Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Thành phần hóa học của tinh dầu Riềng một lá potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.94 KB, 5 trang )

Thành phần hóa học của tinh dầu Riềng một lá (Elettariopsis unifolia (Gagnep.)
M.F. Newman) thu tại huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Cập nhật ngày 8/9/2010 lúc 3:48:00 PM. Số lượt đọc: 747.
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa nên hệ thực vật rất đa dạng và phong phú,
trong đó nhóm cây thuốc và cây tinh dầu ngày càng được khẳng định là rất dồi dào và
độc đáo. Trải qua nhiều năm điều tra nghiên cứu, tính đến nay ở nước ta đã có hơn 3.800
loài cây thuốc và hơn 600 loài cây tinh dầu.
Họ Gừng (Zingiberaceae) trên thế giới có hơn 1.200 loài và 53 chi, có nguồn gốc ở vùng
nhiệt đới Châu Á, còn ở Việt Nam có 131 loài thuộc 18 chi. Họ Gừng là thành phần quan
trọng trong nhiều hệ sinh thái rừng nhiệt đới và cũng đóng một vai trò quan trọng trong
nhóm cây tầng dưới tán. Từ nhiều thế kỷ nay, nhiều loài cây họ Gừng đã và đang được
khai thác, sử dụng để làm thực phẩm (gia vị, mứt, kẹo…), dược liệu, hương liệu, mỹ
phẩm, phẩm màu thực phẩm v.v…
Trong họ Gừng, các nhà khoa học chủ yếu tập trung nghiên cứu các chi Gừng (Zingiber),
chi Nghệ (Curcuma), chi Riềng (Alpinia), chi Sa nhân (Amomum). Còn một số chi khác,
trong đó có chi Tiểu đậu (Elettariopsis) ít được quan tâm nghiên cứu. Theo “Danh lục các
loài thực vật Việt Nam”, chi Tiểu đậu có 2 loài, trong đó thành phần hoá học của tinh dầu
Riềng một lá (Elettariopsis unifolia (Gagnep.) M. F. Newman) cho tới nay chưa thấy
công bố trong tài liệu nào. Trong đợt điều tra khảo sát tại xã Tân Tri, huyện Bắc Sơn, tỉnh
Lạng Sơn, chúng tôi đã gặp cây Riềng một lá mọc hoang dưới tán rừng Hồi. Lá và thân rễ
đều có mùi thơm. Vì vậy, chúng tôi đã thu mẫu và xác định hàm lượng tinh dầu, cũng
như thành phần hoá học của nó. Trên cơ sở này, có thể tìm được những công dụng mới
của cây Riềng một lá. Dưới đây là kết quả nghiên cứu bước đầu của chúng tôi.
Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cây Riềng một lá, được thu vào tháng 9 năm 2006 tại xã Tân Tri,
huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Hàm lượng tinh dầu được xác định bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn theo hơi nước
có hồi lưu.
Định tính và định lượng thành phần tinh dầu bằng phương pháp sắc ký khí - khối phổ liên
hợp (GC/MS) trên máy HP 6890 ghép nối với detectơ Agilent 5973N. Cột phân tích HP5-
MS, kích thước 0,25µm x 30m x 0,32mm. Chương trình nhiệt độ 60oC (4o/phút) sau đó


tăng tới 180oC (30o/phút), 240oC, 260oC. Khí mang He 99,99%. Detector khối phổ MS.
Nhiệt độ Detector và buồng bơm mẫu 250oC. Pha loãng mẫu 3-5% trong n-Hexan. Chia
dòng 100:1.
Các chất được nhận biết bằng khối phổ (MS) so sánh với thư viện phổ: Database/Wiley
275.L và Database/Nist 98.1. Phân tích mẫu được thực hiện tại Viện Hóa các hợp chất
thiên nhiên (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam).
Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm thực vật
Cây thảo, cao 30-35cm, thân rễ mảnh, nằm ngang, được bao phủ bởi các vảy màu nâu
nhạt, dài 1,8-2,5cm, hình lòng thuyền, mỏng, đoạn thân rễ nối giữa các cây với nhau dài
8-10cm. Cây gần như không thân, thường chỉ có 1 lá, ít khi 2 lá. Lá có phiến hình xoan
đến xoan hẹp, gốc nhọn, đầu nhọn có mũi nhọn ngắn, dài rộng 13-15,5 x 4-7cm, 2 mặt
không lông; cuống lá mảnh, dài 7-9cm, không lông; lưỡi lá rất nhỏ, ngắn; bẹ lá tiếp nối
phần cuống lá, mảnh, không lông, dọc 2 mép bẹ là 2 dải hẹp, mỏng, dạng màng. Cụm quả
mọc từ gốc, quả hình trứng rộng, dài rộng 1,6 x 1,4cm; hạt hình tam giác, 13-15 hạt, dài
rộng dày 5-6 x 3-4 x 2-2,5mm.
So sánh với các đặc điểm của các loài trong họ Gừng (Zingiberaceae) chúng tôi xác định,
đây là loài Elettariopsis unifolia (Gagnep.) M.F. Newman (Syn.: Amomum unifolium
Gagnep.).
Thành phần hoá học
Tinh dầu của cây Riềng một lá là chất lỏng, sánh, nhẹ hơn nước, có màu vàng sẫm, có
mùi thơm giống như mùi Riềng nếp. Hàm lượng tinh dầu trong cả cây Riềng một lá (lá và
thân rễ) đạt 0,13% đối với trọng lượng mẫu tươi và 0,58% so với trọng lượng mẫu khô
tuyệt đối.
Bằng phương pháp sắc ký khí khối phổ liên hợp (GC/MS) đã tiến hành định tính và định
lượng các cấu tử trong tinh dầu Riềng một lá. Kết quả phân tích được trình bày tại bảng
1.
Bảng 1. Thành phần hoá học của tinh dầu Riềng một lá thu tại Bắc Sơn, Lạng Sơn
STT Hợp chất Thời gian lưu
(phút)

