Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 139 trang )

1
4
MỤC

LỤC
Trang
MỞ

ĐẦU



1
1. Tính cấp thiết của đề tài ………… 1
2. Mục tiêu nghiên cứu

………… 2
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài ………… 2
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ………… 2
Chƣơng

1:

TỔNG

QUAN

TÀI

LIỆU
3


1.1. Cơ sở

khoa học của đề tài 3
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 26
Chƣơng

2:

VẬT

LIỆU,

NỘI

DUNG



PHƢƠNG

PHÁP

NGHIÊN

CỨU
32
2.1. Đối tượng, vật liệu và địa điểm nghiên cứu 32
2.2. Nội dung nghiên cứu 32
2.3. Phương pháp nghiên cứu 33
2.4. Phương pháp sử lý số liệu 39

Chƣơng

3:

KẾT

QUẢ



THẢO

LUẬN

42
3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đường tiêu hoá của chó ở Hà Nội

42
3.1.1.
Thành phần loại giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội


42
3.1.2.
Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân


44
3.1.3.
Cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua kiểm tra phân



46
3.1.4.
Tỷ lệ cường độ nhiễm giun tròn ở chó qua mổ khám


47
3.1.5.
Tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá của từng loại chó nuôi ở Hà Nội



49
3.1.6.
Tỷ lệ nhiễm giun tròn theo lứa tuổi ở chó



51
3.1.7.
Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo mùa vụ



54
3.1.8.
Tỷ lệ nhiễm giun tròn ở chó theo tính biệt



56
3.2.
Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý
,

l©m

sµng

cña

bÖnh

giun

trßn
đường
tiªu
ho¸

chã



57
5
3.2.1.

Tỷ


lệ

về

biểu

hiệm

triệu

chứng

bệnh

lâm

sàng

của

chó

bị

bệnh

giun

tròn
57

3.2.2.

Bệnh

tích

đại

thể

về

vi

thể





quan

tiêu

hóa

của

chó


bị

bệnh

giun

tròn



59
3.2.3.

Sự

thay

đổi

một

số

chỉ

tiêu

huyết

học


của

chó

bị

bệnh

giun

móc

so
với

chó

khỏe



63
3.2.4.

Công

thức

bạch


cầu

của

chó

khoẻ



chó

bị

bệnh

giun

móc



65
3.2.5.

Kết

quả


thử

nghiệm

một

số

loại

thuốc

tẩy

giun

tròn

đườg

tiêu

hoá

chó

66
3.2.6.

Độ


an

toàn

của

thuốc

tẩy

68
3.2.7.

Biện

pháp

phòng

trị



71
KẾT

LUẬN




ĐỀ

NGHỊ
1.

Kết

luận



72
2.

Đề

nghị

74
TÀI

LIỆU

THAM

KHẢO


75

MỘT

SỐ

HÌNH

ẢNH

MINH

HOẠ
Số

hóa

bởi

Trung

tâm

Học

liệu



Đại

học


Thái

Nguyên
6
DANH

MôC

b¶ng
B¶ng

3.1.

Thành

phần

loài

giun

tròn

đường

tiêu

hóa


của

chó

nuôi





Nội

42
B¶ng

3.2.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

đường

tiêu


hóa

của

chó

nuôi





Nội


44
B¶ng

3.3.

Cường

độ

nhiễm

giun

tròn


đường

tiêu

hóa

của

chó

nuôi





Nội



46
B¶ng

3.4.

Tỷ

lệ




Cường

độ

nhiễm

giun

tròn

đường

tiêu

hóa

của

chó

nuôi




Nội




48
B¶ng

3.5.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

đường

tiêu

hóa

của

chó

nuôi






Nội



49
B¶ng

3.6.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

theo

tuổi

của

chó

nuôi






Nội


51
B¶ng

3.7.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn



chó

theo

mùa


vụ


54
B¶ng

3.8.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

theo

tính

đặc

biệt

của

chó



56
B¶ng

3.9.

Biều

hiện

lâm

sàng

của

chó

bị

bệnh

giun

tròn



58

B¶ng

3.10.

Bệnh

tích

đại

thể





quan

tiêu

hoá

chó

bị

bệnh

giun


móc



60
B¶ng

3.11.

So

sánh

lực

lượng

hồng

cầu,

bạch

cầu,

hàm

lượng

huyết


sắc

tố
giữa

chó

khỏe



chó

bị

bệnh

giun

móc



64
B¶ng

3.12.

So


sánh

công

thức

bạch

cầu

của

chó

khỏe



chó

bị

bệnh

giun

móc




65
B¶ng

3.13.

Hiệu

lực

của

một

số

loại

thuốc

tẩy

giun

tròn

cho

chó




67
B¶ng

3.14.

Một

số

chỉ

tiêu

sinh



của

chó

trước



sau

khi


dùng

thuốc



69
B¶ng

3.15.

Tỷ

lệ

chó



phản

ứng

sau

khi

dùng


thuốc



70
Số

hóa

bởi

Trung

tâm

Học

liệu



Đại

học

Thái

Nguyên
7
Danh


môc

biÓu

®å
Biểu

đồ

3.1.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

đường

tiêu

hoá

của


4

loại

chó

nuôi





Nội



51
Biểu

đồ

3.2.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun


tròn

đường

tiêu

hoá

theo

tuổi

chó



53
Biểu

đồ

3.3.

