Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

GIÁO TRÌNH CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG part 4 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.69 KB, 19 trang )


58
lương thực, thực phẩm, đồ dùng và nhiên liệu gỗ củi. Tiếp đó là năng lượng gỗ, củi, rồi tới
năng lượng nước, gió, năg lượng kéo của gia súc. Năng lượng khai thác than đá ngự trị trong
thế kỷ 18-19. năng lượng dầu mỏ thay thế vị trí của than đá trong thế kỷ 20 và từng bước
chia sẽ vai trò của mình với năng lượng hạt nhân. Các dạng nă
ng lượng mới ít ô nhiễm như
năng lượng mặt trời, năng lượng nước, gió, thủy triều.
Nhu cầu năng lượng của con người tăng lên nhanh chóng trong quá trình phát triển. 100.000
năm trước công nguyên, mỗi ngày một người tiêu thụ khoảng 4000 đến 5000 KCal. 500 năm
trước công nguyên tăng lên 12000 KCal. Đầu thế kỷ 15 lên tới 26000 KCal, giữa thế kỷ 19
là 70000 KCal và hiện nay trên 200000 KCal.
Tỷ lệ năng lượng được khai thác theo các nguồn khác nhau thay đổi theo từng lo
ại quốc gia.
Tại các nước công nghiệp hóa phát triển các nguồn năng lượng thương mại chiếm phần lớn
tuyệt đối. Tại các nước phát triển ngược lại, các nguồn năng lượng phi thương mại (gỗ, củi,
phế thải nông nghiệp) lại chiếm phần chính.
Trong mỗi quốc gia cơ cấu năng lượng tùy thuộc trình độ phát triển kinh tế và khả năng
công nghệ về khai thác tài nguyên. Thí d
ụ ở Hoa Kỳ trước năm 1990 năng lượng nhân tạo
khai thác chủ yếu từ gỗ, củi. Sau đó chuyển dần sang than đá, mặc dầu vào thời kỳ này
người ta cho rằng dùng than đá bẩn thỉu, khai thác khó nhọc, tốn kém. Vào khoảng 1920 dầu
mỏ được khai thác với qui mô lớn và tiếp đó vào khoảng 1940 việc khai thác khí đốt phát
triển mạnh, gỗ củi không còn được dùng, than đá giữ nguyên tình trạng sử dụ
ng như các
năm 1910, 1930, dầu hỏa và khí đốt trở thành nguyên nhiên liệu chính. Năng lượng hạt nhân
được khai thác với qui mô lớn đầu thập kỷ 1970. Vào đầu thập kỷ 1980 42,5% tổng năng
lượng ở Hoa Kỳ do dầu hỏa cung cấp, 25% do khí đốt, 22,5% do than, 10% còn lại do thủy
điện, năng lượng hạt nhân, năng lượng địa nhiệt và các nguồn khác. 42% năng lượng sản
xuất ra được cung cấp cho công nghiệp, 25% cho giao thông vận t
ải, 33% cho xây dựng và


các ngành hoạt động khác.
Ở Việt Nam cho đến cuối thế kỷ 18 tài nguyên năng lượng dựa chủ yếu vào năng lượng gỗ
củi và sinh khối. Ngoài ra còn khai thác rộng rãi năng lượng từ sức người, sức kéo súc vật,
năng lượng tự nhiên của ánh sáng Mặt Trời, năng lượng dòng chảy của nước; năng lượng
thủy triều để tưới tiêu các cánh đồng lúa.
Vào năm 1990 sản xu
ất năng lượng sơ cấp ở Việt Nam được ước tính vào khoảng 17,56
triệu tấn dầu tương đương, bao gồm:
- Gỗ, củi và sinh khối, 10,39 triệu tấn tương đương (61%)
- Dầu mỏ, 3,51 triệu tấn (18%)
- Than đá, 2,65 triệu tấn (13%)
- Thủy điện, 1,34 triệu tấn (8%)
Vào năm 1994 sức sản xuất này tăng lên nhanh
- Gỗ, củi và sinh kh
ối, 10,50 triệu tấn tương đương (61%)
- Dầu mỏ, 7,0 triệu tấn (18%)
- Than đá, 4,89 triệu tấn (13%)

59
- Thủy điện, 11,535 GWh
Năng lượng được sử dụng trong các khu vực sau:
- Dân dụng 67%
- Công nghiệp 22%
- Giao thông 7%
- Nông nghiệp và các khu vực khác 4%
Các hoạt động ưu tiên trong phát triển năng lượng ở Việt Nam:
- Tăng cường cơ sở pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ năng
lượng và bảo vệ môi trường. Kiện toàn hệ thống cơ quan qu
ản lý ngành năng lượng,
tăng cường năng lực xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển năng lượng.

- Lựa chọn công nghệ sản xuất và sử dụng tối ưu các loại hình năng lượng; lựa chọn
các công cụ chính sách, xây dựng các chương trình phát triển nhằm thực hiện định
hướng chiến lược phát triển bền vững.
- Hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển, chuy
ển giao và ứng dụng các hệ thống năng
lượng không gây hại cho môi trường, bao gồm các nguồn năng lượng mới và nguồn
năng lượng có khả năng tái sinh. Khuyến khích sử dụng các công nghệ tiêu tốn ít
năng lượng và tích cực thực hiện chương trình tiết kiệm năng lượng. Ưu tiên cho việc
phát triển nguồn năng lượng có khả năng tái sinh thông qua việc khuyến khích tài
chính và các cơ chế chính sách khác trong chiến lược phát tri
ển năng lượng quốc gia.
- Cần có các giải pháp cụ thể về công nghệ và tổ chức quản lý cho từng phân ngành
năng lượng nhằm thực hiện các chương trình, dự án làm giảm tác động tiêu cực đối
với môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng năng lượng.
- Tham gia tích cực các hoạt động hợp tác và trao đổi quốc tế liên quan đến Công ước
khung về Biến
đổi khí hậu của Liên hiệp quốc năm 1992 mà Việt Nam đã ký kết tham
gia ngày 16 tháng 11 năm 1994 và hiện là Thành viên của Công ước này. Nhập khẩu
và ứng dụng những công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong lĩnh vực khai thác, rửa
và chế biến than. Đưa vốn và áp dụng công nghệ tiên tiến của nước ngoài để cải tạo
và nâng cấp công nghệ cho ngành công nghiệp than.

IV.2.2 Tài nguyên rừng
Trong sinh quyển có nhiều tài nguyên có thể tái sinh hoặc phục hồi
được, một trong những
tài nguyên đó là rừng. Từ ngàn xưa rừng là cái nôi nuôi sống con người qua nguồn tài
nguyên phong phú và cũng là nơi cư trú, tạo môi trường sống cho con người và nhiều sinh
vật khác. Sự quan hệ của rừng và cuộc sống của sinh vật đã trở thành một mối quan hệ hữu
cơ, từ đó danh từ “môi trường sống” đã có mặt trong mọi ngôn ngữ. Không có một dân tộc
nào không biết rõ vai trò quan trọng c

ủa rừng trong cuộc sống, nhất là đối với các dân tộc có
điều kiện sống khắc nghiệt, cần có sự trợ giúp hữu hiệu của rừng như: vai trò bảo vệ đất đai,
chống bão của rừng Nhật Bản, các đảo Thái Bình Dương… Tuy nhiên, có đôi khi con người
đã không bảo vệ được rừng, còn chặt phá bừa bãi làm các tài nguyên được phục hồi ngày

