Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.86 KB, 4 trang )
Phân độ ứ Nước Của Thận
Thận ứ nước là do tình trạng tắc nghẽn đường dẫn niệu trong hoặc ngoài thận làm
cho thận to lên, chứa đầy nước tiểu. Nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời
nguyên nhân sẽ làm cho thành thận giãn mỏng,có thể dẫn đến tình trạng suy thận
mạn tính và nhiều biến chứng nguy hiểm khác
Những nguyên nhân hay gặp là:
.Sỏi thận.
.Sỏi niệu quản.
.Viêm đường tiết niệu làm niệu quản bị chít hẹp,nhất là chỗ nối bàng quang- niệu
quản hay niệu quản-đài bể thận.
.Một số dị dạng bẩm sinh như có van niệu đạo, hiện tượng trào ngược bàng quang
- niệu quản cũng có thể gây ra bệnh.
.Những nguyên nhân khác như u xơ tuyến tiền liệt, ung thư bàng quang, ung thư
tuyến tiền liệt.
.Các khối u ở vùng chậu, hông, tình trạng có thai cũng gây khả năng chèn ép,
làm tắc nghẽn đường niệu dẫn đến nhiều rối loạn ở hệ thống tiết niệu (và một số
cơ quan khác trong cơ thể).
.Thận ứ nước tăng từ độ 1 lên độ 2,nguyên nhân do phình to bó mạch ở cực dưới
thận đè vào chổ nối niệu quản -đài bể thận.
Phân độ thận ứ nước dựa trên hình ảnh siêu âm,người ta đánh giá sự giãn, tổn
thương của bể thận, các đài thận và niệu quản, có thể có 3 mức độ:
- Độ 1:
Vùng phản âm trung tâm có một vùng siêu âm trắng ở giữa do nước ứ lại gây giãn
bể thận, các đài thận giãn nhẹ.
Thành của các đài thận bị tách nhau ra bởi sự tích tụ nước tiểu tạo nên các hình
rỗng âm bắt đầu từ đỉnh tháp Malpighi hội tụ về phía bể thận. Bể thận căng nước
tiểu nhưng đường kính trước-sau bể thận < 3cm. Đáy các đài vẫn cong lõm ra phía
ngoài. Sự hội tụ của các đài thận về phía bể thận thấy rõ nhất trên các lát cắt theo