Tỷ

lệ

nhiễm


giun

tròn

theo

mùa

vụ



55
Biểu

đồ

3.4.

Tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn

đường


tiêu

hoá

theo

tính

biệt

của

chó



57
DANH

MỤC

ẢNH

BỆNH

TÍCH

VI


THỂ
ẢNH

1.

Xuất

huyết

niêm

mạc

ruột

non



61
ẢNH

2.

Niêm

mạc

ruột


bình

thường



61
ẢNH

3.

Tế

bào

biểu



ruột

bị

bong

tróc,

lông

nhung


biến

dạng

62
ẢNH

4.

Tế

bào

biểu



lành

lặn



62
ẢNH

5.

Thâm


nhiễm

tế

bào

bạch

cầu



63
Số

hóa

bởi

Trung

tâm

Học

liệu




Đại

học

Thái

Nguyên
8
DANH

MỤC

TỪ



CỤM

TỪ

VIẾT

TẮT
Chữ

viết

tắt Chữ

viết


đầy

đủ
A.

caninum Ancylostoma

caninum
T.

canis
Toxocara

canis
T.

leonina
Toxascaris

leonina
T.

vulpis
Trichocephalus

vulpis
>
Lớn


hơn
<
Nhỏ

hơn
-
Đến
TT
Thể

trọng
SS


sinh
%
Phần

trăm
cs
Cộng

sự
Số

hóa

bởi

Trung


tâm

Học

liệu



Đại

học

Thái

Nguyên
1
MỞ

ĐẦU
1.

Tính

cấp

thiết

của


đề

tài
Từ lâu,

chó

được

con người thuần hóa



coi

như



người bạn gần
gũi,

thân

thiện.

Chó

dễ


nuôi,

trung

thành

với

chủ,

các

giác

quan

rất

phát
triển, thông minh, nhanh nhẹn và có tính thích nghi cao với điều kiện sống
khác nhau. Do vậy, chó được nuôi phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, phục
vụ

các

mục

đích

khác


nhau.

Những

năm

gần

đây,

nền

kinh

tế

ngày

càng
phát

triển,

đời

sống

dân


trí

được

nâng

cao



cải

thiện,

do

vậy

việc

nuôi
chó để giữ nhà, làm cảnh và làm kinh tế được quan tâm chú ý trong nhiều
gia

đình

người

dân




Nội.

Nhiều

giống

chó

ngoại

quý

hiếm

được

nhập
làm phong phú thêm về số lượng và chủng loại chó ở nước ta. Song chó là
loài động

vật

rất

mẫn cảm

với các


tác

nhân

gây bệnh.

Bệnh truyền

nhiễm
do vi khuẩn, vi rút và bệnh do ký sinh trùng đã và đang làm chết nhiều chó
ở Hà Nội,

gây thiệt

hại kinh tế cho

nhiều hộ

chăn

nuôi, đặc biệt

là các hộ
chăn nuôi những giống chó quý hiếm.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,

nóng ẩm,
mưa nhiều, có điều kiện thuận lợi cho giun sán phát triển quanh năm. Bệnh giun,
sán là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất ở chó. Một số tác giả
đó


nghiên

cứu

về

bệnh

do

ký sinh

trùng

gây

nên



chó

như:

Phạm



Lăng

(1985) [10], Ngô Huyền Thuý (1996) [34]. Cho tới nay, các nhà khoa học nước
ta đã xác định được 26 loài giun, sán ký sinh ở chó, trong đó có 16 loài giun tròn.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về bệnh của chó chưa được quan tâm đúng mức,
đặc biệt là bệnh do ký sinh trùng gây nên, trong đó có nhiều loài giun tròn


sinh ở đường tiêu hoá gây tác hại lớn đối với chó. Giun ký sinh lấy chất dinh
dưỡng, hút máu, tiết độc tố và chất chống đông máu. Bệnh âm ỉ, kéo dài làm
vật

chủ

mất

máu

suy

dinh

dưỡng,

gầy

yếu,

rối

loạn


tiêu

hoá,

giảm

sức

đề
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
2
kháng. Từ đó, các vi khuẩn trong đường ruột có cơ hội trỗi dậy gây hội chứng
tiêu chảy nặng hơn và làm chết chó nếu không được điều trị kịp thời.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài:



Nghiên

cứu

tình

hình

nhiễm

giun

tròn

đƣờng

tiêu

hoá

của

chó

nuôi




Nội




biện

pháp

phòng

trị”.
2.

Mục

tiêu

nghiên

cứu
- Xác định thành phần loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó
nuôi ở Hà Nội.
-

Nghiên cứu

một

số

đặc


điểm

dịch tễ

bệnh

giun

tròn đường tiêu

hoá
của chó ở các quận nội thành Hà Nội.
- Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của chó bị bệnh giun tròn.
- Xác định hiệu lực thuốc tẩy trừ giun tròn cho chó.
- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun tròn cho chó có hiệu quả.
3.

Ý

nghĩa

khoa

học

của

đề


tài
Kết

quả

của

đề

tài



những

thông tin

khoa

học

bổ

sung



hoàn thiện
thêm các nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ và bệnh học của bệnh giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hoá của chó trong điều kiện chăn nuôi hiện nay ở nước ta.

