Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Marie Curie docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.25 KB, 20 trang )

Marie Curie


Marie Curie là một trong các nhà bác học tiền phong nghiên cứu về chất phóng xạ.
Các thành tích của bà rất lớn lao, đã ảnh hưởng tới các nhà vật lý nguyên tử sau
này và đã được xác nhận bằng hai Giải Thưởng Nobel lừng danh. Việc khám phá
ra neutron của Sir James Chadwick và tính phóng xạ nhân tạo của Irène và
Fréderic Jolio Curie đều bắt nguồn từ các cơng trình khảo cứu của bà Curie.

1/ Thuở thiếu thời.
Ngày 7 tháng 11 năm 1867 tại Cracovie, một thị trấn nhỏ gần thủ đô Varsovie
nước Ba Lan, vợ chồng giáo sư khoa học Wladislaw Sklodowski đã cho chào đời
cô gái út đặt tên là Marya Sklodowski. Từ khi có mặt cơ bé này, gia đình
Sklodowski đã khơng gặp may mắn và bà mẹ lại mắc chứng bệnh nan y: bệnh ho
lao, vì vậy, tuy yêu thương các con, bà Sklowdowski khơng bao giờ dám ơm hơn
chúng. Do thiếu tình thương của mẹ, cơ bé Marya thường quấn qt bên người chị
cả là Zosia để nghe các câu chuyện cổ tích. Ngồi ra, Marya cịn ưa thích đứng
ngắm cái tủ đựng các dụng cụ khoa học của cha cô trong đó có bày nhiều thứ: nào
các ống nghiệm, phong vũ biểu, cân tiểu li, những cục đá địa chất…

Cuộc sống gia đình của Marya đã ít vui vẻ, tình hình quốc gia cũng chẳng sáng
sủa hơn. Vào khoảng năm 1872, khi Marya lên 5 tuổi, nước Ba Lan của cô bị sâu
xé bởi ba đế quốc: Nga, Đức và Ao. Miền quê hương của cô thuộc khu vực ảnh
hưởng của Sa Hoàng. Sau cuộc cách mạng nhân dân thất bại năm 1831, vua
Nicolas nước Ba Lan, dưới sự giật dây của nước Nga, đã thẳng tay đàn áp các


phần tử cách mạng ái quốc: cầm tù, đầy ải, tịch biên gia sản… Ngồi ra, chính
quyền cịn cố tình áp dụng một đường lối giáo dục rất vô nhân đạo: chính sách ngu
dân. Thời bấy giờ, khoa học và triết học bắt đầu phát triển rất mạnh tại châu Âu,
vậy mà các tư tưởng của Auguste Comte, Darwin, những phát minh của Pasteur,


Faraday… không thể lọt nổi vào nước Ba Lan.

Trong hồn cảnh đó, cơ bé Marya đã cắp sách đi học. Mới trơng bề ngồi, cơ bé
khơng có vẻ gì là thơng minh, xuất chúng mà trái lại, với khuôn mặt hơi dài, với
đôi mắt nâu mơ màng, cơ bé cịn tỏ lộ vẻ hơi đần. Tuy nhiên cô bé Marya nổi tiếng
học giỏi từ thuở nhỏ. Luôn luôn kém các bạn từ 2 tới 3 tuổi mà với môn học nào
cô cũng đứng đầu lớp : từ các mơn học chính như tốn học, lịch sử, văn chương
đến những môn phụ như tiếng Pháp, tiếng Đức và cả Thánh Kinh nữa.
Năm Marya lên 10 tuổi, người chị thân yêu và cũng là người bạn tâm sự của cơ,
chị Zosia, đã bị thiệt mạng vì mắc phải một bệnh truyền nhiễm do các bạn cùng
lớp mang tới: bệnh chấy rận. Rồi ít lâu sau, bà mẹ sau nhiều năm bị vi trùng lao
phổi tàn phá, đã từ giã cõi đời, để lại cho người chồng gánh nặng nuôi dạy 4 đứa
con thơ: một trai Joseph và 3 gái Hela, Bronia và Marya, tất cả trong tuổi đi học.
Năm 1883, Marya với tuổi 16, đã học xong ban trung học và tốt nghiệp ra với lời
khen thưởng của hội đồng giám khảo. Lúc đó anh Joseph đang theo học tại trường
Đại học Y khoa, chị Bronia cũng học xong ban trung học và muốn trở thành bác sĩ