Hàm lượng
(%)
1 α- Pinen 5,35 0,65
2 Camphen 5,72 2,17
3 β- Pinen 6,46 3,70
4 P-Cymen 7,87 0,27
5 Limonen 7,99 0,58
6 1,8- Cineol 8,08 1,04
7 Linalool oxid 9,41 2,33
8 Cis- Linalool oxid 9,93 1,56
9 Linalool 10,33 9,85
10 Fenchol 10,74 0,28
11 Camphor 11,75 4,08
12 Exo-methyl-camphenilol 11,89 0,23
13 Bicyclo[2.2.1] heptan-2-
ol
12,19 0,95
14 Pinocarvon 12,39 0,20
15 Borneol 12,50 1,86
16 Terpinen-4-ol 12,90 0,18
17 Crypton 13,21 1,27
18 α-Terpineol 13,38 1,04
19 Myrtenol 13,56 0,69
20 Fenchyl acetat 14,35 3.86
21 Neral 15,09 2,78
22 Geraniol 15,36 29,68
23 Citral 16,11 4,38
24 Bornyl acetat 16,58 3,09
25 α-Terpinen 18,69 0,48
26 Geranyl acetat 19,87 7,94

27 Tricyclo [2.2.1.0(2,6)]
heptan
20,95 0,78
28 Trans-Cinnamyl acetat 21,84 0,36
29 Alloaromadendren 22,22 0,13
30 β- Panasinsen 22,67 1,37
31 Caryophyllen 22,97 0,38
32 Tricyclo [4.1.0.0(3,5)]
heptan
23,25 1,33
33 Germacren 23,92 0,16
34 Caryophyllen oxid 26,04 1,72
35 α-Gurjunen 27,60 0,27
36 Leden 28,37 0,92
TS 92,56

Kết quả phân tích cho thấy, thành phần hoá học của tinh dầu Riềng một lá rất phức tạp,
sắc ký đồ của tinh dầu Riềng một lá gồm 60 píc, trong đó đã nhận biết được 36 hợp chất
đạt 92,56%. Các số liệu ở bảng 1 cho thấy, thành phần hoá học của tinh dầu Riềng một lá
ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) chủ yếu là các monoterpen với các chất chính là: geraniol
(29,68%), linalool (9,85%) và geranyl acetat (7,94%). Ngoài ra, còn có các hợp chất khác
như: citral (4,38%), camphor (4,08%), fenchyl acetat (3,86%), β-pinen (3,70%), bornyl
acetat (3,09%), neral (2,78%), linalool oxid (2,33%), camphen (2,17%), v.v…
Kết luận
Lần đầu tiên ở Việt Nam tinh dầu của cây Riềng một lá ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) đã được
nghiên cứu, bước đầu chúng tôi có một số kết luận sau:
1. Bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn theo hơi nước đã xác định hàm lượng tinh dầu
trong cây Riềng một lá (lá và thân rễ) ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) là 0,13% đối với trọng
lượng mẫu tươi và 0,58% so với trọng lượng mẫu khô tuyệt đối.
2. Bằng phương pháp sắc ký khí khối phổ liên hợp (GC/MS) đã định tính và định lượng

được 36/60 hợp chất của tinh dầu Riềng một lá ở Bắc Sơn (Lạng Sơn), đạt 92,56%.
3. Thành phần hoá học của tinh dầu cây Riềng một lá ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) chủ yếu là
các monoterpen với các chất chính là: geraniol (29,68%), linalool (9,85%) và geranyl
acetat (7,94%).
4. Để chứng minh các công dụng của Riềng một lá đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu thêm
về hoạt tinh kháng khuẩn, thử dược lý, v.v… của tinh dầu.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tiến Bân (Chủ biên), 2005: Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập III:
487-508. NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Dược điển Việt Nam, 2002: Định lượng tinh dầu trong dược liệu, 3: 141. NXB. Y
học, Hà Nội.
3. Gagnepain, 1908: Zingiberaceae. Flore Générale de L’Indochine, Tom. VI(1): 109-
110.
4. Newman M.F., 1997: Edinburgh Journal of Botany, 54(1): 110-111.
Nguyễn Thị Phương Thảo, Trương Anh Thư, Bùi Văn Thanh
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Nguyễn Quốc Bình
Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam
Ninh Khắc Bản
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 3, 22/10/2009 -
Viên ST&TNSV - Viện KH&CN Việt Nam
/>

×