4.

Ý

nghĩa

thực

tiễn

của

đề

tài:
-

Kết

quả

nghiên

cứu

của

đề

tài




những

minh

chứng

về

tác

hại

của
một số loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá của chó, đồng thời là những
khuyến cáo có ý nghĩa cho những hộ gia đình nuôi chó ở Hà Nội và các địa
phương khác.
- Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng để chẩn đoán và phòng trừ bệnh
giun tròn đường tiêu hóa, góp phần khống chế bệnh trong thực tiễn.
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu




Đại

học Thái

Nguyên
3
Chƣơng

1
TỔNG

QUAN

TÀI

LIỆU
1.1.



SỞ

KHOA

HỌC

CỦA

ĐỀ


TÀI
1.1.1.

Vị

trí

của

giun

trong

đƣờng

tiêu

hoá

chó

trong

hệ

thống

phân


loại
động

vật

học
Trong khu hệ giun trong đường tiêu hoá của chó, theo Nguyễn Thị Lê


cs

(1996)

[17],

các

loài

giun

tròn



sinh



chó


Việt

Nam

được

phân
loại như sau:
Ngành Nemathelminthes, Huxley, 1856

Lớp



Nematoda



Rudolphi,



1808
Phâ n lớp: Enoplia Chitwood, 1933

Bộ Trichocephalida Skrjabin và Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidae


Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài

Trichocephalus vulpis (Froelich, 1789)
(ký sinh ở manh tràng chó)
Phân lớp Rhabditia Pe arse, 1942
Bộ Strongylida Railliet et Henry, 1913
Họ

Ancylostomatidae Looss, 1905
Phân họ Ancylostomatinae Looss, 1911
Giống Ancylostoma Dubini, 1893
Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)
Loài Ancylostoma braziliense Faria, 1910
(ký sinh ở ruột non chó)
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái


Nguyên
4
Phân họ: Bunostomatinae Looss, 1911
Giống Uncinaria Froelich, 1789
Loài Uncinaria stenocephala

Railliet, 1884
(ký sinh ở ruột non chó)
Bộ Ascaridida Skrjabin và Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915
Họ Ascaridae

Baird, 1853
Giống Toxascaris Leiper, 1907
Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902) Leiper, 1907
( ký sinh ở dạ dày, ruột chó)
Họ Anisakidae Skrjabin và Karokhin, 1945
Giống Toxocara Stiles, 1905
Loài Toxocara canis (werner, 1782)
(ký sinh ở dạ dày, ruột non chó)
Bộ

Spirurida Chitwood, 1933
Phân bộ Spirurina Railliet, 1914
Liên họ Spiruroidea Railliet et Henry, 1915
Họ Spiruridae Oerley, 1885
Giống Spirocerca Railliet et Henry, 1911
Loài Spirocerca lupi (Rudolphi,1809)
(ký sinh ở dạ dày, u thành thực quản của chó)

Bộ

Rhabditida Chitwood, 1933
Phân bộ Rhabditina Chitwood, 1933
Họ Strongyloididae Chitwood et Mcinstosh, 1934
Giống Strongyloides Grassi, 1879
Loài Strongyloides canis Brumpt, 1922
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
5
1.1.2.

Đặc

điểm

sinh


học

của

một

số

loài

giun

tròn



sinh



đƣờng

tiêu
hoá

chó
1.1.2.1.

Đặc


điểm

hình

thái,

cấu

tạo
-

Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)
Là loài giun tròn nhỏ, thân hình sợi chỉ, màu vàng nhạt, đoạn trước cong
về phía lưng, bao miệng mỗi bên có 2 răng 3 chạc lớn, cong vào phía trong,
miệng hình bầu dục.
Con đực dài 9 - 12 mm, đuôi có túi kitin, 2 gai giao hợp bằng nhau dài
0,74- 0,87 mm, bánh lái dài 0,13 - 0,21 mm.
Con cái dài 10 - 21 mm, đuôi có gai nhọn, âm hộ nằm 1/3 phía sau của
thân. Trứng hình bầu dục dài 0,06 - 0,066 mm, rộng 0,037- 0,042 mm. Trứng
có nhiều nhân, vỏ trong suốt.
-

Loài

Ancylostoma braziliense (Faria, 1910)
Giun nhỏ hơn

Ancylostoma caninum, cơ thể hình trụ, thon nhỏ 2 đầu.
Con đực dài 6,6 - 8,1 mm, rộng 0,278 - 0,354 mm. Lớp biểu bì dày, có

vân ngang, đầu hơi cong về mặt bụng, nang miệng hình cầu, có một đôi răng
không

phân

nhánh.

Thực

quản dài 0,62

-

0,69

mm.

Túi sinh

dục

phát

triển,
các nhóm sườn đều chung một gốc, sau đó mới phân tách. Gai sinh dục bằng
nhau, dài 1,05-1,30 mm, phần cuối thon nhỏ dần.
Con cái dài 7,3 - 9,6 mm, đầu cong về mặt bụng. Âm hộ cách mút đuôi
2,65-3,04

mm.


Đuôi

hình

nón,

mút

đuôi



gai

nhọn,

dài

0,005

mm.