nhưng vào thời đó, trường Y khoa khơng nhận vơ các nữ sinh viên, vì vậy chị phải
xin đi dạy học.
Năm 1884, chị Bronia sang Pháp theo học tại Đại học Paris. Sở dĩ chị Bronia
chọn nước Pháp một phần vì Đại học Sorbonne là một trường có nhiều vị giáo sư
danh tiếng mà phần lớn cũng vì nước Pháp là một nước Tự Do, điều mong ước của
tất cả sinh viên thế giới thời bấy giờ cũng như đối với mọi thời đại. Ở Pháp, mọi ý
kiến dị biệt đều được tiếp nhận, đây quả là điều kiện tất yếu của mọi công việc tiến
bộ về Khoa Học và Nghệ Thuật. Trong khi chị Bronia theo hoc để trở thành bác sĩ
thú y tại Paris thì ở Ba Lan, Marya xin được một chân giáo sư tại một vùng quê
hẻo lánh.

2/ Thời kỳ du học.

Nghề gõ đầu trẻ không phải là nghề mà Marya ưa thích. Sau 6 năm trời kéo dài
cuộc sống khô khan ấy, đến năm 1891, Marya quyết định viết thư cho chị Bronia,
xin chị giúp đỡ nàng sang Pháp du học. Vào ngày lên đường, Marya đã ngập
ngừng nói với cha: "Cha ơi, con sẽ không đi lâu, chừng hai hay ba năm học xong,
con sẽ trở về sống bên cha mãi mãi". Nhưng Marya đã không giữ được lời hứa
chân thành này. Một nhà bác học, một người chồng, một người bạn tri kỷ đã giữ
nàng lại đất Pháp, người đó là Pierre Curie.


Khi sống tại Pháp, muốn cho tên mình dễ đọc, Marya đã "phiên âm" tên nàng
sang tiếng Pháp thành Marie: Marie Sklodowski. Marie không theo hoc Y khoa,
Nha khoa hay Dược khoa là những mơn học ưa thích của phụ nữ thời đó. Khơng
hiểu nghĩ sao, nàng lại chọn mơn Khoa Học thuần túy. Trong buổi ban đầu gặp
khó khăn về ngôn ngữ, Marie đã được sự hướng dẫn của một giáo sư trẻ tuổi, có
tài: Giáo Sư Paul Appell. Ngồi ra, nàng cịn được học hỏi với các Giáo Sư
Gabriel Lippmann và Edmond Bouty. Nàng cũng gặp gỡ các nhà vật lý lừng danh
thời bấy giờ như Jean Perrin, Charles Maurain và Aimé Cotton…

Cuộc sống của một du học sinh thật là vất vả, với một nỗi khó khăn đã ngăn trở
sự học, đó là vấn đề tiền bạc: tiền ăn, tiền học, tiền mua sắm, tiền xe buýt ngày hai
buổi đi học. Mùa đông tại Paris, trời lạnh như cắt da nhưng nàng Marie can đảm
này đã dấn thân vào việc học và Trời đã không phụ công của người có chí: sau ba
năm học tập, nàng đã đỗ đầu trong kỳ thi ra trường và được cấp văn bằng Cử Nhân
Khoa Học năm 1893 và năm sau, đậu thứ nhì trong kỳ thi lấy văn bằng Cử Nhân
Toán. Học xong, nàng Marie đã định quay về nước nhưng do sự hiểu biết hoàn
toàn thuộc về phạm vi lý thuyết, nàng muốn phục vụ Tổ Quốc không phải chỉ với
chức vụ Giáo Sư mà bằng tài năng của một kỹ sư, nàng Marie muốn giúp đỡ đồng
bào bằng những cơng trình thực tế hơn.
Năm 1893, do sự giới thiệu của bà Dydynska cũng là người Ba Lan, nàng Marie
xin được học bổng Alexandrowitch để học về ngành luyện sắt và thép. Nàng được