60
càng cạn kiệt, nhiều nơi không còn có thể tái sinh, đất trở thành đồi trọc, sa mạc, nước mưa
tạo thành những dòng lũ rửa trôi chất dinh dưỡng, tạo ngập lụt cho vùng đồng bằng,…
IV.2.2.1 Tài nguyên rừng trên thế giới
Rừng phân bố không đều trên các Châu Lục về diện tích cũng như về thể loại. Tổng cộng có
29% diện tích lục địa được che phủ bởi rừng với 3837 triệu ha, trong
đó 1280 triệu ha là rừng
thông tập trung ở miền lạnh và ôn đới (33% diện tích rừng), còn lại 2557 triệu ha (67% diện
tích rừng) là rừng rậm miền xích đạo và nhiệt đới. Sự phân chia theo các châu lục như sau:
- Châu Âu: 136 triệu ha.
- Nga: 743 triệu ha.
- Bắc Mỹ: 656 triệu ha.
- Mỹ La Tinh: 890 triệu ha.
- Châu Phi: 801 triệu ha.
- Châu Á: 525 triệu ha.
- Châu Đại Dương: 86 triệu ha.
Lúc chưa có can thiệp của con người rừng chiếm diện tích khoản 6 tỷ ha trên mặt Trái
đất.
Diện tích này chỉ còn lại khoảng 4,4 tỷ vào năm 1958 và 3,8 tỷ vào năm 1973. Hiện nay diện
tích rừng khép kín chỉ còn lại khoảng 2,9 tỷ ha, tức 4/5 diện tích rừng khép kín vào đầu thế
kỷ 18. Tài nguyên rừng hiện đang tiếp tục bị phá hoại nặng nề. Hàng năm khoảng 20 triệu ha
rừng nhiệt đới bị chặt. Vào đầu thập kỷ 1990 một số nước còn giữ lại một tỷ
lệ nhất định
rừng nhiệt đới, như Columbia, Peru, Brazil, Venezuela, Surinam ở Châu mỹ La Tinh,
Liberia, Zaire, Angola ở Châu Phi trên 75%. Ở Châu Á có Malaisia, Indonesia, Myama trên

khoảng 40%. Dự đoán tới năm 2010 một số nước hiện nay còn lại khoảng 20-25% rừng
nhiệt đới như Việt Nam, Philipine, Madagascar sẽ mất hẳn loại này. Rừng nhiệt đới thực
chất chỉ còn lại ở khoảng 10 nước ở Châu Mỹ La tinh, Châu phi và vài nước ở Đông Nam Á.
R
ừng Bắc cực và ôn đới không suy giảm bao nhiêu về diện tích, nhưng lại thay đổi nhiều về
thành phần loài và nơi phân bố do diện tích rừng già bị thu hẹp và chia cắt thành nhiều
mảnh, giá trị kinh tế rừng Châu Âu giảm mỗi năm khoảng 30 tỷ USD.
IV.2.2.2 Tài nguyên rừng Việt Nam
Nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới, rừng nước ta nổi tiếng về tài nguyên gỗ,
nhất là đặc sản có giá tr
ị. Tuy nhiên, Việt Nam cũng có tình trạng chung như những nước
đang phát triển, diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng. Các tỉnh phía Bắc có rừng giảm sút
nhiều nhất, đặc biệt là khu Tây Bắc, độ che phủ còn khoảng 1%. Vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên trong khoảng 20 năm qua hàng triệu ha rừng đã bị phá thành đất trống, trọc. Miền
Đông Nam Bộ năm 1993 có tỷ lệ che phủ khoảng 50-60%. Năm 1995 tỉ lệ này còn 40%,
hiện nay chỉ còn 21,5% (Nguyễn Ng
ọc Sinh & ctv, 1984).
Ở miền Nam Việt Nam: Sau bao năm bị tàn phá bởi chiến tranh, bom đạn, chất độc hoá học
(200kg Dioxin do Mỹ rải trong cuộc chiến tranh vừa qua), khai thác bừa bãi (25 triệu m
3
gỗ đã
mất trong 5 năm qua ở miền Đông Nam Bộ). Tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta bị giảm nghiêm
trọng, đặc biệt ở vùng ven biển rừng ngập mặn bị khai phá cạn kiệt do việc chuyển đổi diện

61
tích rừng thành diện tích nuôi tôm trong đó mô hình nuôi tôm-rừng (Hình 4.7) rất phổ biến ở
các tỉnh ven biển ĐBSCL như Cà Mau, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bến Tre (Bùi Thị Nga, 2004).
Sau một vài năm diện tích rừng không còn mà các ao nuôi tôm dần cũng bị phá vỡ do sự canh
tác thiếu bền vững (Bùi Thị Nga và ctv, 2005). Mặc dù có nhiều chính sách cho sự phát triển
mô hình nuôi tôm-rừng trong những năm gần đây, nhưng thực tế năng suất và sản lượng tôm

nuôi vẫn chưa được cả
i thiện đáng kể (Bùi Thị Nga & Huỳnh Quốc Tịnh, 2008)

Hình 4.7 Hệ thống rừng – tôm ở rừng ngập mặn Cà Mau (Bùi Thị Nga, 2007a)
Rừng nội địa đại diện là rừng tràm ở các tỉnh ĐBSCL đã được quan tâm để phát triển nhằm
duy trì đa dạng sinh học và cảnh quan cho du lịch va di tích lịch sử, nhưng cũng không tránh
khỏi sự suy thoái nghiêm trọng làm ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái tại chổ cũng
như cảnh quan du lịch quanh vùng. Trong đó đáng quan tâm là Khu Bảo Vệ Cảnh Quan
Rừng Tràm Trà Sư là nơi du lịch, nghỉ dưỡng v
ới nhiều điều kỳ thú, hấp dẫn cho khách tham
quan và là môi trường tốt cho nghiên cứu và học tập (Hình 4.8). Tuy nhiên, trong khoảng vài
năm trở lại đây hiện tượng tràm bị chết nhiều, làm cho diện tích tràm bị thu hẹp, mất đi vẻ
mỹ quan sẳn có (Hình 4.9). Ngoài ra, việc chặt phá rừng ở các vùng đầu nguồn, khai thác
rừng nguyên sinh trong vùng Bắc Cát Tiên, Bù Gia Mập, Phú Quốc, U Minh và việc cháy
rừng trên diện rộng ở Lâm Đồng, U Minh, Đồng Tháp
đã gây thiệt hại lớn đến tài nguyên
rừng và ảnh hưởng đến môi trường sống nghiêm trọng.
Tính chung trong cả nước, tốc độ mất rừng hiện nay được ước tính vào khoảng
200.000ha/năm trong đó khoảng 60.000 ha rừng bị chặt phá để chuyển thành đất nông
nghiệp ngoài kế hoạch, 50.000 ha bị cháy và 90.000 ha để khai thác gổ củi, trong khi đó mức
trồng rừng khoảng 80.000 – 100.000 ha/năm không bù lại được tốc độ m
ất rừng.

62

Hình 4.8 Rừng tràm Trà Sư-nơi nghĩ dưỡng và tham quan du lịch
(Nguồn: Bộ môn Khoa Học Môi Trường)

Hình 4.9 Rừng tràm Trà Sư-cây rừng đã bị chết mà chưa rỏ nguyên nhân
(Nguồn: Bộ môn Khoa Học Môi Trường- Dự án Trà Sư)


IV.2.2.3 Vai trò và lợi ích của rừng trong cuộc sống
Rừng hay quần xã những thân cây gỗ trong lớp thảm thực vật trên Trái Đất là bộ phận
hết sức quan trọng trong môi trường sống của con người. Rừng cung cấp cho con người
những vật liệu cần thiết, tác động trực tiếp đến sự tồn tại và chất lượng của các tài nguyên
khác như: đất, nước và tạo ra những điề
u kiện thuận lợi cho đời sống và hoạt động sản xuất
của con người.
Rừng có quan hệ chặt chẽ với đất. Rừng tham gia vào sự hình thành và phát triển của đất,
bảo vệ đất. Đất lại là nguồn vật liệu nuôi dưỡng rừng, cho phép rừng sinh trưởng và phát