Trứng
hình ô van, kích thước 0,040 - 0,30 mm.
- Loài

Toxocara canis (werner 1782)
Loài Toxocara canis




loài giun tròn có kích thước khá

lớn,

màu vàng
nhạt, đầu hơi cong về phía bụng, miệng có 3 môi bao quanh, trên mỗi môi đều
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
6


răng

nhỏ,


thực

quản

hình

trụ,

đặc

biệt

giữa

thực

quản



ruột



đoạn
phình to tạo thành “dạ dày giả” của giun.
Con đực dài 50 - 90 mm, đầu có cánh dài, hẹp, hơi giống mũi giáo có 2
gai giao cấu bằng nhau dài 0,75 - 0,95 mm.
Con cái dài 90 - 170 mm, đuôi thẳng. Giun cái đẻ trứng. Lỗ sinh dục cái



khoảng 1/4

phía

trước

thân,

trứng

gần

như tròn,

đường kính 0,068-

0,075
mm, trên vỏ trứng có những nếp nhăn nhỏ mịn.
-
Loài

Toxascaris leonina (Linstow, 1902).
Loài Toxascaris

leonina

màu

vàng


nhạt,

đầu có

3

môi,

thực

quản

hình
trụ, không có đoạn phình to như loài Toxocara canis.
Giun đực dài 20 - 70 mm, 2 gai giao hợp dài gần bằng nhau, không có
bánh lái.
Giun cái dài 60

-

80

mm,

lỗ

sinh dục

cái ở


phía

trước

thân,

tử cung
chia làm 2 nhánh, trứng gần như tròn, vỏ trứng dày, bằng phẳng, nhẵn, đường
kính từ

0,075 - 0,085 mm
-
Loài

Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989).
Giun



kích

thước

lớn,

c
on

đực


dài

45-75

mm,

thực

quản

chiếm

3/4
chiều dài cơ thể. Đuôi giun đực thường cuộn tròn về phía trong, mang một gai
giao hợp rất dài (8,31- 11,1 mm).
Con cái dài

62

-75

mm,

thực

quản dài

42


-56,3

mm,

âm

hộ

nằm

về
phía sau của đoạn cuối thực quản. Trứng có hình cái thùng, có nắp ở hai đầu,
dài 0,083 - 0,93 mm và rộng 0,037- 0,40 mm.
-
Loài

Uncinaria stenocephala (Railiet,1884).
Giun có màu vàng nhạt, hai đầu hơi nhọn, túi miệng hình phễu, có các mảnh
kitin sắc,

mặt

trong của

túi

miệng có

2


đôi

răng

hình

bán

nguyệt

đối

xứng.
Thực quản dài 0,75 - 0,88mm.
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
7

Giun đực dài 6 - 11 mm, túi đuôi rất phát triển, 2 gai giao hợp dài bằng
nhau 0,65- 0,75 mm, đầu mút của gai rất nhọn, không có bánh lái.
Giun cái dài 9 - 16 mm, lỗ sinh dục ở vào 1/3 phía trước cơ thể. Trứng
hình bầu dục, có kích thước 0,078 -

0.083 x 0,052 - 0,059 mm.
- Loài

Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809)
Giun trưởng thành ký sinh ở thực quản, thành dạ dày, đôi khi còn thấy ở
động

mạch

chủ.

Giun



màu

đỏ,

miệng

hình

6


cạnh,

không



môi,

thực
quản hẹp, phần trước là cổ ngắn, ở gai cố có vòng thần kinh.
Con đực dài 30-54 mm, hai gai giao hợp không bằng nhau, đuôi xoắn,
có cánh đuôi, 4 đôi gai nhỏ phía trước hậu môn, một gai lớn trước huyệt
Con

cái

dài

54

-

80

mm,

âm

hộ


nằm

phía

trước

thân,

gần

cuối

thực
quản.

Trứng

rất

nhỏ,

hình

elíp

0,035

-

0,039


x

0,014

-

0,023mm,

trứng


chứa ấu trùng.
1.1.2.2.

Đặc

điểm

vòng

đời

sinh

học
-
Loài

Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859)

Giun trưởng thành sống ở

niêm

mạc

ruột

non

của

ký chủ, tập

chung
chủ yếu ở tá tràng, không tràng và kết tràng. Giun cái mỗi ngày đẻ ra 10.000 -
15.000

trứng.

Trứng

mới

bài

xuất

ra


ngoài



từ

2-8

tế

bào

nhân,

ấu

trùng
phát

triển

thành

ẩu

trùng

cảm

nhiễm


nếu

gặp

điều

kiện

thuận

lợi.

Ấu

trùng
không phát triển tới giai đoạn cảm nhiễm ở nhiệt độ dưới 17

0
c. Ấu trùng giun
móc phát triển qua 3 giai đoạn để trở thành ấu trùng cảm nhiễm. Foster Cont
(1935)

đã

nghiên cứu thấy

nếu




điều kiện

nhiệt

độ

từ 20

-30
0

C



độ

ẩm
thích

hợp,

PH trung tính,

trứng sẽ

nở

thành ấu trùng sau 24-


48

giờ



trở
thành ấu trùng cảm nhiễm sau

6 - 7 ngày. Ấu trùng gây nhiễm dài 0,59 - 0,69
mm, có màng bọc bên ngoài và chứa 30 - 34 tế bào ruột.