giới thiệụ với một vị Giáo Sư trẻ tuổi, đang khảo cứu về hiện tượng từ tính của các


chất gang thép: Giáo Sư Pierre Curie. Pierre Curie sinh ngày 19/4/1859 tại Paris,
là con thứ hai của Bác Sĩ Eugène Curie. Năm 16 tuổi, Pierre đã đậu bằng trung học
và năm 18 tuổi lại đậu Cử Nhân Khoa Học, rồi được chấp nhận làm Giảng
Nghiệm Viên tại Trường Đại Học Paris vào năm 1878. Khi tốt nghiệp đại học ra,
ông Pierre Curie đã cùng với người anh là Jacques vùi đầu vào các cơng cuộc thí
nghiệm: họ nghiên cứu tính áp điện (piezoelectricity) của các tinh thể, đặc biệt là
của tinh thể thạch anh (quartz).

Năm 1883, anh Jacques được bổ nhiệm làm Giáo Sư tại trường Đại Học
Montpellier và Pierre làm giảng nghiệm trưởng của Trường Lý Hóa (Ecole de
Physique et de Chimie). Năm 1895, Pierre Curie đậu bằng Tiến Sĩ Khoa Học rồi
vào mùa xuân năm 1894, trong thời gian nghiên cứu về hiện tượng điện từ của các
chất gang thép, Pierre Curie đã gặp Marie Sklodowski đến học hỏi thêm kinh
nghiệm. Khi mới gặp nàng Cử Nhân Khoa Học và Toán Học của trường Đại Học
Sorbonne, Pierre đã thấy có cảm tình và kính trọng người thiếu nữ tài ba này. Lúc
đó Pierre đã 35 tuổi, chàng vẫn sống độc thân vì cịn mải mê nghiên cứu. Sau vài
lần gặp mặt và thảo luận với Marie về Khoa Học, chàng thấy ngay ở nàng hình
bóng của người vợ lý tưởng. Đối với Marie, sau khi mối tình đầu tại Ba Lan tan
vỡ, nàng muốn xóa bỏ chuyện u thương. Nàng thấy Pierre rất xứng đáng nhưng
vì cịn nhớ đến cha già, đến lời thề sẽ học thật nhanh để quay về sống bên cha và
phục vụ cho Tổ Quốc Ba Lan, nàng rời Paris. Khi tiễn nàng Marie về nước, Pierre


đã nói như van xin: "Cơ là người có tài. Cô nên trở lại nước Pháp để nghiên cứu
Khoa Học.Cô khơng có quyền bỏ rơi Khoa Học".
Marie Sklodowski là kỹ sư đầu tiên của nước Ba Lan nhưng vào thời bấy giờ,
người ta không tin tưởng lắm vào tài năng của phụ nữ nên nàng đã không được