63
triển. Lá cây rừng làm giảm bớt sự xói mòn trên mặt đất, cành lá rừng rụng xuống tạo thành
chất mùn, làm phân bón cho đất. Trong sinh quyển hệ thống đất và rừng cùng phối hợp đảm
nhận các chức năng tiếp thu bức xạ mặt trời, chuyển hóa vật chất từ thạch quyển và khí
quyển thành sinh khối, thực hiện chu trình tuần hoàn của oxy, cacbon, nitơ, phospho, nước
và nhiều chất khác (Bùi Thị Nga, 2000).
Rừng mư
a nhiệt đới chứa một sinh khối to lớn vào khoảng 5T/ha với mức tăng trưởng 300-
500 ta/ha/năm. Trong đó có khoảng 75% các chất cacbon hữu cơ và đạm thực vật. Cành lá
rơi rụng ở rừng nhiệt đới gấp 5 lần rừng ôn đới. Quá trình mùn hóa, phân hủy nhanh chu
trình trả lại dinh dưỡng cho cây quay vòng nhanh hơn, độ phì của đất cùng với rừng tồn tại
lâu dài, tạo nên những hệ sinh thái bền vững.
Rừ
ng điều hòa khí hậu do lớp thực vật nhiều tầng tiếp nhận các bức xạ ánh sáng mặt trời
ngăn cản việc hun nóng mặt đất, tạo nên vi khí hậu điều hòa hơn dưới tán lá rừng. Rừng
ngăn cách các luồng gió, bão, bảo vệ các khu dân cư hoặc nông nghiệp. Rừng có tác dụng
điều tiết dòng chảy sông ngòi với việc giữ nước trên lưu vực trong mùa mưa lũ và cung cấp
lại trong mùa khô kiệt. Qua đó rừng ngăn chặn mức độ thiệt hại của lũ lụt và hạn hán, chế độ
thủy văn trên lưu vực có rừng trở nên điều hòa hơn. Rừng có giá trị du lịch sinh thái, phong

cảnh, thể thao (Hình 4.10). Trong các nền kinh tế sơ khai thực vật và động vật hoang dã là
nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm chính cho con người. Rừng là ”lá phổi xanh” do có
nhiều cây xanh, giúp sự quang t
ổng hợp mạnh, tăng oxy trong không khí, giúp sức khỏe, an
dưỡng cho con người. Rừng là nơi tập trung rất nhiều cây cho sản phẩm quí như: nhuộm,
thuốc, lương thực, thực phẩm Rừng còn là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật trong đó có
chim, bò sát,

Hình 4.10 Vườn quốc gia Đất Mũi, nơi nghĩ dưỡng và tham quan (Nguồn Bùi Thị Nga)
IV.2.2.4 Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
Rừng đóng vai trò quan trọng, có tác dụng lớn trong việc điều hoà lượng nước bốc hơi, nước
chảy trên bề mặt đất, nước thấm, tác dụng đối với đất, đối với không khí là ”lá phổi xanh”,
giúp cho sự quang hợp mạnh, tăng lượng oxy, rừng giúp thu hoạch mùa màng với năng suất
cao, là nguồn nước ngọt, là ngân hàng gen quí giá. Rừng đã mang lại nhiều lợ
i ích cho con
người, gắn liền với cuộc sống của con người, khi rừng bị phá hoại thì môi trường và con
người bị ảnh hưởng trầm trọng (Hình 4.11).


64






















Hình 4.11 Ảnh hưởng đến môi trường của việc mất rừng
Do đó cần phải có biện pháp bảo vệ và phát triển tốt tài nguyên rừng:
- Ngăn chặn nhanh chóng tệ nạn phá rừng, nhất là rừng nhiệt đới, rừng đầu nguồn.
- Bổ sung vào luật bảo vệ rừng những hình phạt thích đáng và xử lý nặng nề những ai
có ý phá rừng.
- Có chính sách, chế độ động viên, khen thưởng những người có trách nhiệm trong việc
bảo vệ, chă
m sóc, trồng rừng, chống cháy rừng.
- Lập những khu bảo vệ thiên nhiên, tránh tác động của con người, đặc biệt là những
vườn quốc gia cần được bảo vệ kỹ lưỡng
- Thiết lập những rừng trồng mới, kiện toàn khu rừng phòng hộ để làm vành đai xanh
cho nhân dân. Thiết lập nhiều công viên, lâm viên với cây xanh bóng mát.
- Thiết lập những mô hình nông lâm kết hợp, đó là một phươ
ng thức sản xuất tốt.
Gia tăng
xói mòn
đất
Khan hiếm
gỗ, củi đốt

Giảm đa
dạng sinh
học
Gia tăng lũ
lụt
Giảm thủy
điện
Giảm sản
lượng cá
Ảnh hưởng
nước uống
Ô nhiễm
nước
Gia tăng
chảy tràn
Giảm độ
phì của đất
Giảm phân
hũu cơ
Mất rừng
trên đất dốc

65
- Giáo dục, tuyên truyền rộng rãi việc bảo vệ rừng, bảo vệ cây xanh.

IV.2.3 Tài nguyên sinh vật
Thiên nhiên đã cho nhân loại một nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng, theo dự
đoán của các nhà sinh học thì trên hành tinh chúng ta đang sống có khoảng từ 13 – 14 triệu
loài. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chỉ mới biết được khoảng hơn 1.750.000 loài, trong đó
có khoảng 5700 loài vi sinh vật, 1.020.561 loài động vật không xương sống, 322.311 loài

thực vật, 19056 loài cá, 9040 loài chim, 11757 loài bò sát lưỡng cư và 4000 loài thú. Trong
đó 80.000 loài th
ực vật có khả năng cung cấp nguồn lương thực thực phẩm, chúng ta chỉ mới
sử dụng có hiệu quả khoảng 1500 loài. Các nguồn lợi về cây thuốc trong tự nhiên còn rất
lớn, cho đến nay khoa học chỉ phát hiện khoản 5000 loài cây có chứa hoạt chất đặc biệt có
thẻ chống được bệnh. Với nguồn tài nguyên quí giá đó cũng đã mang lại hàng năm cho thế
giới vào khoảng 40 tỷ
đô la.
Loài hoang dã, chắc chắn, như chúng ta đã biết, đó là nguồn tài nguyên quan trọng do bởi
giá trị hiện tại hoặc giá trị kinh tế tiềm lực cho nhân dân, nguồn tài nguyên sinh vật hoang dã
cung cấp sự giải trí dưới hình thức săn bắn hoặc câu cá (Nguyễn Thiện Tống, 1991). Những
nguồn tài nguyên sinh vật hoang dã cung cấp cho nhân dân với sự khác nhau rộng lớn của
những lợi ích kinh tế trực tiếp như nguồn thự
c phẩm, đồ gia vị, những mùi, xà phòng, dầu
nấu ăn, thuốc nhuộm, cao su thiên nhiên, dược phẩm và vật liệu quan trọng khác. Thường thì
sự tụ tập quan trọng nhất của những loài hoang dã có thể là vai trò của chúng trong việc bảo
vệ sức khỏe và toàn bộ hệ sinh thái của thế giới. Những sự phục vụ hệ sinh thái của các loài
thực và động vật hoang dã bao gồm những dự trữ thực ph
ẩm từ đất liền ra biển, bao gồm sự
sản xuất và duy trì của O
2
và những hơi khác trong không khí, sự lọc và thải độc của những
vật chất độc, sự điều hòa khí hậu trái đất, sự điều chỉnh cung ứng nước ngọt, sự thối rữa của
những chất thừa, những chất dinh dưỡng chủ yếu, sự duy trì của kho rộng lớn của vật chất di
truyền, sự tích trữ của mặt trời như
năng lượng hóa học trong thực phẩm, gỗ và nhiên liệu
dưới đất (Nguyễn Tứ, 2004). Do hoạt động của con người như săn bắn, hủy hoại nơi sống,
nhất là thu hẹp diện tích rừng, môi trường bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân, việc buôn bán
động vật hoang dã làm cho rất nhiều loài đã bị diệt chủng, nhiều loài suy giảm sản lượng tới
mức bị đe dọa diệ

t vong, nguồn dự trữ gen bị mất mát và thu hẹp. Số lượng các loài chim và
thú bị diệt chủng trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1950 trùng với sự tăng trưởng dân số
và sự phát triển công nghiệp. Các nhà khoa học dự đoán rằng, nếu chiều hướng hiện nay vẫn
tiếp diễn thì 25% số loài trên thế giới sẽ chịu số phận diệt chủng trong vài thập kỷ tới, đi
theo với s
ự suy giảm đáng báo động của nơi sống và các hệ sinh thái. Những lý do chính của
sự tuyệt chủng những loài này do chúng bị săn bắn bán, mất nơi cư ngụ, sự cung ứng thực
phẩm chẳng hạn như rừng bị khai hoang để làm trang trại và thành thị. Ngoài ra không chỉ
có loài chim bị tuyệt chủng, mà hiện còn có những động vật và thực vật khác bị đe doạ
o Khỉ ”mắ
t kiếng” ở Vân Nam, Trung Quốc đang hiếm hoi.
o Chim ưng, gấu trúc, khỉ lông vàng, ở Tân Cương, Trung Quốc thường bị
săn trộm.
o Beo, tê giác, vượn, ở Châu Phi đang báo động.

