chuẩn chất thải rắ
n trong quá trình sản xuất
- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6696:2000. Chất thải rắn-Bãi chôn lấp hợp vệ sinh –
Yêu cầu chung về BVMT
- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6705:2000. Chất thải rắn không nguy hại-Phân loại
- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6706:2000. Chất thải nguy hại – Phân loại
- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6707:2000. Chất thải nguy hại – Dấu hiệu cảnh báo,
phòng ngừa.
- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN ISO 14001:1998. Hệ thống quản lý môi trường-Quy
định và hướ
ng dẫn sử dụng.

VI.4.2 Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam
VI.4.2.1 Xây dựng chiến lược quản lý CTR
- Dự báo lượng thải căn cứ vào sự phát triển của sản xuất
- Quy hoạch các khu công nghiệp, dự kiến cho việc thu gom, vận chuyển, chôn lấp
- Đầu tư trang thiết bị cho việc thu gom và vận chuyển CTR
- Lựa chọn công nghệ xử lý hợ
p lý
- Lập kế hoạch tài chính cho việc xử lý, tái sử dụng
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, đặc biệt là áp dụng chiến lược sản xuất sạch.

VI.4.2.2 Tổ chức thu gom và phân loại tại nguồn
Đây là khâu hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý CTR. Thu gom tốt sẽ đảm bảo môi
trường trong sạch, làm sạch cảnh quan. Đồng thời với thu gom là phân loại tại nguồn, tách
rác thả
i nguy hại ra khỏi rác thải không nguy hại để dễ xử lý: Rác thải không nguy hại có thể
đem chôn lấp trong khi đó rác thải nguy hại phải có biện pháp xử lý riêng, tùy thuộc tính
chất của chất thải (Bộ Tài Nguyên & MT, 2002).
VI.4.2.3 Lựa chọn công nghệ xử lý
- Chôn lấp: là hình thức xử lý CTR phổ biến nhất, rẻ tiền nhất nhưng cũng tốn diện tích
đất nhất. điều quan trọng là phải lự
a chọn địa điểm chôn lấp phù hợp: Cách xa khu
dân cư, khu vui chơi giải trí, du lịch, cách xa nguồn nước nhưng phải thuận lợi cho sự
vận chuyển. Ngày nay, những bãi chôn lấp hợp vệ sinh là phải bao gồm các lớp lót
đáy chống thấm, hệ thống thu nước rác, hệ thống thu khí rác, hệ thống qaun trắc
thường xuyên để giám sát môi trường nước ngầm, không khí, đất.

141
- Chế biến CTR hữu cơ thành phân rác: trong thành phần của CTR thường chứa lượng
rác hữu cơ cao, dễ phân hủy vi sinh. Khi ủ các loại rác này với các chế độ thích hợp
sẽ chuyển hóa chúng thành phân rác, làm chất độn cho đất, giúp cho việc cải tạo đất
rất tốt. Phương thức này ở nước ta chưa phổ biến, mới có 2 thành phố là Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh xây dựng xí nghiệp loại này nhưng công suất xử lý nh
ỏ, chủ yếu là
rác sinh hoạt.
- Tái sử dụng và tái chế: CTR từ công nghiệp có thể rái sử dụng được rất nhiều, ví dụ
sắt thép vụn có thể nấu lại, vải vụn làm ruột chăn đệm, đồ nhựa tái sinh Phương
thức này là cách tốt nhất trong việc tiết kiệm nguyên liệu, đỡ diện tích chôn lấp hoặc
các hình thức xử lý khác. Rất cần khuyến khích phương thức này.
- Thiêu đốt: nhiều chất thải rắn nguy hại không thể chôn lấp mà phải dùng biện pháp
thiêu đốt. Ưu điểm của phương pháp này là xử lý một cách triệt để nguồn lây nhiễm