trọng dụng. Quá chán nản, ở quê nhà chưa đầy một năm, Marie quyết định trở lại
nước Pháp, nàng đã không thể bỏ rơi Khoa Học, xa cách Pierre. 10 tháng sau,
Marie nhận lời thành hôn với Pierre. Hôn lễ cử hành rất đơn giản vào ngày
25/7/1895: ngoài những người thân trong gia đình như Bác Sĩ Eugène là thân phụ
của Pierre, Giáo Sư Sklodowski là thân phụ của Marie, vợ chồng chị Bronia, anh
Jacques, họ chỉ mời vài người bạn thân thiết. Tại gia đình mới này, chỉ có Pierre
kiếm ra tiền mà số tiền kiếm ra cũng khơng nhiều, cịn Marie vẫn chưa xin được
việc làm, Marie chỉ là một sinh viên học giỏi, một nhà khoa học tài ba. Sau hai văn
bằng Cử Nhân, nàng Marie lại đậu thêm văn bằng Thạc Sĩ Khoa Học rồi tiếp tục
nghiên cứu về hiện tượng từ tính của các chất gang thép. Vào tháng 7 năm 1897,
Marie sinh hạ được cô gái đầu lịng, đặt tên là Irène. Từ nay, gia đình Curie lại có
thêm nhu cầu mới. May thay, Pierre đã xin được cho vợ vào làm phụ tá trong
phịng thí nghiệm Vật Lý của mình và cũng từ nay, bắt đầu sự nghiệp của nhà nữ
bác học số một trên Thế Giới.


3/ Khảo Cứu Khoa Học.
Nhân được đọc các bài khảo cứu của nhà vật lý Henri Becquerel và sau khi đã hỏi
ý kiến của chồng, Marie Curie quyết tâm thám hiểm vào khu rừng vật lý hãy cịn
âm u, ít ai biết tới. Thời bấy giờ, người ta chỉ thấy được những chất lạ có đặc tính
là phát ra tia sáng song chưa ai biết được là có bao nhiêu chất như vậy và các chất
này cùng các tia của chúng khác nhau như thế nào. Các nhà vật lý đặt tên chung
cho các chất kể trên là "chất phóng xạ". Sau khi Roentgen tìm ra quang tuyến X,
nhà bác học Henri Becquerel đã nghĩ rằng tia phóng xạ có cùng nguồn gốc với
quang tuyến X. Rồi Henri Becquerel dựa vào ý tưởng trên và làm nhiều thí nghiệm
với các tia phóng xạ của chất Urane giống như các thí nghiệm đối với quang tuyến
X và đã nhận thấy rằng hai tia đó có cùng tính chất. Becquerel tự hỏi tại sao có sự
phóng xạ và các chất phóng xạ lấy năng lượng từ đâu, dù rằng năng lượng rất nhỏ,
để phân tích mà phát ra tia sáng. Cơng cuộc khảo cứu của Becquerel mới chỉ là
bước đầu. Sự hiểu biết về các định luật phóng xạ phải đợi hai thiên tài Pierre và

Marie Curie mới phát kiến ra được.
Mới nghiên cứu trong ít lâu, bà Marie Curie đã nhận thấy rằng khơng phải cả cục
Urane có tính phóng xạ mà cục đá đó chỉ chứa một phần rất nhỏ chất phóng xạ mà
thơi. Tuy hiểu rằng tỉ lệ chất phóng xạ trong Urane ít, nhưng bà Curie khơng biết
rõ nó là bao nhiêu. Bà cho rằng tỉ lệ đó vào khoảng một phần ngàn. Thật ra về sau,