66
Những loài động vật và vi sinh vật sống nhờ vào thực vật, kẻ đã tạo nên nguồn hữu cơ ban
đầu CO
2
, nước và muối khoáng. Bởi vậy, ở đâu có thực vật thì ở đó có động vật, động vật
càng giàu, càng đa dạng ở những nơi thực vật phát triển cực thịnh. Thực vật không chỉ cung
cấp thức ăn mà còn là nơi ở, chỗ trốn tránh kẻ thù của các loài động vật. Theo những số liệu
mới nhất, đến nay con người đã biết được 1.392.485 loài độ
ng vật, thực vật và vi sinh vật,
nghĩa là khoảng 4,1% số lượng loài có thể có trên hành tinh này sống ở trên cạn và ở dưới
nước. Riêng động vật và vi sinh vật chiếm 76,8% các loài đã biết, nhóm động vật có xương
sống khoảng 3%.

IV.2.4 Tài nguyên đất
IV.2.4.1 Định nghĩa

Đất là vật thể thiên nhiên cấu tạo lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5
yếu tố hình thành gồm: đ
á, thực vật, động vật, khí hậu, địa hình và thời gian. Tài nguyên đất
là tài nguyên vật liệu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với con người. Đất là chổ ở của cộng
đồng cư dân, là địa bàn khai thác nông, lâm, ngư nghiệp (Hình 4.12) và là nơi xây dựng các
cơ sở sản xuất công nghiệp và các cơ sở hạ tầng của xã hội.

Hình 4.12 Đất là nơi diễn ra các họat động chủ yếu của con người (Lê văn khoa, 2005)
Về số lượng tài nguyên đất được xác định theo diện tích. Về chất lượng, theo độ phì nhiêu
cần thiết cho sản xuất nông nghiệp và các nhu cầu sử dụng khác.
Đất là một phức hợp các khoáng vật vô cơ (hầu hết là đất sét, bùn, cát) làm gia giảm lượng
vật chất hữu cơ, nước không khí, và các sinh vật sống trên mặt đất. Môi trường đất cung cấp
chất dinh dưỡng cho cây trồng, bằng cách đó, trực tiế
p hay gián tiếp, cung cấp thực phẩm
cho chúng ta và các động vật khác để bảo tồn sự sống và sức khỏe của các sinh vật (Lê Văn
Khoa & ctv, 1999) .
IV.2.4.2 Thành phần của đất
Đất chứa không khí, nước, chất rắn. Chất rắn là thành phần chủ yếu chiếm gần 100% khối
lượng đất và được chia ra làm 2 loại: các chất vô cơ và các chất hữu cơ.

67
Các chất vô cơ là thành phần chủ yếu của đất, tỷ lệ phần trăm so với khối lượng khô kiệt của đất
thường chiếm là 97-98%. Bốn nguyên tố đầu là: O, Si, Al, Fe đã chiếm tới 93% khối lượng đất.
Năm nguyên tố cuối cùng là H, C, S, P, N rất cần cho cây trồng nhưng đá chỉ có 0,5% còn
trong đất thì tỷ lệ của chúng lại cao hơn. Ví dụ: C trong đất cao hơn trong đá 20 lần và N cao
hơn 10 lần. Chính vì vậy mà đất nuôi sống được cây trồng.
Các chất hữu cơ của đất chỉ chiếm có vài phần trăm khối lượng đất nhưng lại là bộ phận
quan trọng nhất của đất. Nguồn gốc các chất hữu cơ của đất là do xác các loài sinh vật sống
trong đất tạo nên. Trong các loài này, cây xanh có một sinh khối lớn nhất, chúng lấy thức ăn
từ trong nước và đấ

t. Nhờ CO
2
trong khí quyển và năng lượng mặt trời chúng tạo ra chất hữu
cơ. Ngay khi đang sống chúng cũng trả lại cho đất cành, lá, quả rụng, rể chết. Các chất hữu
cơ này sẽ biến đổi dưới tác dụng của không khí, nước, nhiệt độ, vi sinh vật theo 2 quá trình:
quá trình khoáng hóa và quá trình mùn hóa.
o Quá trình khoáng hóa là quá trình phá hủy các chất hữu cơ để chúng biến thành
những hợp chất vô cơ đơn giản như các loại mu
ối khoáng, H
2
O, CO
2
, NH
3
, H
2
S,
o Quá trình mùn hóa là quá trình tổng hợp các chất kể cả vô cơ và hữu cơ để hình thành
một hợp chất cao phân tử màu đen là mùn.
Các chất hữu cơ nói chung và mùn nói riêng có ảnh hưởng tới đất và cây trồng: Mùn chứa
nhiều chất dinh dưỡng đặc biệt là Nitơ rất cần thiết cho cây trồng, mùn có tác dụng kích
thích cho cây trồng. Đây là điểm khác hẳn giữa các chất hữu cơ, chất mùn và phân hóa học.
Các thành phầ
n đất được sắp xếp thành một dãy gọi là tầng đất. Mỗi tầng có độ dày, kết cấu,
màu sắc và sự kết hợp khác nhau và sự thay đổi của nó với những điều kiện khác nhau của
đất (Lê Văn Khoa, 1995). Các tầng trong đất gồm:
o Tầng 0: Tầng rác rưởi: gồm lá rụng còn tươi, mảnh vụn hữu cơ và một phần những
chất hữu cơ mụ
c rữa.
o Tầng A: Tầng đất mặt: gồm một phần chất hữu cơ mục rữa (đất mùn, mùn), những

sinh vật sống, và chất khoáng vô cơ.
o Tầng E: Tầng lắng đọng: xuyên suốt bề mặt, gồm những chất hòa tan hoặc chất lơ
lửng di chuyển xuống phía dưới.
o Tầng B: Tầng đất cát: tích lũy sắt, nhâm và những phức chất ẩ
m ướt, đất sét lắng
đọng từ tầng trên.
o Tầng C: Tầng vật liệu gốc: một phần vật chất vô cơ.
o Tầng R: Đá móng, tầng không thể xâm nhập.
Đất trên thế giới biến đổi rất rộng về màu sắc, tính chất như: trạng thái xốp, độ chua và độ
sâu. Các điểm khác nhau này có thể được dùng để phân loại khoảng hơn 10 kiểu đất chính
nh
ư: đất đen, đất xám, đất phù sa, đất laterit, đất đỏ basalt, đất hoang mạc, đài nguyên, đất
rừng nâu, đất hoang mạc, đất núi, tuyết, băng, hồ. Có 5 loại đất quan trọng xếp theo thứ tự
là: đất mềm, đất xốp, đất sỏi, đất giàu silic, và đất cằn cỗi.