bệnh tật như HIV/ASDS, viêm gan, viêm não, lao, thương hàn, tả hoặc các hóa chất
độc hại mà nếu chôn lấp không tốt sẽ gây ô nhiễm nước ngầm; giảm từ 75% đến 95%
theo thể tích lượng rác chôn lấp. Như vậy có thể tiế
t kiệm được rất lớn diện tích đất
để làm bãi chôn lấp; có thể tái sử dụng nhiệt sinh ra do quá trình đốt để đun nước
nóng, hơi nước và chuyển hóa thành điện. Nhược điểm là vốn đầu tư ban đầu cao, giá
thành xử lý cũng cao, cao hơn chôn lấp từ vài lần đến hàng chục lần. Ngoài ra việc xử
lý khí thải cũng phải cẩn thận vì trong khí thải có chứa dioxin và furan, là những chất
có ti
ềm năng gây ưng thư cao.
-
VI.5 TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI
VI.5.1 Khái niệm về chất thải nguy hại
Chất thải độc hại là các chất thải có thể được sinh ra do các hoạt chất công nghiệp, thương
nghiệp và nông nghiệp. Các chất thải độc hại có thể là các chất rắn, chất lỏng, chất khí hoặc
chất sệt. Trong định nghĩa chất thải độc hạ
i không nói đến các chất thải rắn sinh hoạt, nhưng
thật ra rất khó phân biệt một cách toàn diện chất thải công nghiệp với chất thải sinh hoạt.
Chất thải độc hại không bao gồm chất thải phóng xạ vì loại chất thải này đã được hầu hết các
nước phân cách và tổ chức quản lý riêng. Độ độc hại của các chất thải độc hại rất khác nhau,
có chất gây nguy hiểm cho con ng
ười như các chất cháy có điểm cháy thấp, các chất diệt côn
trùng, các vật liệu clo hoá phân huỷ chậm, có chất gây tác động nhỏ hơn nhưng khối lượng
của nó lại là vấn đề lớn như các chất thải hầm mỏ, xỉ, thạch cao phốt phát cũ hoặc các sệt
hydroxyt khác. Những chất thải có chứa những hoá chất không tương hợp có thể gây nổ, bắt
cháy. Tiếp xúc với axít hoặ
c kiềm mạnh gây bỏng da. Da hấp thụ một số thuốc trừ sâu có thể
gây ngộ độc cấp tính. Những thùng, hòm chứa chất thải hoá chất nếu không được xử lý, để
bừa bãi vào nơi không được bảo vệ tốt có thể gây các tai nạn ngộ độc nghiêm trọng
(Hodgson, & Levis, 1987).

Thông thường đây chính là các chất có mang 1 trong các đặc tính sau:
- Dễ cháy
- Dễ nổ
- Làm ngộ độc

142
- Ăn mòn
- Dễ lây nhiễm
Một số chất nguy hại điển hình:
- Acid và kiềm
- Chất oxy hoá
- Kim loại nặng
- Dung môi
- Cặn dầu thải
- Amiăng
Nguồn phát sinh các chất này từ hộ gia đình, công nghiệp, thương nghiệp, bệnh viện và xí
nghiệp dược. Ngoài ra một số chất như một vài sản phẩm hoá học cự
c kỳ nguy hiểm như
áenic acid, cyanid, và nhiều loại thuốc trừ sâu, benzen, creosote, phenol, và toluen. Thực tế
các chất thải độc hại mới chỉ được quan tâm tới từ sau năm 1960 trở lại đây. Việc kiểm tra
chất thải độc hại cũng gây tốn kém, nhưng kinh nghiệm ở nhiều nước phát triển cho thấy
việc xử lý chất thải độc hại khi đã gây ô nhiễm còn tốn tiền của và th
ời gian hơn nhiều, có
khi gấp từ 10 đến100 lần. Do vậy, việc kiểm tra chất thải độc hại thường chỉ được quan tâm
sau khi xảy ra một thảm hoạ hoặc sau một đe doạ thảm hoạ môi trường. Sau sự kiện những
người dân chết do ăn phải cá bị nhiễm thuỷ ngân trong nước biển ở Minamata, Nhật là nước
đầu tiên đưa ra việc kiểm tra đầy đủ các ch
ất thải độc hại (1960). Nước Anh, sau sự bất bình
của công chúng khi phát hiện những thùng rỗng có chứa muối xyanua trên đất hoang mà trẻ
em đã chơi trên đó, Uỷ ban kiểm tra chất thải độc hại được thành lập và sau đó đã được

pháp luật thông qua. Nước Mỹ, năm 1976 hệ thống kiểm tra chất thải độc hại được thành lập
do sự phản đối của công chúng vì sự ô nhiễm gây nên bở
i các đống rác không được kiểm
soát (Lê Huy Bá, 2002).
VI.5.1.1 Phương thức gây ô nhiễm của chất thải độc hại
Các chất thải độc hại có thể gây ô nhiễm môi trường trực tiếp như bay hơi hoá chất trong khí
quyển hoặc có thể gây ô nhiễm gián tiếp qua vận chuyển của gió hoặc bề mặt nước. Vấn đề
quan trọng không phải chỉ phụ thuộc vào nơi đổ thải và tình trạng đất ở
bên dưới.
- Đất bị ô nhiễm:
Khi đất bị ô nhiễm chất thải nguy hại sẽ làm cho đất mất đi chức năng vốn có của đất, những
nơi đó hầu như không có thảm thực vật che phủ, đất bị biến đổi thành màu đen
các loài sinh vật đất hầu như biến mất (Hình 6.13)