Ấu trùng có hướng
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
8

động đặc biệt là luôn tìm đến vị trí cao và nơi ẩm ướt, nhiệt độ thích hợp và
hướng đến vật chủ gần chúng.
Ấu trùng tuy cần độ ẩm nhưng không phát triển trong nước mặn, khi bị
khô, ấu trùng sẽ chết nhanh trong 24 giờ. Do vậy việc lan truyền bệnh bị hạn
chế trong mùa khô. Theo Swensson (1925), khi nhiệt độ của đất tăng lên, ấu
trùng di chuyển tới chỗ lồi lõm của đất và tụ lại từng đám ở những chỗ râm
mát và có độ ẩm thích hợp. Từ chỗ ban đầu, ấu trùng di chuyển trong phạm vi
10-20 cm. Trong khi di chuyển, ấu trùng có khuynh hướng leo lên cao, có thể
tới 2 m. Ấu trùng ít chui xuống đất, nhưng nếu ở đất cát, ấu trùng có thể chui
xuống sâu 1

m,

đất

mùn

chui

xuống sâu

30cm,

đất

sét

chui sâu 15

cm.


Nói
chung, từ điểm di chuyển ban đầu, ấu trùng thường di chuyển ở bề

mặt của
đất. Thời gian sống của ấu trùng thay đổi tuỳ thuộc điều kiện của môi trường,
ấu trùng có thể tồn tại ngoài tự nhiên từ vài tuần tới 1 tháng. Nhưng nếu trong
điều kiện ẩm ướt, nhiệt độ từ 15-30
0
C ấu trùng có thể tồn tại được 18 tháng.
Theo

Đỗ

Dương

Thái

[23],

ấu

trùng

gây

nhiễm dài

0,59-0,69


mm có

màng
bọc bên ngoài và chứa 30-34 tế bào ruột, ấu trùng có hướng động đặc biệt là
tìm đến vật chủ gần chúng và đến vị trí cao nhất.
Sự phát triển tiếp theo của ấu trùng Ancylostoma caninum tiến hành trên
cơ thể ký chủ và cảm nhiễm vào ký chủ theo 2 con đường:
-

Qua

đường tiêu

hoá: ấu trùng được

ký chủ

nuốt

vào

đường tiêu

hoá
qua

thức

ăn,


nước

uống.

Vào

ruột,

ấu trùng

lột

xác



sau

một

thời

gian

di
hành thì phát triển thành giun trưởng thành.
- Qua da: ấu trùng cảm nhiễm xâm nhập qua da vào hệ thống tuần hoàn
đến tim, phổi, xuyên qua phế nang vào phế quản. Khi vật chủ ho, ấu trùng lên
hầu


và được

nuốt

xuống đường tiêu hoá,

từ đó

phát

triển thành

giun trưởng
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
9
thành và ký sinh ở ruột non. Thời gian phát triển đến giai đoạn trưởng


thành
từ 14-16 ngày. Giun trưởng thành có thể sống trong cơ thể ký chủ từ

43-
100 tuần.
Theo

Petrov

A.M



Skrjabin

K.I

(1979)[21],

cảm

nhiễm

ấu

trùng
Ancylostoma caninum ở chó con nặng hơn chó trưởng thành. Tuy nhiên, khi
ấu trùng chui qua da chó con ít gây phản ứng. Trong khi đó, ấu trùng chui qua
da chó trưởng thành gây phản ứng viêm rõ rệt, hiện tượng này được xác nhận:

ấu trùng bị chết và bị giữ lại ở da chó trưởng thành, tạo ra xung quanh nó sự
thâm nhiễm tế bào.
Trịnh Văn Thịnh (1963)[25] cho biết: ấu trùng giun móc khi chui qua da
làm cho con vật bị ngứa và viêm da, ấu trùng còn gây tổn thương ở phổi. Giun
trưởng thành hút nhiều máu, răng 6 móc được cấu tạo bằng chất kitin cắm sâu
vào

niêm

mạc

ruột

gây

tổn

thươmg

niêm

mạc,

đồng

thời

giun

còn


tiết

chất
kháng đông máu, giúp giun móc dễ hút máu. Độc tố và sản vật của giun làm
hồng cầu giảm, bạch cầu toan tính tăng.
-
Loài Ancylostoma braziliense (Faria, 1910)
Giun trưởng thành ký sinh ở ruột non, giun cái đẻ trứng, trứng theo phân
ra ngoài. Ở môi trường bên ngoài, sau 20 giờ tới một vài ngày, nếu gặp điều
kiện

thuận

lợi,

phôi

bào

trong

trứng

phát

triển

tới


dạng

ấu

trùng.