68

VI.2.4.3 Tài nguyên đất trên thế giới và Việt Nam
a. Tài nguyên đất trên thế giới
Tổng diện tích đất tự nhiên của hành tinh là 14,8 x 10
9
ha (148 triệu km
2
), trong đó có những
loại đất tốt, thích hợp cho sản xuất nông nghiệp như: đất phù sa, đất đen, đất rừng nâu chỉ
chiếm 12,6%, còn lại những loại đất quá xấu như: tuyết, băng, hồ, đất hoang mạc, đất núi,
đất đài nguyên đến 40,5 %
Theo đánh giá của F.A.O – UNESCO về đất thế giới như sau:
o 20% diện tích đất ở vùng quá lạnh.
o 20% diện tích đất ở

vùng quá khô.
o 20% diện tích đất ở vùng quá dốc.
o 10% diện tích đất có tầng đất mỏng.
o 10% diên tích đất ở vùng trồng trọt được.
o 20% diện tích đất có thể làm đồng cỏ.
Cho đến nay, diện tích đất trồng trọt mới chiếm 1.500 triệu ha nghĩa là 10% tổng diện tích
đất tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên những đất đã trồng trọt thường là phù hợp với các loại đấ
t tốt nhất.
Ngay trong đất trồng trọt, người ta cũng thấy:
o Đất có năng suất cao 14%
o Đất có năng suất trung bình 28%
o Đất có năng suất thấp 58%
Đất có tiềm năng khai thác nông nghiệp trên toàn Trái Đất được ước lượng vào khoảng 3200
triệu ha, hiện nay mới khai thác 1500 triệu. Tại các nước phát triển khoảng 70% đất tiềm
năng nông nghiệp đã đưa vào canh tác. Tại phần lớn các nước đ
ang phát triển tỷ lệ này mới
36%. Trung bình toàn Châu Á, tỷ lệ lên tới 92%, trong lúc ở Châu Mỹ La tinh chỉ mới 15%,
ở Châu Phi là 21%. Tỷ lệ này phụ thuộc một phần lớn vào khả năng cấp nước cho nông
nghiệp. Tại nhiều vùng đất sa mạc nếu được cung cấp nước thì những diện tích rộng lớn đất
hoang hóa từ nhiều thế kỷ có thể trở thành đất nông nghiệp. Ngược lại nếu thiế
u nước thì đất
phì nhiêu sẽ trở thành vô dụng cho trồng trọt. Hiện nay, nguồn tài nguyên vô giá này tiếp tục
bị giảm về số lượng và chất lượng.
o Trước tiên, đất nông nghiệp mất do chuyển sang đất sử dụng cho mục đích khác mà
chủ yếu là đất xây dựng. Trình độ xã hội càng cao, nhu cầu càng lớn, cần phải phát
triển nhu cầu văn hóa giao thông,
o Thêm vào đó, lượng dân số tăng nhanh, c
ần phải giải quyết việc xây cất nhà cửa,
trường học, bệnh viện.
Ngoài ra, đất còn bị mất do nhiều lý do như: xói mòn, nhiễm phèn, nhiễm mặn, ô nhiễm

ước lượng khoảng 4 triệu ha mỗi năm, và như vậy mỗi năm nhân loại mất 12 triệu ha đất
nông nghiệp. Nhưng đất còn lại cũng không trọn vẹn, thường cũng bị giảm sút do nhiều

69
nguyên nhân như nạn xói mòn, đặc biệt nhất là vùng nhiết đới ẩm: 1 ha đất trong 1 năm mất
từ 100 – 150 tấn đất, nạn khô hạn, nước thải công nghiệp cũng làm ảnh hưởng lớn đến đất.
Tài nguyên đất trên thế giới nhìn chung đang ở vào tình trạng bị suy thoái nghiêm trọng do
bị khai thác quá mức với những phương thức không thích hợp, do phá hoại tầng phủ thực vật
gây xói mòn, rửa trôi. Các biện pháp làm đất, bón phân và t
ưới tiêu, xả thải nước, không hợp
lý cũng gây ra tình trạng đất bị ô nhiễm bởi các hóa chất độc; trở thành chua, mặn hoặc
laterit hóa. Ước tính hàng năm 15% đất toàn cầu bị suy thoái vì các lý do nhân tạo, trong đó
suy thoái vì xói mòn do nước chiếm 60% do gió 28%, 12% do mất chất dinh dưỡng. Ở
Trung Quốc diện tích đất đã bị suy thoái là 280 triệu ha chiếm 30% lãnh thổ. Biến đổi khí
hậu kết hợp biện pháp sử dụng đất không hợp lý gây ra sa mạc hóa.
Ước tính đến nay 10%
đất có tiềm năng khai thác nông nghiệp trên Trái Đất đã bị sa mạc hóa. Sa mạc Sahara ở Bắc
Phi mỗi năm tiến về Địa Trung Hải hàng trăm mét, làm mất đi mỗi năm khoảng 100.000 ha
đất nông nghiệp và đồng cỏ.
b. Tài nguyên đất ở Việt Nam
Tổng số đất đai tự nhiên của Việt Nam là 33 triệu ha đứng thứ 58 so với các nước trên thế
giới. Nhưng vì dân số đ
ông đứng hàng 13 trong các nước trên thế giới nên ha đất tự nhiên
trên đầu người thấp, chỉ khoảng 0,54ha.
Diện tích đất nông nghiệp có khoảng 6,9 triệu ha, chiếm 21% so với đất tự nhiên, nếu tính
diện tích đất nông nghiệp trên đầu người, ta có khoản 0,4 ha, đây là chỉ tiêu thấp nếu so với
thế giới (chỉ hơn Nhật Bản).
Theo số liệu thống kê của Tổng cục quản lý ruộng đất nă
m 1985 thì tình hình sử dụng đất
đai ở Việt Nam còn nhiều điểm chưa hợp lý. Hiện trạng sử dụng đất như sau:

o Đất nông nghiệp: 6.942.212 ha tức 21,02%.
o Đất lâm nghiêp: 9.641.661 ha tức 29,19%.
o Đất chuyên dùng: 1.622.532 ha tức 4,91%.
o Những loại đất khác: 14.827.725 ha tức 44,88%.
Theo quy hoạch đến năm 2010 thì đất nông nghiệp nước ta phải phát triển và mở rộng đến
10 triệu ha, trong đó:
o 6,8 triệu ha cây trồng hàng n
ăm (có 4,2 – 4,3 triệu ha lúa)
o 2,8 – 3 triệu ha cây lâu năm
o 0,7 triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản
Theo ước tính với diện tích 10 triệu ha VN có thể sản xuất 42 – 50 triệu tấn lương thực, nếu
kể sản lượng hoa màu chúng ta có từ 48 – 55 triệu tấn.
Việt Nam có khoảng 2 triệu ha đất phèn là một trong những nuớc có diện tích đất phèn lớn
nhất thế giới. Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 1 triệ
u ha đất phèn và trở thành một vùng
đất phèn nổi tiếng cả nước - diện tích đất tự nhiên Đồng Tháp Mười là 653.000 ha thì đất phèn
đã chiếm 400.000 ha tức là 62 %, trong đó đất phèn nặng đã chiếm hơn 50% (Hình 4.13)

70

Hình 4.13 Phẩu diện đất phèn họat động (Nguồn: Lê Văn Khoa, 2005)
IV.2.4.4 Các vấn đề trong nông nghiệp
Hiện nay ô nhiễm môi trường gây ra do hóa chất dùng trong nông nghiệp đã trở thành vấn đề
cần được quan tâm. Các loại thuốc trừ dịch hại, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) đã và đang là
một trong những nguyên nhân làm giảm số lượng nhiều loài sinh vật có ích, làm giảm tính
đa dạng sinh học, ảnh hưởng có hại đối với sức khỏe con người (Lê Văn Khoa & ctv, 1999).
Hàng năm ở Vi
ệt Nam sử dụng khoảng 15.000 – 25.000 tấn thuốc trừ dịch hại và thuốc
BVTV, bình quân lượng thuốc sử dụng trên 1 ha gieo trồng là 0,4 – 0,5 kg. Do sử dụng
không hợp lý hóa chất BVTV và theo kết quả nghiên cứu của Viện vệ sinh dịch tễ Trung