khi người ta được biết chính xác thì tỉ lệ đó cịn nhỏ hơn thế nhiều: một phần triệu.
Nhưng cơng lao của ơng bà Curie chính là làm cho giới Khoa Học biết rằng có rất
nhiều chất phóng xạ khác nhau, dù rằng nhiều chất chỉ là biến thể của nhau và có
những chất khơng phóng xạ như chì, vàng… cũng là biến thể của các chất phóng
xạ. Y kiến này rất quan trọng vì nhờ đó mà người ta tìm ra được cách phá nhân
của nguyên tử và chế tạo ra bom nguyên tử sau này.
Khởi đầu, bà Curie tìm ra hai chất phóng xạ khác nhau, chất đầu tiên vào mùa hè
năm 1891 và được bà đặt tên là "Polonium" để tưởng nhớ nước Ba Lan thân yêu
của bà, chất thứ hai được gọi bằng tên "Radium", khám phá ra vài tháng sau đó.
Nhưng các cơng trình của ông bà Curie chưa được giới Khoa Học chấp nhận ngay.
Nhiều kẻ hồi nghi khơng cơng nhận có hai chất Polonium và Radium. Họ viện lý
rằng mỗi chất đều phải có các lý tính và hóa tính. Vậy thì ngun tử khối và phân
tử khối của Radium là bao nhiêu? Radium có ái lực với những chất nào? Muối của
nó là gì? Nó màu gì ? Độ chẩy là bao nhiêu? Nhiều câu hỏi đã làm bù đầu hai nhà
bác học trẻ tuổi. Muốn trả lời các nhà hóa học đa nghi, Pierre và Marie Curie phải
tìm ra Radium nguyên chất. Nguyên liệu có chứa Radium là chất pechblend.
Pechblend là một chất dùng trong kỹ nghệ làm thủy tinh. Chất này rất đắt tiền mà
lượng Radium ở trong lại không nhiều. Với số tiền lương eo hẹp, hai nhà bác học
làm sao có thể tiếp tục cơng cuộc nghiên cứu? May thay, có một kỹ nghệ gia thủy
tinh người Bỉ nghe danh ơng bà Curie, đã bằng lịng chở sang Pháp cho hai nhà
bác học hàng xe vận tải vụn pechblend mà nhà máy không dùng tới. Lại thêm một



điều may mắn nữa: ông Pierre xin được một căn nhà cũ của Trường Đại Học Khoa
Học, hai ông bà Curie liền chứa pechblend và đặt ln tại đây phịng thí nghiệm.
Trong 4 năm trời từ 1898 tới 1902, sau khi gạn lọc 8 tấn pechblend, hai nhà bác
học đã tìm ra được 1 gam Radium nguyên chất. Đây là gam Radium đầu tiên của
thế giới và trị giá của nó lên tới 750 ngàn quan tiền vàng. Radium quả là một chất
kim đắt giá nhất. Từ nay chất Radium đã chính thức được ơng bà Curie "khai
sinh", phân tử khối của nó là 225.

Năm 1898, Trường Đại Học Sorbonne đang thiếu một chân Giáo Sư Vật Lý.
Pierre nộp đơn xin vì muốn kiếm ra một số lương cao hơn. Nhưng vì ơng khơng hề
học qua một trường cao đẳng sư phạm hay Trường Bách Khoa nào nên ông đã bị
từ chối. Năm 1900, ông Pierre Curie xin được một chân Giáo Sư tại Trường Bách
Khoa với lương 2,500 quan một năm. Với số lương này, gia đình Curie vẫn chưa
đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Trường Đại Học Genève, Thụy Sĩ, bỗng nhiên gửi thư
mời ông Pierre sang nhận chức Giáo Sư Vật Lý với lương hàng năm 10,000 quan,
lại được thêm hai người phụ tá cùng một phòng khảo cứu đầy đủ dụng cụ. Thật là
một may mắn không ngờ. Nhưng tiếc thay, Genève lại ở quá xa, cơng ty thủy tinh
Bỉ khơng chịu chở pechblend sang đó. Giữa khoa học và tiền bạc, ông Pierre đã
chọn Khoa Học và đành viết thư cảm ơn ông Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa
Học Genève.


It lâu sau, ơng Pierre Curie được vị Phó Khoa Trưởng Trường Đại Học Sorbonne
mời giảng dạy môn Vật Lý cho chứng chỉ Lý Hóa Nhiên (S.P.C.N.) và bà Curie
được nhận làm Giáo Sư Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Superieure)
dành cho nữ sinh viên tại Sèvres. Ngân quỹ gia đình đã khả quan, từ nay hai ơng
bà Curie có thể yên tâm phụng sự cho Khoa Học.