Ấu

trùng
thoát ra khỏi trứng, qua 2 lần lột xác thành ấu trùng cảm nhiễm và xâm nhập
vào ký chủ theo 2 con đường:
+

Qua

thức

ăn,

nước

uống

vào

đường

tiêu

hoá,


ấu trùng

chui

vào

thành
ruột, dạ dày. Ở đó vài ngày rồi về ruột non phát triển đến giai đoạn trưởng thành.
+ Qua da: ấu trùng gây nhiễm qua da ký chủ về hệ thống tuần hoàn, về
tim, lên phổi, qua phế bào đến khí quản rồi về ruột non phát triển tới giai đoạn
trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 14-20 ngày.
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
10
-
Loài Uncinaria stenocephala (Railiet,1884)

Các

loài

giun

tròn

thuộc

họ

Ancylostomatidae

đều

phát

triển

trực

tiếp.
Giun trưởng thành đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Trứng và ấu trùng có sức
đề kháng với ngoại cảnh. Cũng như Ancylostoma caninum, ấu trùng Uncinaria
stenocephala qua 3 lần lột xác phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng có
thể đi xa và có thể gây bệnh. Chó bị nhiễm qua 2 con đường:
+ Qua miệng: ấu trùng gây nhiễm theo thức ăn nước uống vào cơ thể gây
bệnh cho ký chủ. Fulleborn (1920-1927) thấy rằng: ấu trùng cảm nhiễm vào
ruột




chủ,

phát

triển



tầng

dưới

của

nhung

mao



trong

tuyến

nhày
Lieberkul,


sau

đó

chúng

quay

lại

nhung

mao

của

ruột

non.

Kolevatova

AL.
(1957)

đã chứng

minh bằng thực

nghiêm khi


gây nhiễm ấu trùng Uncinaria
stenocephala qua miệng, sau 24 giờ đã thấy có trong niêm mạc dạ dày và tá
tràng của

chó.

Sau thời

gian

ngắn ở

niêm

mạc,

những ấu trùng

này

lại chui
vào

ruột,

lột

xác


trở

thành

ấu

trùng

giai

đoạn

4



đạt

tới

giai

đoạn

trưởng
thành sau 13- 20 ngày.
+ Qua da: khi nghiên cứu cảm nhiễm qua da, Kolevatova A.L (1957) đã
xác định ấu trùng cảm nhiễm chui qua da chỉ sau 6 phút, sau 40 phút tất cả
đã chuyển vào hệ thống tuần hoàn của chó. Theo tác giả, khi nhiễm qua da,
con


đường

di

chuyển

bình

thường

theo

hệ

thống

tuần

hoàn

của

chó,

nhiều
nhất trong 2 ngày đầu. Sự phát triển của

Uncinaria stenocephala khi nhiễm
qua


da

lâu

hơn

nhiễm qua

miệng

từ 2-

4

ngày.

Thời

gian

hoàn

thành

vòng
đời 14- 20 ngày.
-
Loài


Toxocara canis (werner 1782)
Giun cái trưởng thành ký sinh ở dạ dày, ruột non, đẻ trứng. Trứng giun
được thải ra môi trường theo phân, gặp điều kiện ngoại cảnh thích hợp (nhiệt
độ, độ ẩm, ánh sáng), trứng phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
11
nằm trong vỏ trứng.

Khi xâm nhập vào đường tiêu hoá của chó qua thức ăn,
nước

uống.

Ấu

trùng


cảm

nhiễm

phá

vỡ

vỏ



chui

ra

bắt

đầu

quá

trình

di
hành trong cơ thể ký chủ. Ấu trùng xuyên qua niêm mạc ruột, vào máu, theo
hệ thống tuần hoàn đến gan, về tim, lên phổi vào khí quản, lên miệng rồi trở
lại ruột non, tiếp tục phát triển ở niêm mạc ruột non và trở thành giun trưởng
thành


gây bệnh

cho

chó.

Một

số

ấu

trùng

sau khi

vào

phổi tiếp

tục

theo

hệ
thống tuần hoàn về các tổ chức cư trú làm thành kén nhưng vẫn có khả năng
gây

nhiễm nếu các


đông

vật

cảm

nhiễm khác

ăn

phải.

Ấu trùng còn qua

hệ
tuần hoàn của chó mẹ khi có chửa và nhiễm vào bào thai. Ở bào thai ấu trùng
cư trú chủ yếu ở gan và phổi. Do vậy chó con sau khi được sinh ra đã mang
mầm bệnh, đến 14 ngày tuổi đã gây bệnh cho chó con và khi 30 ngày tuổi đã
thành

giun

trưởng

thành.

Thời

gian


hoàn

thành

vòng

đời

từ

26-28

ngày
(Skrjabin và cs, 1973) [20].
-
Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902)
Giun cái trưởng thành ký sinh ở ruột non của chó, đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thích hợp sẽ phát triển
thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn nằm trong trứng. Khi chó nuốt phải
ấu trùng vào ruột, ấu trùng phá vỡ vỏ chui vào niêm mạc ruột, qua tĩnh mạch
cửa

rồi

vào

gan,

đi


qua

tâm

nhĩ

phải,

xuống

tâm

thất

phải,

qua

động

mạch
phổi vào phổi, vào phế nang, lên yết hầu, xuống thực quản rồi trở về ruột non.
Ở đây tiếp tục phát triển qua 3 lần lột xác nữa để trở thành giun trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời từ 55-72 ngày (Skrjabin và cs, 1963) [20].
-
Loài

Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989)
Giun cái đẻ trứng trong ruột già ký chủ, trứng của Trichocephalus vulpis

theo

phân ra

ngoài



giai đoạn tiền phân,

trong điều kiện thuận

lợi

về

ngoại
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái


Nguyên
12
cảnh như nhiệt độ và độ ẩm, ấu trùng phát triển trong trứng, sau 25

-26 ngày
trở thành trứng có khả năng cảm nhiễm. Chó ăn phải trứng cảm nhiễm cùng với
thức ăn và nước uống, ấu trùng nở ra sẽ chui sâu vào niêm mạc ruột già và tiếp
tục phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian phát triển của Trichocephalus
vulpis

đến

giai

đoạn

trưởng

thành

trong



thể

chó

khoảng


30

-

107

ngày
(Skrjabin và cs, 1963) [20].
-
Loài Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809)
Giun trưởng thành ký sinh trong các

u, kén ở

dạ dày và

thực

quản của
chó,

đẻ

trứng,

trong




ấu

trùng.