ương thì không khí vùng thở của người phun thuốc thường bị nhiễm các hóa chất này vượt
tiêu chuẩn cho phép hàng trăm lần, nhất là khi phun thuốc bột, phun mù và phun tầm cao.
Do đó đã gây nên một số tr
ường hợp nhiễm độc. Dư lượng thuốc trừ sâu cũng được phát
hiện trong nông sản và thực phẩm Nuôi trồng thủy sản hiện nay đã và đang lạm dụng thuốc
kháng sinh để phòng trị bệnh cho tôm và cá nuôi. Dư lượng kháng sinh tồn đọng trong nước
thải của các ao nuôi và các trại giống tôm không phải là nhỏ. Đây là điều cần được quan tâm
đặc biệt trong chiến lược phát triển bền vững ngh
ề nuôi ở việt Nam. Sử dụng quá nhiều các
chất khoáng trong thức ăn, thuốc tăng trọng và một số vi khoáng trong chăn nuôi cũng là vấn
đề bức xúc cho các nhà môi trường hiện nay ở Việt Nam vì việc quản lý nguồn thải này cực
kỳ khó khăn.
a. Do tập quán phản vệ sinh dẫn đến ô nhiễm đất
Chúng ta biết rằng: phân, rác là mầm móng của bệnh tật. Trong phân người chứa rất nhiều vi
khuẩn
đường ruột, vi rút bại liệt, uốn ván, trứng giun sán Còn rác là nơi ẩn nấp và hoạt
động của chuột là nơi khu trú của nhiều mầm bệnh
Trong cuộc sống, nhất là những vùng nông thôn hoặc miền núi thường có thói quen phóng
uế bừa bãi cũng như vứt rác ra đường không đúng nơi qui định. Thậm chí ngay cả thành phố
cũng còn những tập quán lạc hậu này, người ta vứt rác, vứt cả súc vật chết ra đườ
ng như
mèo, chuột chết, làm cho mặt đất trở nên bẩn thỉu.

71
Mỗi người dân một ngày thải 0,5 kg chất thải bao gồm cả rác. Nếu dân số nước ta là 80 triệu
dân. Rõ ràng, mỗi ngày chúng ta phải xử lý 40.000 tấn chất thải, nếu số chất thải này không
có cách xử lý kịp thời thì mặt đất sẽ ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng,
b. Do hoạt động nông nghiệp với phương thức canh tác khác nhau
Ở đây chủ yếu là việc sử dụng nguồn phân bón và thuốc trừ sâu diệt cỏ
không hợp lý dẫn

đến môi trường đất bị ô nhiễm.
 Vấn đề phân bón hoá học
Sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu bệnh là chìa khóa của sự thành công trong cách
mạng xanh và đảm bảo nhu cầu về lương thực. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều
người đã lo ngại về ảnh hưởng của phân bón đến môi trường và sức khỏe con người. Điều lo
ngại này không chỉ trong nhữ
ng nước phát triển mà ngày càng trở nên vấn đề quan trọng ở
những nước đang phát triển. Hoạt động của con người càng mở ra nhiều lĩnh vực đa dạng thì
chất thải và ô nhiễm càng phức tạp càng nhiều lên. Ngày nay, chất thải không những đổ ra
sông biển làm ô nhiễm mà còn được chôn xuống đất (landfill) ngày càng phổ biến. Mặc khác
giữa môi trường nước, môi trường không khí, biển cùng với môi trường đất có một s
ự liên
quan chặt chẽ với nhau, đặc biệt là môi trường nước và môi trường đất. Bởi vì, đất và nước
luôn luôn đi với nhau. nước ở trên mặt đất, nước ở trong lòng đất, nước và đất giao thoa
nhau. Vì vậy, ô nhiễm một trong 2 môi trường đó sẽ là ô nhiễm cả hai. Khi người nông dân
áp dụng những công nghệ hiện đại thì rất nhiều các vấn đề môi trường nảy sinh:
- Gây độc cho nguồn nướ
c, cho đất bởi thuốc trừ sâu và nitrat (NO
3
-
) và do đó, tác động xấu
đến sức khỏe con người, các động vật hoang dại và làm suy thoái các hệ sinh thái. Để tăng
năng suất cây trồng người ta thường bón thêm phân đạm vô cơ (N) lân (P
2
O
5
) và Kali (K
2
O).
Nhưng trong đó, đáng chú ý nhất là đạm, một loại phân mang lại hiệu quả rỏ rệt nhất cho

năng suất cây trồng nhưng cũng gây ô nhiễm cho môi trường đất. Vì cây chỉ sử dụng hữu
hiệu tối đa 30% lượng phân bón vào đất. Còn lại phần thì bị rửa trôi, phần nằm lại trong đất,
gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ phân nitrat (NO
3
-
) hay các dạng đạm khác dễ chuyển thành
NO
3
-
. Phân đạm amon, chẳng hạn chứa NH
4
+
, khi bón cho đất khô, trở thành NO
3
-
. Ngoài ra
một số dạng phân hóa học khác gây ô nhiễm môi trường đất là phân lân, mặc dù lân là yếu tố
cần thiết cho cây rau đậu, nhưng với lượng lân cao, sẽ gây chua cho môi trường sinh thái đất
(Lê Văn Khoa, 2005)
Phân hữu cơ nếu ủ đúng kỷ thuật trước khi bón và bón đúng liều lượng thì không gây hại
bao nhiêu cho môi trường sinh thái. Nhưng phần lớn nông dân dùng phân hữu cơ như phân
bắc, nước tiểu đều không qua ủ cho hoai, nên gây ô nhiễm cho môi trường đất và gây h
ại
cho động vật và con người. Bởi trong phân rất nhiều giun sán, sâu bọ, vi trùng và các nấm
bệnh khác. Nếu bón vào đất chúng có điều kiện sinh sôi nẩy nở lan truyền qua nước mặt,
nước ngầm hoặc bốc hơi và không khí làm ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Gây tổn hại cho các nông trại và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng sức khỏe người
lao động và cộng đồng do thuốc trừ sâu. Thường thuốc trừ sâu bao gồm trừ sâu, trừ nấm, côn
trùng, diệt cỏ kích thích sự tăng trưởng đều là các hợp chất hóa học hữu cơ hay vô cơ.




72
 Vấn đề tưới tiêu trong nông nghiệp
Trên thế giới có khoảng 2.700 km3 nước dùng để tưới trong năm 1990 hoặc khoảng 69%
tổng lượng nước ngọt được sử dụng. Đất nước tưới trên thế giới tăng từ 168 triệu ha năm
1970 lên 228 triệu ha năm 1990, nghĩa là tăng khoảng 36 % trong vòng 2 thập kỷ. Mặc dù
diện tích đất canh tác có tưới hiện nay mới chỉ chiếm 1/6 tổng diện tích canh tác, nhưng nó
sản xuất 1/3 lương thực của thế giới. Tuy nhiên tốc độ mở rộng diện tích đất có tưới đã chậm
lại vì diện tích đất phải tưới tăng và nguồn nước có chất lượng tốt bị cạn kiệt ở khắp mọi
miền của thế giới.
Ở Việt Nam, số lượng và chất lượng nước phục vụ cho nông nghiệp, nhìn chung đáp ứng
đủ
cho nhu cầu tưới cây, trừ các vùng bị mặn ở ven biển và các vùng bị ảnh hưởng nước chua ở
đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng đầu mùa mưa và cuối mùa khô. Năm 1985, cả
nước đã sử dụng 40,65 tỷ m
3
nước cho nông nghiệp, chiếm 89,8% tổng lượng nước tiêu thụ,
trong đó cho trồng trọt là 40,64 tỷ m
3
.
c. Do thải ra trên mặt đất một lượng lớn chất thải bỏ trong công nghiệp
Do thải ra trên mặt đất một lượng lớn chất thải bỏ trong công nghiệp như than, khoáng vật từ
các ống khói, lò nung, lò đút gang, những chất độc hại chứa trong các chất thải bỏ nói trên
bị khử kiềm và bị lôi cuốn vào trong đất. Có thể nói dưới hình thức hơi, bụi, khí độc được
tung vào không trung, chất thả
i bỏ lại rơi xuống đất từ đó làm thay đổi thành phần hóa học
đất, độ pH của đất, thay đổi quá trình nitrat hóa của đất do đó ảnh hưởng đến hoạt động của
vi sinh vật trong đất
d. Do những chất gây ô nhiễm không khí rồi lắng xuống mặt đất

