Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

PHÉP ÐO ÁP LỰC BỌNG ÐÁI – cystometry pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.02 KB, 3 trang )

PHÉP ÐO ÁP LỰC BỌNG ÐÁI –
cystometry

Khảo sát sự thay đổi áp lực bên trong bọng đái theo dung tích bọng đái. Áp lực
bọng đái được theo dõi lúc bọng đái được đổ đầy thụ động và lúc bọng đái co bóp
chủ động. Khi đo người ta ghi nhận cảm giác mắc tiểu, độ dốc của đường biểu
diễn trong lúc đổ đầy và sự co bóp của cơ chóp bọng đái.
2.1.1. Cảm giác bọng đái:
Bình thường, cảm giác đầy ở bọng đái xảy ra khi dung tích bọng đái khoảng từ
100 - 300 ml. Sau đó là cảm giác mắc tiểu, thường xảy ra khi dung tích bọng đái
khoảng 350 - 400 ml.
Những bất thường về cảm giác mắc tiểu bao gồm giảm hoặc không có cảm giác đổ
đầy hoặc cảm giác mắc tiểu. Khó chịu hoặc mắc tiểu gấp khi dung tích còn ít là
điển hình của tình trạng viêm chẳng hạn như nhiễm trùng đường tiểu dưới, viêm
bọng đái do xạ trị, viêm bọng đái kẽ .
2.1.2. Giai đoạn chứa đựng hay đổ đầy:
Do tính chất vật lý đặc biệt của thành bọng đái mà trong giai đoạn chứa đựng,
dung tích bọng đái có thể gia tăng rất nhiều nhưng áp lực bên trong bọng đái tăng
rất ít. Vì thế, bình thường thì biểu đồ áp lực bọng đái trong giai đoạn này gần như
nằm ngang. Người ta dùng khái niệm độ dãn nở bọng đái (compliance) (DV/DP
trong giai đoạn chứa đựng) để đánh giá đặc điểm này của bọng đái.
Tăng độ dãn nở bọng đái có thể gặp trong ứ đọng nước tiểu mạn tính đo bất kỳ
nguyên nhân nào.
Giảm độ dãn nở bọng đái có thể do nhiều nguyên nhân, bao gồm viêm bọng đái
mạn tính, viêm bọng đái do xạ trị, viêm bọng đái kẽ, carcinoma bọng đái .
2.1.3. Giai đoạn co bóp bọng đái:
Co bóp cơ chóp bọng đái thể hiện bởi sự gia tăng áp lực chậm và ổn định trên
đường biểu diễn đến 60 - 120 cm H2O. Ở người bình thường, giai đoạn này được
báo trước bởi cảm giác mắc tiểu, tuy nhiên nếu muốn thì có thể kềm hãm sự co
bóp này.
Tăng hoạt cơ chóp - do nguyên nhân thần kinh hoặc không - biểu hiện bởi dung


tích bọng đái thể hiện trên áp lực đồ dưới 200 ml và điều quan trọng hơn là không
có khả năng ức chế sự co bóp cơ chóp. Người ta thường dùng từ tăng phản xạ cơ
chóp (detrusor hyperreflexia) cho những trường hợp do nguyên nhân thần kinh, và
từ bất ổn định cơ chóp (detrusor instability) để chỉ những trường hợp không do
nguyên nhân thần kinh hay không rõ nguyên nhân.
Không co bóp cơ chóp - không thấy sự co bóp cơ chóp khi đo áp lực bọng đái.
Lưu ý rằng do sự ức chế tâm lý trong lúc đo mà khoảng 10% đàn ông và 50% phụ
nữ vốn đi tiểu bình thường lại không thể biểu hiện co bóp cơ chóp trên áp lực đồ
bọng đái. Người ta dùng từ bất phản xạ cơ chóp (detrusor areflexia) cho những
trường hợp do nguyên nhân thần kinh, còn không co bóp cơ chóp (detrusor
acontractile) cho những trường hợp khác.
Suy yếu co bóp cơ chóp - biểu hiện bởi những co bóp yếu và ngắn, thường gặp ở
người già thuộc cả hai phái, có lẽ do sự thay thế cơ trơn bọng đái bằng thành phần
collagen.

×