Trứng

giun

theo

các

lỗ





kén,

đi

vào
xoang thực quản

hoặc dạ

dày, theo

phân ra


môi

trường bên

ngoài, được

vật
chủ trung gian là bọ hung ăn vào. Trong đường tiêu hoá của bọ hung, ấu trùng
nở ra khỏi trứng, vào xoang đại thể và biến đổi thành ấu trùng kỳ II. Ấu trùng
tiếp tục phát triển thành ấu trùng kỳ III có khả năng gây nhiễm.


chủ

dự

trữ

ăn

phải



chủ

trung

gian,


ấu

trùng

kỳ

III

được

giải
phóng, ấu trùng sẽ tạo thành kén ở một vài cơ quan tổ chức. Khi chó ăn phải
ký chủ dự trữ, ấu trùng được giải phóng khỏi đường tiêu hoá của ký chủ

dự
trữ,

chúng

xuyên

qua

thành

dạ

dày,


di

hành

trong

hệ

tuần

hoàn,

đến

động
mạch

chủ,



đó

khoảng

3

tuần.

Sau


10-12

tuần,

ấu

trùng

di

hành

đến

thực
quản,

tạo

thành

kén



phát

triển


đến

dạng

trưởng

thành.

Thời

gian

hoàn
thành vòng đời từ 5 - 6 tháng.
1.1.3.

Đặc

điểm

dịch

tễ

bệnh

giun

tròn


đƣờng

tiêu

hoá

của

chó
Nghiên cứu dịch tễ

học

cho

ta



sở

phòng trị

bệnh

ký sinh

trùng có
hiệu quả. Sự phát triển của ký sinh trùng phụ thuộc vào


nhiều yếu tố khác
nhau.



nước

ta

việc

điều

tra

dịch

tễ

bệnh

do

giun

tròn

gây

ra




chó

đã
được

các

tác

giả

như

Đỗ

Dương

Thái,

Trịnh

Văn

Thịnh

(1963),


Đỗ

Hài
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
13
(1972),

Phạm Sĩ Lăng (1985), Phạm Văn Khuê (1993), Phan Lục, Đào

Hữu
Thanh, Đoàn văn Phúc, Ngô Huyền Thuý (1996) đề cập đến.
1.1.3.1.

Động

vật


cảm

nhiễm
Chó và

hầu hết các loài thú ăn thịt

họ chó (Canidae) đều nhiễm một số
loài

giun

tròn

(Nematoda)

như:

giun

đũa

(Toxocara

canis,

Toxascaris
leonina), giun móc (Ancylostoma caninum, Uncinaria stenocephala), giun tóc
Trichocephalus vulpis.

Theo Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), chó ở Việt
Nam nhiễm 16 loài giun tròn.
Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước đều thấy rằng: chó cũng như thú
ăn thịt khác bị nhiễm giun nặng ở giai đoạn còn non và nhẹ hơn ở giai đoạn
trưởng

thành

(Trịnh

Văn

Thịnh,

1963)[25], Đoàn

Văn

Phúc,

Phạm

Văn
Khuê, 1993[6].
1.1.3.2.

Tuổi

cảm


nhiễm
Qua

nghiên

cứu

của

nhiều

tác

giả,

hầu

hết

các

tài

liệu

cho

thấy:

chó

nhiễm giun đũa chủ yếu ở giai đoạn tuổi còn non chiếm 60%, và nhiễm nặng
hơn chó trưởng thành. Petrov A.M (1963) cho biết: chó con 80-90 ngày tuổi
mới

thấy

nhiễm

giun

đũa

Toxascaris

leonina,

chó

2

tháng

tuổi

nhiễm

nặng
giun

đũa


Toxocara

canis.

Thậm

chí

chó

15-21

ngày

tuổi

đã

thấy

nhiễm
Toxocara canis do vòng đời phát triển của loại này qua bào thai.
William và Menning (1978) điều tra sự nhiễm

Toxocara canis ở các lứa
tuổi

khác


nhau

của

chó,

tác

giả

cho

biết:

chó

dưới

1

năm

tuổi

tỷ

lệ

nhiễm
45%, trên 1 năm tuổi (20%).

Chó con nhiễm giun nặng (đáng chó ý là giun đũa, giun móc) vì cơ thể
chó non sức đề kháng yếu với mầm bệnh, dễ mẫn cảm với các loài giun. Mặt
khác

một số

loài (giun đũa,

móc) truyền cho chó

non ngay từ khi còn trong
Số

hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
14
bụng mẹ (qua bào thai). Foster và Cross (1954) quan sát thấy rằng, ấu trùng
giun móc theo máu vào bào thai và cư trú ở phổi bào thai, sau khi chó con ra
đời, ấu trùng bắt đầu hoạt động và quay về đường tiêu hoá và phát triển thành

giun trưởng thành. Do vậy, chó con chưa đầy 1 tháng tuổi đã nhiễm giun móc,
giun

đũa.