Do những chất gây ô nhiễm không khí rồi lắng xuống mặt đất. Ví dụ như trong hoạt động
công nghiệp thường
đưa vào khí quyển một lượng SO
2
, SO
2
kết hợp với hơi nước trong khí
quyển trở thành H
2
SO
4
dưới dạng sương mù hoặc mưa làm cho mặt đất bị nhiễm H
2
SO
4
đó
là hiện tượng mưa acid.
IV.2.4.5 Một số thách thức trong nông nghiệp
Nông, lâm, ngư nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam, hiện sản xuất ra gần
1/4 GDP. Trong những năm 1990, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã có những bước
phát triển, tiến bộ đáng kể. Sản xuất lương thực, đặc biệt là lúa, tăng lên liên tục cả về diện
tích gieo trồng và năng suất, đã bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở
thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Thâm canh trở thành xu
hướng chủ đạo trong nền nông nghiệp với việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ
mới về giống, quy trình canh tác và chế biến sản phẩm. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn đã có những chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá và định hướng theo thị
trường. Tuy
nhiên, vẫn còn một số thách thức đối với sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp
và nông thôn:

- Ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún, không phù hợp với yêu cầu của việc
sản xuất hàng hoá lớn, tập trung.
- Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất
tiên tiến còn diễn ra chậm chạp. Hầu hết các khâu sản xuất
ở những vùng nông
nghiệp đều làm thủ công, dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp rất thấp.

73
- Công nghiệp tác động còn yếu vào nông, lâm, ngư nghiệp, đặc biệt là công nghiệp
chế biến nông sản.
- Thị trường nông sản không ổn định, giá cả thay đổi theo chiều hướng bất lợi đối với
nông dân.
- Tình trạng giảm sút đa dạng gen ở giống cây trồng, vật nuôi do trào lưu thay thế giống
truyền thống bằng giống mới đang làm cho việc phòng chống sâu bệnh khó khă
n hơn.
- Việc sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh
trưởng một cách tuỳ tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh
thái, dẫn đến thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại cho sức khoẻ con người.
- Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sức cạnh tranh kém, thiếu thị trường tiêu thụ sản
phẩ
m là những nguyên nhân cản trở sự phát triển ổn định của khu vực này.
- Tình trạng bóc lột tài nguyên đất đai và trong lòng đất, rừng, động thực vật ở các vùng
nông thôn cũng đang làm lãng phí nhiều nguồn tài nguyên quý không thể tái tạo được.
IV.2.4.6 Nông nghiệp và nông thôn bền vững
Nông nghiệp và nông thôn là mục tiêu của nhà nước Việt nam trong những năm tới. Để gia
tăng sức sản xuất và điều kiện sống củ
a nông dân ngày càng được cải thiện một số kế họach
sau cần được thực hiện:
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đồng bộ về phát triển nông nghiệp; hệ thống
quản lý và bảo vệ tài nguyên đất đai, tài nguyên nước, các giống cây trồng, vật nuôi,

các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác sử dụng trong nông, lâm, ngư nghiệp; các
phương pháp canh tác tiên tiến và vấn đề bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn.
- Tăng c
ường sự phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, môi trường và các cơ quan quản lý khác. Tiếp tục bồi dưỡng cán
bộ quản lý ở Trung ương và địa phương nhằm nâng cao năng lực đội ngũ quản lý cho
phát triển nông nghiệp bền vững.
- Quy hoạch phát triển nông thôn, khuyến khích đô thị hóa nông thôn một cách hợp lý
thông qua các chính sách tài chính, phát triển công nghệ và chính sách dân số, nhằm
tạo sự phát tri
ển bền vững ở cả nông thôn và đô thị, tạo lập mối quan hệ hợp lý về
phân công lao động, trao đổi và thúc đẩy lẫn nhau giữa nông thôn và đô thị, làm cho
đời sống vật chất ở nông thôn ngày càng đầy đủ tiện nghi và đời sống văn hóa, tinh
thần ngày càng văn minh, tiến bộ. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển các
công trình thuỷ lợi nhằm tăng diện tích được tưới tiêu chủ
động. Giải quyết vấn đề
cung cấp nước sạch cho người dân và vật nuôi ở những vùng dân cư nghèo.
- Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh mún, phân
tán, dồn điền đổi thửa. Áp dụng những hệ thống sản xuất kết hợp nông-lâm, nông-
lâm-ngư nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng nhằm sử dụ
ng tổng
hợp và có hiệu quả các loại tài nguyên đất, nước và khí hậu.
- Mở rộng sản xuất và thị trường sản phẩm nông nghiệp sạch, chú trọng khâu kiểm tra chất
lượng sản phẩm nhằm tạo cho người tiêu dùng niềm tin vào mức độ vệ sinh, an toàn của

74
nông sản, thực phẩm. Phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản,
trồng trọt để tăng chủng loại, quy mô và hiệu quả sản xuất lương thực, thực phẩm.
- Đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại kinh tế, giống cây trồng vật nuôi và sử dụng nguồn lao
động nông thôn. Đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh nhằm tạo thêm việc làm tạ

i
chỗ, nâng cao thu nhập, phân công lại lao động nông thôn, tạo điều kiện cho việc định cư
ổn định, giảm bớt sức ép di dân từ nông thôn ra thành thị. Củng cố và hoàn thiện hơn nữa
hệ thống dịch vụ kỹ thuật hiện có đối với các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn
nuôi và thuỷ sản. Thiết lập một hệ thống hướng dẫn sản xuất và tiêu thụ
nông sản.
- Phát triển các ngành nghề và doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn phải đi đôi
với việc xây dựng và mở rộng các khu công nghiệp tập trung, có đủ kết cấu hạ tầng
bảo đảm hạn chế khả năng gây ô nhiễm. Nghiên cứu để hình thành mạng lưới các tổ
chức làm công tác tư vấn, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển công nghiệp, tiểu
thủ
công nghiệp ở nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống. Chủ động quy
hoạch và xây dựng các cụm làng nghề, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập
trung ở vùng nông thôn để phát triển kinh tế, đồng thời làm giảm ô nhiễm môi trường
do các ngành nghề này gây ra.
- Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển những giống cây trồng
và vật nuôi có năng suất, chất lượng và sức chống chịu sâu bệnh cao, không thoái
hoá, không làm tổn h
ại tới đa dạng sinh học. Thành lập các trung tâm sản xuất giống
chất lượng cao, nhập khẩu có chọn lọc và thẩm định kỹ những giống cây trồng, vật
nuôi của nước ngoài.
- Phát triển sản xuất phân bón hữu cơ, phân bón sinh học, phân bón phân giải chậm
phục vụ cho việc phát triển nền nông nghiệp sinh thái. Mở rộng việc áp dụng sản xuất
nông nghiệp hữu cơ, th
ực hiện phổ cập quy trình phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM).

IV.2.5 Tài nguyên khí hậu
IV.2.5.1. Giới thiệu
Tài nguyên khí hậu bao gồm các yếu tố về thời tiết khí hậu (khí áp, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ
mặt trời, lượng mưa ) địa hình, không gian trống. Các yếu tố khí hậu có vai trò to lớn trong

đời sống và sự phát triển của sinh vật và con người (Bùi Thị Nga, 2000). Tác động của khí
hậu
đến con người trước hết thông qua nhịp điệu của chu trình sống: nhịp điệu ngày đêm,
nhịp điệu mùa trong năm, nhịp điệu tháng và tuần trăng. Các nghiên cứu của các nhà khoa
học cho thấy tình trạng sức khoẻ, tốc độ phát triển của sinh vật phụ thuộc vào thời điểm của
các chu trình sống trên. Cường độ và đặc điểm của bức xạ m
ặt trời có tác động mạnh mẽ tới
sự phát triển của sinh vật và tăng trưởng sinh khối.
Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình trạng sức khoẻ con người, Trong giai đoạn
phát triển hiện nay của nền kinh tế và giao lưu xã hội, khí hậu, thời tiết đang trở thành một
dạng tài nguyên vật chất thiết yếu của con người. Khí hậu th
ời tiết thích hợp tạo ra các khu
vực du lịch, nuôi trồng một số sản phẩm động thực vật có giá trị kinh tế cao (hoa, cây thuốc,
các nguồn gen quý hiếm khác.)