143

Hình 6.13 Đất bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại (Lê Văn Khoa, 2005)
- Ô nhiễm nước bề mặt:
Bề mặt ngoài của nước ở gần chỗ chất thải có thể nhận những chất thải độc hại từ bề mặt
chảy. Hơn nữa, dòng chảy đất - nước của các hoá chất cũng đưa ô nhiễm vào mặt nước.
Trong điều kiện tiếp xúc không khí sẽ thúc đẩy quá trình phân huỷ hoá, hoá sinh các hợp
chất hữu cơ. Quá trình bay hơ
i ở mặt nước cũng dễ hơn ở đất.
- Các đường ô nhiễm khác:
Các hợp chất hữu cơ có thể bay hơi trong không khí, gió có thể đưa chất thải độc hại vào
môi trường, rau quả trồng gần nơi chất thải có thể hấp thụ những độc tố của chất thải.
VI.5.1.2 Phân loại chất thải độc hại
Chất gây cháy
- Là những chấ
t lỏng có chứa ít hơn 24% cồn và điểm bốc cháy dưới 60

o
C.
- Là những chất khí có thể cháy khi bị nén.
- Là chất oxy hoá
Chất ăn mòn
Một chất thải biểu hiện đặc tính ăn mòn nếu có một trong các đặc điểm sau:
- Là dung dịch lỏng có pH< 2 hoặc pH> 12.5
- Chất lỏng ăn mòn thép ở tỷ lệ > 6,35 mm/năm ở nhiệt độ thí ngiệm là 55
o
C.
Chất phản ứng
- Không bền và trải qua sự biến đổi mạnh mẽ không có sự nổ.
- Hình thành những hổn hợp nổ tiềm ẩn với nước
- Là chất thải mang gốc cyanid hoặc sulphide, khi ở pH2-12.5 có thể sinh ra khí, hơi,
khói ở một lượng đủ để gây nguy hiểm cho con người và MT
Chất gây nổ
- Có khả năng nổ hoặc phản ứng nổ
nếu bị tác động với nguồn khởi đầu hoặc bị nung
nóng trong điều kiện nén.

144
- Là chất nổ bị cấm đã được xác định trong quy tắc an toàn vận chuyển
- Có khả năng nổ hoặc phân huỹ nổ hoặc phản ứng nổ ở điều kiện nhiêt độ và áp suất
tiêu chuẩn
Chất gây độc
Tất cả các chất có khả năng gây ung thư

VI.5.2 Tác hại của chất thải nguy hại
Tác động đến MT thường liên quan đến việ
c chôn lấp các chất thải nguy hại không đúng qui

cách, có liên quan đến tác động tiềm tàng đối với nước mặt và nước ngầm. Ở Việt Nam
nguồn nước mặt và nước ngầm thường được sử dụng để làm nước uống sinh hoạt, nước
phục vụ cho SXNN. Bất cứ sự ô nhiễm nào các nguồn nước này đều gây ảnh hưởng tiềm
tàng đến sức khoẻ nhân dân địa phương. Mặt khác n
ước ta, việc phân lập và QLCTNH còn
nhiều bất cập. do vậy việc ảnh hưởng đến các nguồn nước và MT là rất lớn. Chôn lấp CTNH
liên quan đến vấn đề sau:
- Ô nhiễm nước ngầm là do việc lưu giũ lâu dài CTNH không được kiểm soát, chôn lấp
tại chỗ, chôn lấp tại nơi chôn rác, hoặc để lấp các vùng đất trũng.
- Bản chất ăn mòn tiềm tàng của các chất độc hại có th
ể phá huỷ hệ thống cống cũng
như ngộ độc cho MTST
- Ô nhiễm nước mặt và nước ngầm là do việc thải các chất độc hại không được xử lý
đầy đủ, hoăc do việc xử lý chất thải CN không đúng với khoa học
Ở Việt Nam hầu hết các chất thải nguy hại đều được gom chung với rác thải thông thường
và lại được tập trung ở bải rác. H
ầu hết các chất thải không được phân lập tại nguồn. Trông
trường hợp chất thải lưu giữ qua lâu sẽ gây nên sẽ tạo ra sự rò rĩ quá lớn và tạo ra rủi ro và
nguy hiểm đến sức khỏe cho khu vực chung quanh. Một số sơ đồ dưới đây thể hiện sự di
chuyển và biến đổi CTNH đối với MT

VI.5.3 Tác động chất thải nguy hại đối với sức kh
ỏe
VI.5.3.1 Chất thải công nghiệp
Ô nhiễm không khí do công nghiệp gây ra thiệt hại rất lớn về nền kinh tế, bệnh tật cho con
người và thảm thục vật, Ví dụ ở Châu Âu do ô nhiễm KK mà diện tích cây xanh bị thu hẹp
khoảng 40%. Ngoài ra các sự cố rò rỉ vủa các nhà máy sản xuất hoá chất hay điện hạt nhân
vẫn luôn là mối đe doạ và thảm hoạ của nhân loại