Chó

trưởng

thành

nhiễm

ít

hơn,

do



sức

đề

kháng

với




sinh
trùng.

Mặt

khác,

tuổi

thọ

của



sinh

trùng



hạn.

Kolevatova

(1959)

cho
biết:


nếu chó



miễn dịch

với

giun

móc

thì





khả

năng

tống

phần

lớn
giun này ra khỏi cơ thể.
Skrjabin




Petrov

(1977)[20]

cho

biết:



chó

lớn,

bệnh

do

Toxocara
canis ít thấy hơn so

với chó

non, điều đó

nói


lên rằng: chó trưởng thành có
sức đề kháng (miễn dịch)

đối với bệnh do Toxocara canis.
Theo Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989) [16], kết
quả kiểm tra 96 chó con từ 1-3 tháng tuổi tại Hà Nội, tẩy giun cho chó bằng
thuốc

Piperazin



Levamisol,

kết

hợp

kiểm

tra

phân,

cho

biết:

82


chó
nhiễm

giun

Toxascaris

leonina,

tỷ lệ

85,41%,

tác

giả

cho

biết,

chó

con

bị
nhiễm Toxascaris leonina với tỷ lệ rất cao và thường bị bệnh nặng hơn chó
trưởng thành
Theo Petrov A.M (1963), chó con


80 - 90 ngày tuổi, kiểm tra phân mới
bắt đầu thấy trứng của Toxascaris leonia, bệnh thường xảy ra nhiều từ tháng
thứ 7 - 8. Chó trưởng thành 2- 3 tuổi ít thấy nhiễm và 4 tuổi trở lên thì chỉ gặp
trong những trường hợp đặc biệt.
Phạm Văn Khuê và cs, (1993)[6] cho biết: chó con từ 1-3 tháng tuổi đã
thấy nhiễm 5 loài giun, một số loài như: giun đũa, giun móc tỷ lệ nhiễm cao,
Toxocara

canis

57,1%,

chó

7-12

tháng

tuổi

tỷ

lệ

nhiễm

Toxocara

canis
(14,8%),


chó

trên

12

tháng

tuổi

không

nhiễm

loại

này.

Tỷ

lệ

nhiễm
Số

hóa

bởi Trung


tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên
15
Ancylostoma caninum là 68,8%, Uncinaria stenocephala (80%). Đó là những
nguyên nhân gây cho chó rối loạn tiêu hoá, còi cọc, chậm lớn
Ngược lại, một số loài giun tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi chó như giun
thực

quản

(Spirocerca

lupi,

giun

tóc

Trichocerphalus

vulpis)

Phạm Sĩ


Lăng
(1985)[10].
Skrjabin



Petrov

(1963)

cho

thấy:

chó

mắc

bệnh

sớm

nhất

vào

tuần
tuổi thứ năm, chó trưởng thành mắc bệnh nhẹ hơn chó non. Chó trưởng thành
được


nuôi

dưỡng

tốt,



sức

đề

kháng

cao

với

giun

đũa

Toxocara

canis.
Người ta đã làm thực nghiệm gây nhiễm 15.000 trứng giun có sức gây bệnh
cho

3


chó

hai

năm

tuổi,

cả

ba

chó

đều

không

bị

bệnh

khi

nuôi

dưỡng

tốt.

Nhưng chó bị mắc bệnh ngay sau khi giảm tiêu chuẩn vitamin

A trong thức
ăn. Chó và các loài thú ăn thịt trưởng thành khác ít bị nhiễm Toxocara canis,
điều này chứng tỏ rằng: chó trưởng thành có sức đề kháng với bệnh và được
duy trì khi được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt.
Phạm Sĩ Lăng(1985)[10] cho biết: chó Nhật, Becger, Tây Ban Nha, Fok
từ 1-3 tháng tuổi

nhiễm giun

móc 62,1%;

3-6 tháng tuổi (90,7%),

Toxocara
canis



14,6%,

Toxascaris

leonina



85,4%.


Tỷ

lệ

nhiễm của

chó

con

còn
phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng chăm sóc, điều kiện môi trường bị ô nhiễm,
mất vệ sinh, ẩm thấp thì tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó

cao, có thể từ 30 - 60 %.
Qua

kết

quả

nghiên

cứu

thực

tế

của


các

tác

giả,

tỷ

lệ

nhiễm

giun

tròn
đường tiêu hoá qua các lứa tuổi ở chó

khác nhau.
1.1.3.3.

Mùa

vụ
Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989)[16] cho biết: chó
con từ 1-3 tháng tuổi bị nhiễm bệnh hầu hết các tháng trong năm. Chó con,
ngoài con đường lây nhiễm trực tiếp (do ăn phải trứng giun cảm nhiễm), còn
bị lây nhiễm ấu trùng từ lúc còn trong bào thai thông qua máu của con mẹ.
Số


hóa

bởi Trung

tâm Học liệu



Đại

học Thái

Nguyên

×