Năm 1902, kết quả của cơng trình khám phá ra chất Radium được công bố. Giáo
Sư Mascart do mến tài ông Curie nên đã cố khuyên ông nộp đơn xin vào Hàn Lâm

Viện Khoa Học nhưng đến ngày bỏ phiếu, các ông Hàn đã nhận ứng viên đối lập
là Amagat. Vào lúc này, Giáo Sư Paul Appell đã được cử làm Khoa Trưởng
Trường Đại Học Khoa Học Paris. Muốn an ủi Pierre, Appell xin ông Tổng Trưởng
Giáo Dục Pháp ban huy chương danh dự cho nhà bác học và trước khi trao huy
chương, Appell đã năn nỉ bà Curie khuyên chồng nên chấp nhận huy chương đó.
Nhưng ơng Pierre đã từ chối vì ơng chỉ cần một phịng thí nghiệm, khơng cần tới
một huy chương đeo ngực. Trong suốt cuộc đời, ông Pierre Curie luôn luôn mong
mỏi sẽ lập ra được một cơ sở khảo cứu mà tất cả những ai muốn tìm tịi về chất
phóng xạ đều được tự do xử dụng.
Sau khi chất Radium được khám phá, danh tiếng ông bà Curie đã vượt ra khỏi
nước Pháp. Từ năm 1900, các viện đại học, các trung tâm khảo cứu tại các nước
Anh, Đức, Đan Mạch, Hoa Kỳ… đều gửi thư đến hỏi ông bà Curie về chất
Radium. Các nhà vật lý đua nhau tìm hiểu về tính phóng xạ như Boltzmann,


Crookes, Paulsen, Ramsay… họ đã tìm thêm được nhiều chất mới như
Mesothorium, Ionium, Protactinium, chì phóng xạ, khí Helium phóng xạ…
Năm 1903, bà Curie được Đại Học Sorbonne trao văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học,
hạng tối ưu với lời khen ngợi của Hội Đồng Giám Khảo về luận án "Khảo cứu về
các chất phóng xạ" và cũng vào năm này, Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh gửi thư
mời hai nhà bác học Curie sang diễn thuyết bên nước Anh. Sau đó khơng lâu,
nước Thụy Điển đã biểu quyết chia Giải Thưởng Nobel 1903 về Vật Lý, một nửa
dành cho ông Henri Becquerel, một nửa tặng ơng bà Curie vì cơng trình khám phá
ra chất phóng xạ. Ơng bà Curie được lãnh 10,000 quan tiền vàng. Nhưng khi vừa
được tin mừng về Giải Thưởng Nobel, hai nhà bác học lại gặp phải nhiều chuyện
bực mình: những kẻ hiếu kỳ, các phóng viên nhà báo đã bao quanh nhà, làm ồn ào,
gây bận rộn cho hai nhà bác học. Ông bà Curie vốn ưa thích sự yên tĩnh để làm
việc, nên đã khơng khỏi khó chịu khi các kẻ hiếu kỳ muốn coi ông bà như những
minh tinh màn bạc. Bà Curie đã phải nói: "Về Khoa Học, chúng ta chỉ nên để ý
đến sự vật mà đừng nghĩ tới nhân vật".


Sau khi các nước ngồi nhận rõ chân tài, ơng Pierre Curie mới được nước Pháp
biết đến. Năm 1904, ông được Viện Trưởng Đại Học Sorbonne bổ nhiện làm Gáo
Sư Vật Lý thực thụ . Trước khi nhận lời, ông đưa ra u cầu lập nên một phịng thí
nghiệm. Lần này, Bộ Giáo Dục Pháp khơng cịn làm những chuyện viển vông như
gắn huy chương cho nhà bác học nữa, mà bằng lòng xây dựng một trung tâm
nghiên cứu, chấp nhận cho nhà nữ bác học Curie làm trưởng phòng Vật Lý, dưới


