Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.63 KB, 5 trang )
Trường hợp nào cần truyền máu?
Máu toàn phần giúp làm tăng khả năng vận chuyển ôxy, đồng thời góp phần tăng
thể tích tuần hoàn. Vì vậy máu toàn phần được chỉ định điều trị tình trạng suy
giảm khả năng vận chuyển ô xy kèm với các triệu chứng giảm thể tích tuần hoàn
hoặc sốc giảm thể tích máu, mà hay gặp nhất là tình trạng mất máu cấp trong
ngoại khoa và sản khoa.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, đối với người lớn thể tích máu = 70ml/kg cân nặng, trẻ
em = 80ml/kg cân nặng. Kinh nghiệm của tác giả nước ngoài cho thấy:
- Nếu mất <10>20% (khoảng 1000ml): truyền cấp cứu các dung dịch trọng lượng
phân tử cao kết hợp với truyền máu toàn phần.
Máu toàn phần còn được sử dụng trong quy trình truyền thay máu (exchange
transfusion).
Không nên truyền máu toàn phần khi chỉ định truyền máu chỉ với một mục đích
chống thiếu máu, nhất là khi có thể sử dụng các phương pháp điều trị thiếu máu
khác như thuốc vitamin B12, sắt hoặc erythropoietin, đồng thời tình trạng lâm
sàng bệnh nhân cho phép chờ đợi các phương pháp này phát huy tác dụng. Truyền
máu toàn phần cũng không nên chỉ định chỉ với mục đích làm tăng thể tích tuần
hoàn hoặc làm tăng áp lực thẩm thấu tuần hoàn. Máu toàn phần cũng không có giá
trị khi mục địch điều trị là điều chỉnh các rối loạn đông máu.
Trường hợp nào cần truyền máu?
1. Thiếu máu cấp
- Chỉ định truyền máu khi thiếu máu cấp ở mức độ nặng và mức độ trung bình
nhưng vẫn còn chảy máu hoặc còn tán huyết.
- Thiếu máu cấp được chia theo mức độ sau:
Mất máu nhẹ: - < 500ml máu.
- Mạch và huyết áp bình thường.
- Bệnh nhân tỉnh và tiếp xúc tốt.
Mất máu trung bình: - 500 – 1000ml.
- Mạch:100-120lần/phút, huyết áp > 90mmHg.