145


Bảng 6.1 Thông tin bệnh lý của một số chất khí độc hại đối với con người
Chất khí ô nhiễm Nguồn phát sinh Tác dụng bệnh lý đối với người
Amoniac (NH
3
)

Cacbon oxit (CO)


Clo

Hydro florua (HF)


Hydro sulfua (H
2
S)


Oxit nitơ (NO)

Tro, muội, khói


Sản xuất phân đạm, sơn, thuốc
nổ
Khí xã từ giao thông



Tẩy vải sợi

Luyên dầu khí, sản xuất phân
bón, sành sứ, thuỷ tinh
Công nghiệp hoá chất, tinh
luyện nhiên liệu, nhựa đường
Ống xả khói của ôtô, xe máy
Từ lò đốt của mọi ngành công
nghiệp

Giảm hồng cầu trong máu, bệnh
vàng da, hại thận
Giảm khả năng v
ận chuyển oxy
trong máu, bệnh tim mạch, nặng
gây tử vong
Nguy hại đối với đường hô hấp
và mắt
Gây mệt mỏi toàn thân, gây viêm
da, bệnh thận và xương

Gây nôn, kích thích mắt và họng

Gây bệnh phổi, và bộ phận hô
hấp
Gây đau mắt và có thể bị ung thư

Chất thải nguy hiểm từ sản xuất công nghiệp là thảm hoạ đối với cộng đồng. Thực tế đã có
nhiều hậu quả rất nghiêm trọng xảy ra rât nhiều quốc gia trên thế giới:
- Chứng bệnh Minamata ở Nhật Bản

- Các ca tử vong do amiăng
- Mây khí độc ở Bhopal (Ấn Độ)
- Vụ cháy ở Sandoz
- Ô nhiễm dioxin tại Seveso (Ý)
VI.5.3.2 Trong s
ản xuất nông nghiệp
Các chất hoá học này thường thấy trong MTĐ bao gồm các loại phân bón hoá học và

146
các chất diệt côn trùng, diệt cỏ chứa các sản phẩm của clo, các chất này tồn đọng rất lâu
trong MT. Các hoá chất trừ sâu diệt cỏ đều làm ô nhiễm hệ thống cây trồng, làm rễ cây cằn
cỗi trong đất không phát triển được. Thí dụ DDT khi vào cơ thể con người sẽ tích tụ thành
khối u ác tính, ở nồng độ 24 mg/L gây chết các loài chim và gây thay đổi sinh lý ở cá.
Các chất độc hại cao đôí với mt là As, Flo, và chì. Sau khi tồn tại trong đất các ch
ất này theo
chuỗi thức ăn sẽ vào cơ thể người. Hàm lượng chất này trong đất tại nhà máy thường cao
gấp 5-6 lần vùng đất xa cách 500m
a. Sự xân nhập thuốc BVTV trong môi trường đất
Thuốc bảo vệ thực vật là các loại hoá chất do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và cỏ dại
có hại cho cây trồng. Đây là nguồn gây ON chủ yếu trong SXNN. Thuốc bảo vệ thực vật
được phân thành hai lo
ại chính là thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Các loại thuốc này có ưu
điểm là diệt sâu bệnh, cỏ dại nhanh, sử dùng lại đơn giản, nên được nông dân ưa thích.
Nhưng phun thuốc bảo vệ thực vật dư thừa chúng cũng dễ dàng xâm nhập vào MT đất và
nước (Hình 6.14).






Hình 6.14 Sơ đồ di chuyển CTNH trong môi trường đất (Lê Văn Khoa, 2000)

Chất gây ON xâm nhập
vào đất
Dự báo tốc độ thẩm thấu
của hoá chất vào đất
Hoá chất có thể ảnh
hưởng đến nước mặt
Các loại vật nuôi có tiếp
xúc với đất không
Dự báo cho người tiếp
xúc trực tiếp với đất
Các chất ON dễ bay hơi
không có không có không có
Đánh giá khả năng xâm
nhiễm vào nước ngầm
Đánh giá lượng ON do vật
nuôi và hoa màu mà con
người tiêu thụ
Đánh giá sự dịch
chuyển của hoá chất
vào không khí

147
Các loại thuốc trừ sâu thường có tính năng rộng, nghĩa là có thể diệt được nhiều loại côn
trùng. Khi dùng thuốc diệt sâu hại một số côn trùng có ích cũng bị diệt luôn, đồng thời ảnh
hưởng tới các loại chim ăn sâu, vì chim ăn phải sâu đã trúng độc. Nói cách khác, sau khi
phun thuốc trừ sâu, số lượng thiên địch của nhiều loại sâu cũng giảm. Điều đó có lợi cho sự
phát triển của sâu h
ại.