75
Khí quyển là lớp vỏ ngoài của trái đất với ranh giới dưới là bề mặt thuỷ quyển, thạch quyển
và ranh giới trên là khoảng không giữa các hành tinh. Khí quyển trái đất có ảnh hưởng rất
lớn đối với thời tiết khí hậu trong vùng. Khí quyển trái đất được hình thành do sự thoát hơi
nước, các chất khí từ thuỷ quyển và thạch quyển. Thời kỳ đầu, khí quyển chủ yếu gồm hơi
n
ước, amoniac, metan, các loại khí trơ và hydro. Dưới tác dụng phân huỷ của tia sáng mặt
trời hơi nước bị phân huỷ thành oxy và hydro. Oxy tạo ra tác động với amoniac và metan tạo
ra khí nitơ và carbonic. Quá trình tiếp diễn, một lượng hydro nhẹ mất vào khoảng không vũ
trụ, khí quyển còn lại chủ yếu là hơi nước, nitơ, carbonic, một ít oxy. Thực vật xuất hiện trên
trái đất cùng với quá trình quang hợp đã tạo nên một lượng lớn oxy và làm giảm đ
áng kể
nồng độ CO
2
trong khí quyển. Sự phát triển mạnh mẽ của động thực vật trên trái đất cùng

với sự gia tăng bài tiết, phân huỷ xác chết động thực vật, phân huỷ yếm khí của vi sinh vật
đã làm cho nồng độ khí N
2
trong khí quyển tăng lên nhanh chóng, để đạt tới thành phần khí
quyển hiện nay.
Khí quyển là vỏ trên bề mặt Trái đất. Nó bao gồm hỗn hợp các khí như nitơ (79%), oxy
(21%) và cacbon đioxit (0,03%)… hòa trộn với hơi nước. Khối lượng khí cấu thành khí
quyển ước tính khoảng 5,15 x 10
15
tấn (Sytnick, 1985). Khí quyển còn chứa nhiều khí khác
ở lượng nhỏ và các hạt lơ lửng như bụi, phấn hoa, các vi khuấn, virut, bào tử nấm… không
khí còn chứa mùi khác nhau như mùi của hoa, mùi của chất hữu cơ bị phân hủy và mùi khí
thải từ công nghiệp. Các đám cháy rừng và đốt các nhiên liệu hóa thạch thải ra khỏi, tro, mùi
và các chất gây ô nhiễm như HF, SO
2
. Trong thiên nhiên, không khí ở những vùng không
chịu ảnh hưởng của công nghiệp và thành phố được xem là tương đối sạch, bởi vì nồng độ
của các loại khí độc rất thấp, không thể tạo ra ô nhiễm. Thế nhưng rất nhiều chất lạ sinh ra
do hoạt động của con người đã thâm nhập vào “không khí sạch” này. Sự xả các khí độc vào
không khí đã tác động đến đời sống thực vật, động vật và s
ức khỏe con người, làm phương
hại tới các công trình xây dựng hoặc các tính chất khác (Cartledge, 1994).
IV.2.5.2 Các tầng của khí quyển
Khí quyển trái đất có cấu trúc phân lớp với các tầng đặc trưng từ dưới lên trên như sau: Tầng
đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung gian, tầng điện ly.
- Tầng đối lưu (Troposphere) là tầng thấp nằm ngay trên mặt đất và ở tầng này càng lên cao
nhiệt độ càng giảm. Tầng đối lư
u có chiều cao thay đổi từ 8km ở các đới cực và khoảng 18
km ở đới xích đạo. Ở đó luôn có chuyển động đối lưu của khối không khí bị nung từ mặt đất,
thành phần khí khá đồng nhất. Tầng đối lưu là nơi tập trung nhiều nhất hơi nước, bụi và các

hiện tượng thời tiết chính như mây, mưa, tuyết, mưa đá, bão v.v

- Tầng bình lưu: nằm trên tầng đối lưu với ranh giới trên dao động trong khoảng độ cao 50
km. Không khí tầng bình lưu loãng hơn, ít chứa bụi và các hiện tượng thời tiết, trong tầng
này có một vùng ở độ cao vào khoảng 25 km cách mặt đất, có nhiệt độ gần như không đổi và
luôn tồn tại một lớp không khí giàu khí Ozon (O
3
) thường được gọi là tầng Ozon. Trong khi
đó tầng trên của nó, nhiệt độ tăng cùng với việc tăng độ cao.
- Tầng trung quyển (Mesosphere): Trong tầng này có sự giảm nhiệt độ ở độ cao 55 – 80 km.
- Đỉnh tầng trung quyển nằm ở phía trên tầng trung quyển trên nữa là tầng nhiệt quyển
(Thermosphere) và ngoại quyển (Exosphere), ở đây nhiệt độ ban ngày thường rất cao, nhưng
ban đêm xuống thấp. Tầng ngoại quy
ển chuyển dần vào tầng khoảng không vũ trụ (ourer space).

76
Cấu trúc tầng của khí quyển được hình thành do kết quả của lực hấp dẫn và nguồn phát sinh
khí từ bề mặt trái đất, có tác động to lớn trong việc bảo vệ và duy trì sự sống trái đất.
IV.2.5.3 Thành phần của không khí
Thành phần khí quyển trái đất khá ổn định theo phương nằm ngang và phân dị theo phương
thẳng đứng. Phần lớn khối lượng 5.10
15
tấn của toàn bộ khí quyển tập trung ở tầng đối lưu
và bình lưu. Thành phần khí quyển trái đất gồm chủ yếu là nitơ, oxy, hơi nước, CO
2
, H
2
, O
3
,

NH
4
, các khí trơ.
Nitơ (N) = 78,08%
Oxygen (O) = 20,946%
Argon (Ar) = 0,934%
Carbondioxit (CO
2
) = 0,0314%
Neon (Ne) = 0,0018%
Heli (He) = 0,0005%
Metan (CH
4
) = 0.0002%
Krypton (Kr) = 0,0001%
Theo thống kê con người có thể nhịn ăn trong 2 tuần, nhịn uống trong 2 ngày nhưng không thể
nhịn thở trong vài phút. Mỗi ngày một người chỉ cần 1,8 lít nước để uống, 1,4 kg thức ăn nhưng
phải cần đến 14 kg không khí (tương đương 12m
3
) để thở. Không khí gắn liền với sự tồn tại và
phát triển trong đời sống, hoạt động của mọi thế giới động thực vật. Vì vậy, khi không khí bị ô
nhiễm rõ ràng sẽ là mối đe dọa cho cuộc sống của con người và tất cả động vật khác…
Khi nguồn nước bị ô nhiễm, chúng ta có thể đun sôi để diệt khuẩn, nấu chín thức ăn để hạ
n
chế ô nhiễm. Nhưng khi không khí bị ô nhiễm thì việc xử lý nó rất phức tạp. Trên thực tế rất
khó sản xuất ra không khí, chúng ta cũng không thể mua bán, vay mượn không khí. Vì vậy
gìn giữ để bầu không khí được trong lành là một vấn đề rất quan trọng. Do tính chất lưu
động của không khí nên vấn đề ô nhiễm không khí không phải là vấn đề cục bộ mà là vấn đề
có tính chất toàn cầu.
IV.2.5.4 Hiệu ứng nhà kính (The green house effect)

Nhiệt
độ bề mặt trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời đến bề mặt
trái đất và năng lượng bức xạ của trái đất vào khoảng không gian giữa các hành tinh. Năng
lượng mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua các lớp CO và tầng O
3
rồi
xuống đất. Trong khi đó, bức xạ của trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình +16
o
C là sóng
dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp thụ bức xạ
sóng dài trong khí quyển là khí CO
2
, bụi, hơi nước, khí mêtan, khí CFC v.v
"Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian
xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất. Hiện tượng này diễn ra
theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và được gọi là Hiệu ứng nhà kính".
Thành phần của khí trong nhà kính như sau:
- CO
2
chiếm 50%

×