Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.41 KB, 5 trang )
Pulmonary embolism
NGHẼN MẠCH PHỔI DO HUYẾT KHỐI
- 95% nghẽn mạch phổi xuất phát từ những khối đông tại hệ tĩnh mạch sâu chi
dưới.
- 5% do huyết khối từ buồng tim phải hoặc tĩnh mạch khác.
Yếu tố thúc đẩy: sự ngưng trệ, dị dạng thành tĩnh mạch và tổn thương hệ thống
đông máu.
Phân loại: Bệnh nghẽn mạch phổi có thể được xếp thành 3 loại :
- NGHẼN MẠCH PHỔI LỚN CẤP TÍNH (ACUTE MASSIVE OCCLUSION)
+ Được định nghĩa như là nghẽn trên 50% hệ huyết quản phân thùy phổi hoặc một
khối lượng tương đương cục máu đông trung ương.
+ Lúc giải phẫu tử thi các cục máu gây nghẽn mạch gọi là saddle emboli thường
được tìm thấy ở vùng tiếp cận của chĩa (bifurcation) động mạch phổi chính.
- NHỒI MÁU PHỔI (PULMONARY INFARCTION)
+ Thường xảy ra khi cục huyết khối gây nghẽn lưu lượng máu đến một vùng nhất
định của phổi với mức độ đủ làm chết các mô phổi.
+ Chỉ xảy ra với tỷ lệ 10% của những trường hợp nghẽn mạch phổi cấp tính
- NGHẼN MẠCH PHỔI NHƯNG KHÔNG GÂY NÊN NHỒI MÁU PHỔI.
+ Loại thông thường nhất
+ Khó chẩn đoán nhất vì các cục máu đông gây nghẽn không được thể hiện trên
lâm sàng bằng những triệu chứng đặc hiệu.
Giai đoạn cấp tính: huyết khối làm tắc một phần hay hoàn toàn dòng máu từ
trong mạch phổi đến phần phổi mà nó cấp máu, gây nên các hậu quả về hô hấp và
huyết động.
- Hậu quả về hô hấp:
+ Khối đông làm nghẽn mạch→ giảm tưới máu tại vùng phổi mà mạch máu đó
cấp máu, nhưng vùng phổi đó vẫn được thông khí → tạo nên “khoảng chết” (đây
là sự thông khí vô ích vì ko được tưới máu) → co thắt phổi.
+ Rối loạn thông khí tưới máu → thiếu oxy máu.
+ Vùng phổi thiếu tưới máu → chất hoạt diện giảm → xẹp phổi.