b. Tác động của chất thải nguy hại đối với môi trường
Các loại thuốc trừ sâu đều có tính độc cao. Trong quá trình dùng thuốc, một lượng thuốc nào
đó có thể đi vào trong thân cây, quả, hoặc dính bám chặt trên lá, quả. Người và động vật ăn
phải các loại nông sản này có thể bị ngộ độc tức thời đến chết, hoặc nhiễm độc nhẹ, từ từ
gây ảnh hưởng nghiêm tr
ọng đến sức khoẻ. Do trình độ hạn chế, một số nông dân không
tuân thủ đầy đủ các quy định về sử dụng, bảo quản thuốc trừ sâu, có người cất thuốc vào
chạn, vào tủ quần áo, nên đã gây nên những trường hợp ngộ độc, thậm chí chết thảm thương
do ăn nhầm phải thuốc. Các chất thải độc hại có thể gây ô nhiễm môi trường trực tiếp nh
ư
bay hơi hoá chất trong khí quyển hoặc có thể gây ô nhiễm gián tiếp qua vận chuyển của gió
hoặc bề mặt nước. Vấn đề quan trọng không phải chỉ phụ thuộc vào nơi đổ thải và tình trạng
đất ở bên dưới (Hình 6.15).




Hình 6.15 Tác động của HCBVTV đến môi trường (Lê Huy Bá, 2002)


Hấp thụ bởi các
khoáng sét và chất
hữu cơ của đất
Thực vật
hấp thụ
Phân huỷ
quang hoá
Chyuển hoá
hoá học
Phân huỹ

sinh học
Rửa trôi bề
mặt và
xói mòn
Rửa trôi Rửa trôi
Bay hơi

148
- Đất và nước bị ô nhiễm:
Sự có mặt của vùng chưa bão hoà ở bên dưới mặt đất của nơi đổ thải rất quan trọng. Đó là
vùng cao hơn mặt nước, ở nơi này nước thấm xuống dưới đến khi gặp mặt nước chảy ngang.
Nếu bên dưới chỗ rác thải là vùng chưa bão hoà thì hoạt động đất nước như trên sẽ là một
quá trình lọc bởi các hoạt
động hoá và hoá sinh.
- Ô nhiễm nước bề mặt:
Bề mặt ngoài của nước ở gần chỗ chất thải có thể nhận những chất thải độc hại từ bề mặt
chảy. Hơn nữa, dòng chảy đất - nước của các hoá chất cũng đưa ô nhiễm vào mặt nước.
Trong điều kiện tiếp xúc không khí sẽ thúc đẩy quá trình phân huỷ hoá, hoá sinh các hợp
chất hữu cơ. Quá trình bay h
ơi ở mặt nước cũng dễ hơn ở đất.
- Các đường ô nhiễm khác:
Các hợp chất hữu cơ có thể bay hơi trong không khí, gió có thể đưa chất thải độc hại vào
môi trường, rau quả trồng gần nơi chất thải có thể hấp thụ những độc tố của chất thải.






Hình 6.16 Con đường di chuyển của hóa chất trong nông nghiệp (Lê Văn Khoa, 1995)


- Giới thiệu tóm tắt về DDT
DDT là loại thuốc trừ sâu đã được sử dụng trong nhiều năm qua. Công thức hoá học của loại
thuốc này là C
14
H
9
Cl
5’
tên khoa học là dichloro-diphenyl-trichloroethane và gọi tắt là DDT,
do nhà sinh hoá học Thuỵ sĩ, Paul Muller phát minh năm 1938. Thuốc DDT vừa ra đời đã tỏ
Người
Thực vật
Thực phẩm
Động vật
Không khí
Hoá chất
BVTV
Đất
Nước

149
rõ tác dụng tuyệt vời trong việc tiêu diệt các loại côn trùng có hại trong nông nghiệp. Hầu
như tất cả các loại sâu bọ có hại đều bị chết khi gặp phải DDT. Trong chiến tranh thế giới
lần thứ hai, người ra đã dùng DDT để tiêu diệt rất hiệu nghiệm loại bọ chét, giúp cho các
binh sĩ chiến đấu ở Bắc Phi thoái khỏi nạn dịch thương hàn do bọ chét lây truyền. Tiếp đó,
Tổ ch
ức Y tế thế giới đã dùng DDT để diệt muỗi và thu được thành công lớn trong việc ngăn
chặn bệnh sốt rét lây lan. Với những thành tích đó DDT đã trở thành vua của các loại thuốc
trừ sâu và năm 1948, ông Muller - người phát minh ra DDT đã vinh dự nhận giải thưởng

Nobel về hoá học.
Nhưng 30 năm sau, DDT bị tuyên án "tử hình" (bị cấm sản xuất và sử dụng). Khi DDT mới
ra đời, đúng là nó có sức mạnh vô
địch. Nhưng chỉ mười mấy năm sau đã có một số loại côn
trùng có hại không sợ DDT nữa. Chúng đã nhờn với DDT. Đến năm 1960 đã có 137 loại côn
trùng có hại nhờn thuốc DDT. Chưa hết, DDT đã kém hiệu quả trong việc tiêu diệt côn trùng
có hại, lại còn giết chết khá nhiều chim chuyên ăn côn trùng có hại. Do DDT có thành phần
tương đối ổn định nên khó bị phân giải trong môi trường tự nhiên và thâm nhập vào cơ thể

các loại chim theo hệ thống nước, thực vật phù du, động vật phù du, tôm cá nhỏ DDT khi
ở trong nước có nồng độ không đáng kể, nhưng khi xâm nhập vào cơ thể chim, nồng độ của
DDT sẽ tăng lên hàng triệu lần khiến chim nếu không bị chết cũng mất khả năng sinh sản.
Đây là điều mà con người không ngờ tới.
Cũng do được sử dụng khắp thế giới, DDT qua nướ
c và thực phẩm xâm nhập vào cơ thể con
người, phá hủy nội tiết tố giới tính của con người, gây ra các bệnh về thần kinh, ảnh hưởng
tới công năng của gan. Hậu quả này xảy ra cũng ngoài dự kiến của con người.
Thuốc trừ sâu DDT còn có đặc điểm ngoại lệ, đó là kể từ năm 1974 toàn thế giới hoàn toàn
ngừng sản xuất DDT, nhưng hậu quả c
ủa DDT trong môi trường còn lâu mới hết. Thuốc
DDT trong không khí phải sau 10 năm mới giảm nồng độ xuống tỉ lệ ban đầu là 1/10; DDT
tan trong biển còn phải mất thời gian lâu hơn nữa mới phân hủy hết. Theo dự đoán của các
nhà khoa học, phải đến sau năm 1993 DDT trong nước biển mới phân hủy về cơ bản.

VI.6 XỬ LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI (CTNH)
VI.6.1 Xử lý CTNH bằng phương pháp biến đổi vậ
t lý-hoá học
Phương pháp biến đổi vật lý - hoá học bao gồm:
- Ôxy hoá khử CTNH: là phương pháp cho thêm hóa chất vào CTNH để biến đổi CTNH
thành không nguy hại.

- Hiệu chỉnh độ pH hay còn gọi là trung hoà CTNH: Là phương pháp cho thêm hoá chất vào
CTNH để khử tính axit hay tính kiềm của chúng, biến đổi chúng thành không nguy hại.
+ Ổn định hoá học: Là phương pháp liên kết hoá học CTNH với chất trung gian có
tính trơ như xi măng, vôi… Trước hết CTNH được hoà trộn với nước thành bùn nhão
sau đó tr
ộn với xi măng. Có thể phải trộn thêm một ít phụ gia để làm mềm các thành
phần khó trộn trong nước trước khi tiến hành ổn định hoá học

150
+ Kết nang CTNH: Là phương pháp chứa đựng CTNH trong bao nang kín làm từ
nhựa polymer (hoặc nhựa polyester, polyvinyl chloride…) nhằm cách ly chúng với
môi trường xung quanh.
+ Thuỷ tinh hoá CTNH: Trộn CTNH với cát thạch anh, nung ở nhiệt độ cao, sau đó
để nguội tạo thành một chất rắn giống thuỷ tinh. Phương pháp này rất đắt tiền nên chỉ
áp dụng đối với các chất thải có tính phóng xạ cao hoặc các chất thải cực kỳ nguy
hiểm.
+ Thiêu đốt CTNH: Là phương pháp dùng nhiệt phân hu
ỷ CTNH thành các chất khí,
lỏng và rắn ít hoặc không nguy hại. Quá trình thiêu đốt có thể được thực hiện trong lò
xi măng hoặc lò đặc biệt.

VI.6.2 Xử lý CTNH bằng chôn lấp
CTNH có thể được xử lý bằng phương pháp chôn lấp ở:
+ Bãi chôn lấp hợp vệ sinh (áp dụng rất hạn chế và tiến tới cấm hoàn toàn)
+ Bãi chôn lấp đặc biệt (áp dụng phổ biến).

VI.6.3 Qui định của Nhà nước về xử lý CTNH
Hiện nay, trong hệ thống quản lý CTNH ở Việt Nam, tiêu chuẩn TCVN 6706:2000 quy định
rõ các phương pháp xử lý được áp dụng đối với CTNH (Bảng 6.2)
Bảng 6.2 Các phương pháp xử lý một số CTNH theo TCVN 6706:2000

TT Chất thải nguy hại Phương pháp xử lý
1 Thạch cao thải từ các quá trình công nghiệp hoá chất + Hiệu chỉnh độ pH
2 Chất thải amiăng (bụi và sợi) + Ổn định hoá học
+ Chôn lấp đặc biệt
3 Chất thải từ quá trình sản xuất hoặc chế biến than cốc,
nhựa đường từ dầu mỏ
+ Thiêu đốt trong lò xi măng
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
4 Các chất thải từ sản xuất, đóng gói và sử dụng nhựa,
mủ, chất hoá dẻo, keo và chất kết dính có tính nguy
hại
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
+ Chôn lấp đặc biệt
5 Phenol, hợp chất có phenol bao gồm chlorophenol + Thiêu đốt trong lò xi măng
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
6 Chất thải bụi đá, tro, bùn và bột chứa các hợp chất
crom 6 hoặc chất diệt sinh vật
+Ôxy hoá khử

151
7 Các chất halogen hữu cơ + Thiêu đốt trong lò xi măng
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
8 Các chất thải từ quá trình sản xuất hydro cacbon mạch
thẳng được halogen hoá
+ Thiêu đốt trong lò xi măng
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
9 Cặn nhựa thải (trừ bê tông nhựa) từ các quá trình tinh
chế, chưng cất và xử lý nhiệt phân váv vật liệu hữu cơ
+ Thiêu đốt trong lò đặc biệt
+ Chôn lấp đặc biệt


VI.7 TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
VI.7.1 Trên thế giới
Hội nghị về quản lý rác thải độc hại quốc tế do Liên Hợp quốc tổ chức tại Bali (Indonesia từ
23 đến 27-6-2008) đã kết thúc sau 5 ngày nhóm họp mà không phá vỡ được thế bế tắc về
tình trạng buôn bán rác thải độc hại qua biên giới. Các đại biểu nhất trí không cấm xuất khẩu
rác thải độc hại mà đề nghị chính ph
ủ các nước tự hành động. Vì hiện nay, nhiều nước đang
phát triển vẫn tiếp tục chấp nhận rác thải độc hại có xuất xứ từ các nước phát triển, như máy
vi tính cũ, tàu biển không sử dụng, với quan điểm thiển cận là để thoát nghèo, cho dù
chúng tác động xấu đến sức khỏe con người và môi trường, nhất là nguồn nước ngọt quý
hiếm. Theo kết quả nghiên cứu mỗ
i năm ở Mỹ có khoảng 20 triệu máy tính bị quẳng ra bãi
rác. Tại các nước EU, khối lượng rác điện tử dự kiến tăng 3-5% mỗi năm, ở các nước đang
phát triển, lượng rác điện tử sẽ tăng gấp 3 lần vào năm 2010. Ngoài máy tính, số lượng
ĐTDĐ bán ra cũng tăng với tốc độ chóng mặt. Hiện nay, Trung Quốc có tới 20 triệu chiếc
ĐTDĐ tr
ở thành rác thải mỗi năm. Còn ở Mexico tồn tại ít nhất 297 khu vực có đất đai bị ô
nhiễm bởi rác thải độc hại, trong đó nhiều nơi từng là cơ sở công nghiệp sản xuất các loại
hóa chất độc hại; các khu vực bị ô nhiễm ở Mexico tập trung tới 36% lượng kim loại độc hại
như chì, crôm, kẽm, thủy ngân, 17% rác thải sinh học dễ lây nhiễm, 11% là dầu mỡ
đã qua
sử dụng, phần còn lại là các chất thải hóa học vô cơ, dung môi Kết quả kiểm tra tại 17
cảng của châu Âu gần đây cho thấy, trong số 258 kiện hàng bị kiểm tra, 140 kiện có chứa
rác, trong đó 48% là rác thải vận chuyển bất hợp pháp.
Có thể nói, công tác quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề thời sự nóng hổi hiện đang
được cả thế giới quan tâm, bởi tấ
t cả đều nhận thức được rằng: nếu không có các biện pháp
để quản lý chất thải nguy hại một cách hiệu quả, đúng đắn thì những hậu quả không thể
lượng trước được của nó khiến chúng ta và cả thế hệ mai sau phải gánh chịu. Chính vì vậy,

các quốc gia đều có đưa ra các quy định pháp luật cụ thể về công tác quản lý chất thải nguy
hại để ngăn ngừa và giả
m thiểu tối đa các tác hại của chất thải nguy hại.
VI.7.1.1 Quản lý CTNH ở Pháp
Văn bản quy định đầu tiên về những cơ sở sản xuất bị đưa vào danh sách xếp hạng gây ô
nhiễm môi trường là một sắc lệnh Napoléon ký năm 1810, và từ năm 1917 trở đi văn bản này
được liên tục sửa đổi, bổ sung. Chính sách của Pháp trong việc quản lý chất thải đã được cụ

thể hoá bằng một văn bản đầu tiên mang tên Luật về chất thải rắn được thông qua vào năm

152
1975, đây là mốc đánh dấu giai đoạn đầu tiên việc thiết lập một quá trình quản lý hiện đại
công tác xử lý chất thải. Cũng chính tại Luật này đã đưa ra những công cụ và cơ chế để quản
lý những loại hình rác thải đặc biệt (hay còn gọi là chất thải nguy hại). Ngày 2/2/1995, Pháp
lại có thêm một bộ luật mới là Bộ luật về tăng cường bảo vệ
môi trường đã thiết lập thêm phụ
phí đối với việc xử lý chất thải nguy hại, tương đương 40F (frăng Pháp)/1 tấn chất thải được
loại bỏ để lại trong một cơ sở xử lý, và sẽ được tăng gấp đôi nếu tấn chất thải đó được tích
trong một bãi thải đặc biệt. Phụ phí này do Cục Môi trường và quản lý năng lượng thu lạ
i và
trong vài năm tới sẽ tăng gấp đôi. Năm 1998, phụ phí trên đã mang lại 10 triệu frăng Pháp
được sử dụng cho việc phục hồi và xử lý những địa điểm ô nhiễm đã bị bỏ hoang.
VI.7.1.2 Cộng hoà liên bang Đức
Trong vòng 20 năm lại đây, Cộng hoà liên bang Đức đã ban hành nhiều đạo luật về
quản lý chất thải. Có khoảng 2000 điều luật, quyết định, quy
định về hành chính với
nội dung phân loại các chất độc hại trong chất thải khí, rắn, nước về thu thập, vận chuyển,
xác định biện pháp giải quyết chất thải. Mỗi lần thay đổi luật, quy định mới lại khắt khe và
chặt chẽ hơn. Đó là những biện pháp xử lý bằng pháp luật rất nghiêm các trường hợp làm
phát sinh các chất thải nguy hại mà chưa xử lý hoặc quá giớ

i hạn cho phép, có thể áp dụng
biện pháp phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động của nhà máy, xí nghiệp hay cơ sở sản xuất đã vi
phạm pháp luật, bắt bồi thường thiệt hại gây ra hoặc truy tố trước pháp luật. Bên cạnh đó,
pháp luật của Cộng hoà liên bang Đức khuyến khích việc đổi mới công nghệ và thiết bị
(bằng cách thay thế từng phần hoặc toàn bộ) nh
ằm hướng tới một công nghệ không hoặc ít
sinh ra chất thải nguy hại. Nhà nước cộng hoà Liên bang Đức giảm thuế hoặc cho vay tiền
với lãi suất thấp trả dần nếu đầu tư vào công nghệ mới hay thiết bị xử lý chất thải nguy hại.
Thêm vào đó, Nhà nước còn tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nhận thức được tác hại
nguy hiểm của loại chất thải này và chính nhân dân sẽ là người giúp cho các cơ quan nhà
n
ước kiểm tra, phát hiện các nguồn phát sinh ra chất thải nguy hại và nhanh chóng tìm ra
biện pháp giải quyết. Sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, các kỹ thuật gia, các
nhà sinh học, hoá học trong lĩnh vực chất thải nguy hại đã đưa cộng hoà liên bang Đức trở
thành một trong những quốc gia đứng hàng đầu về công nghệ bảo vệ môi trường nói chung
và trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại nói riêng.
VI.7.1.3 Ở Th
ụy Điển,
Có lần tòa án tuyên án tù cho người quản lý đã ra lệnh công nhân dưới quyền đem chôn bất hợp
pháp chất thải nguy hại. Tòa án dựa trên lý lẽ rằng công nhân chỉ thừa lệnh thì không bị tù, tổng
giám đốc không ra lệnh thì cũng không bị tù, nhưng người quản lý rõ ràng là đã ra lệnh ấy nên
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong một số vụ việc, chính quyền còn điều đình với
công ty vi phạm phải trả tiền bồi thường cao hơn mức tiền phạt mà luật cho phép.
VI.7.1.4 Các nước đang phát triển:
Vấn đề quản lý chất thải nguy hại cũng đang là vấn đề rất nhức nhối. Ở các nước này đã và
đang tồn tại nhiều chất thải nguy hại mà phần nhiều là do nhập khẩu hoá chất và các sản
phẩm khác từ các nước phát triển (như dầ
u mỏ, thuốc trừ sâu, các chất thải hoá chất trong
thương mại, axit và chỉ dùng trong tái chế acquy ). Ngoài ra, còn có một lượng lớn chất thải
nguy hại tồn tại lẫn trong rác sinh hoạt và rác y tế mà khả năng phân loại và xử lý triệt để

chúng còn là một vấn đề nan giải. Các nước đang phát triển đang phải đương đầu với những

×