quyền chồng và lại cho thêm hai nhân viên phụ tá. Cũng vào năm 1904, hai nhà
bác học có thêm một tin mừng khác: bà Curie vừa sinh hạ cô gái thứ hai và cũng là
cô gái út: Eve Curie. Năm 1905, ông Pierre Curie được bầu vào Hàn Lâm Viện
Khoa Học Pháp (Academy of Sciences).
Nhưng vinh quang không đến với nhà bác học được lâu. Ngày 19 tháng 4 năm
1904, sau khi rời nhà xuất bản Gauthier-Villars để về nhà, không rõ ông Pierre
Curie bận tâm suy nghĩ điều gì trong lúc băng qua đường, ơng đã bị xe ngựa cán
phải, vỡ óc chết ngay trên đường Dauphine tại Paris. Ông Pierre Curie đã là một
nhà vật lý học xuất sắc, một trong các vị sáng lập ra nền Vật Lý Mới. Để ghi nhớ
nhà bác học Pierre Curie, ngày 13 tháng 5 năm 1906, Trường Đại Học Sorbonne
đặc cách mời bà Curie thay chồng trong chức vụ Giảng Sư. Bà Marie Curie là nữ
Giáo Sư đầu tiên của Trường Đại Học Sorbonne, Paris.

Bà Marie Curie trở nên Giáo Sư thực thụ của Trường Đại Học Sorbonne vào năm
1908. Cũng vào năm này, bà cho xuất bản cuốn sách nhan đề là "Các Cơng Trình
của Pierre Curie". Năm 1910, tác phẩm "Khảo cứu về tính phóng xạ" (Traité de
Radioactivité) dày 960 trang của bà Marie Curie đã là công trình chứa đựng những
kiến thức khoa học mới mẻ nhất của thời kỳ đó về ngành học phóng xạ.


4/ Giải Thưởng Nobel lần thứ hai.

Danh tiếng của bà Marie Curie vang lừng. Rất nhiều trường Đại Học ở ngoại quốc
gửi tặng Bà các văn bằng Tiến Sĩ Danh Dự. Năm 1910, nước Pháp dự định tặng bà
huy chương Hiệp Sĩ nhưng bà Curie đã từ chối vì nghĩ tới thái độ của ông Curie
khi trước. Vài tháng sau, nhiều người bạn đã khuyên bà ra tranh cử vào Hàn Lâm
Viện Khoa Học. Cổ động cho bà có nhà đại bác học Henri Poincaré, Bác Sĩ Roux,
Giáo Sư Emile Picard, các Giáo Sư Lippmann, Bouty và Darboux… nhưng tới kỳ
bầu cử, vật lý gia Edouard Branly thắng phiếu. Phải chăng các ơng Hàn vẫn cịn
mặc cảm đối với phụ nữ nên bà Curie không được thu nhận? Lại một lần nữa,
nước Thụy Điển sửa chữa những lỗi lầm của nước Pháp: tháng 12 năm 1911, bà
Marie Curie được tặng thêm một giải thưởng Nobel về Hóa Học vì cơng trình tìm
ra chất Radium. Bà Curie là người duy nhất đã lãnh hai lần giải Nobel, hơn hẳn
các nhà bác học xưa và nay, kể cả nam lẫn nữ.

Từ năm 1911, các nhà trí thức Ba Lan có ý định thiết lập ở Varsovie một cơ sở
khảo cứu về chất phóng xạ và họ định mời bà Marie Curie về nước, điều khiển
trung tâm khảo cứu này. Tháng 5 năm 1912, một phái đoàn các giáo sư Ba Lan
sang Pháp, tìm gặp bà Curie. Bà Marie Curie vào lúc này bị lơi kéo giữa lịng nhớ
cố hương và các kỷ niệm về ông Pierre với ước vọng một Viện Radium khi đó


đang được xây dựng tại thành phố Paris. Cuối cùng bà Curie đã gửi thư từ chối. Bà
đặt tin tưởng vào tài năng nghiên cứu của hai người Ba Lan đã từng phụ tá cho bà.
Năm 1913, bà Marie Curie sang Ba Lan dự lễ khánh thành cơ sở khảo cứu chất
phóng xạ. Bà đã diễn thuyết về Khoa Học bằng tiếng mẹ đẻ trước một thính giả rất
đơng đảo. Tháng 7 năm 1914, Viện Radium Paris được xây dựng xong tại đường
Pierre Curie. Đây là "Lâu Đài của Tương Lai", nơi mà trước kia ông Pierre Curie
đã hằng mong ước được sống tại đó để nghiên cứu, tìm tịi, và giờ đây, bà Marie
tiếp tục sở nguyện của chồng.

Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Khác với nhiều phụ nữ, bà Curie khơng xung vào

các đồn nữ y tá mà lại nghĩ tới sự thiếu thốn của các nhà thương về phòng chiếu
quang tuyến. Bà liền lắp máy lên một chiếc xe hơi rồi cùng với người con gái
Irène, dùng xe quang tuyến này, đi chăm sóc các thương binh tại nhiều mặt trận.
Vì số thương binh càng ngày càng tăng, bà Marie Curie đã phải lắp thêm 220
phòng quang tuyến ở cả trên xe lẫn dưới đất. Bà lại dùng cả gam Radium duy nhất
và vô giá vào việc điều trị các nạn nhân chiến tranh. Ngoài ra, nhu cầu về các
chuyên viên quang tuyến khiến bà Curie đề nghị với Chính Phủ Pháp mở gấp một
lớp huấn luyện. Chương trình này được thực hiện tại Viện Radium và các giáo sư
giảng dạy gồm có bà Curie, cơ Irène Curie và cô Marthe Klein.
Năm 1918, Thế Chiến chấm dứt, mang lại hịa bình trên đất Pháp và nền độc lập
cho xứ Ba Lan, sau một thế kỷ rưỡi bị đô hộ. Trong nhiều năm trời, bà Curie đã


mang hết năng lực và tiền bạc đóng góp vào cơng cuộc chống ngoại xâm. Bà đã
tặng Chính Phủ Pháp số tiền thưởng Nobel. Chiến tranh đã làm cho công cuộc
khảo cứu của bà bị gián đoạn và sức khỏe của bà bị suy giảm.

Vào tháng 5 năm 1920, bà Marie Curie tiếp nữ phóng viên William Brown
Meloney. Trong câu chuyện, bà Curie cho biết đang cần có một gam Radium để
tiếp tục công cuộc khảo cứu mà thứ kim chất đó lại q đắt tiền. Vừa cảm động,
vừa kính phục, bà Meloney khi trở về Hoa Kỳ liền mở một cuộc lạc quyên các phụ
nữ Mỹ để mua Radium tặng nhà nữ bác học. Bà Meloney lại khẩn khoản mời bà
Curie sang Hoa Kỳ, song bà Curie rất e ngại đám đông, e ngại sự quảng cáo thanh
danh, nhưng cuối cùng, bà đành phải nhận lời. Đầu tháng 5 năm 1921, bà Marie
Curie cùng hai cô con gái xuống tầu Olympic sang châu Mỹ.
Ngày 20 tháng 5, Tổng Thống Hoa Kỳ Warren G. Harding đã trân trọng biếu bà
Marie Curie một gam chất Radium. Tại Philadelphia, bà Curie được trao tặng các
bằng cấp danh dự, các quà biếu, 50 gam chất Mesothorium và Huy Chương John
Scott của Hội Triết Học Mỹ Quốc. Ngồi ra, bà Curie cịn là Tiến Sĩ Danh dự của
các Trường Đại Học Pittsburg và Columbia. Bà Curie xuống tầu về nước vào ngày

28 tháng 6 năm đó.

Do sự phát minh ra cách trị liệu bằng chất phóng xạ, đầu năm 1922, Hàn Lâm
Viện Y Học Paris đã bầu bà Curie làm hội viên. Tháng 2 năm đó, bà Curie cũng
trở thành nhà nữ bác học đầu tiên của Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp. Danh tiếng


bà Marie Curie vang lừng. Bà được hân hoan đón tiếp tại A Căn Đình, tại Y, Hịa
Lan, Bỉ, Tiệp Khắc… Ngày 15/5/1922, Hội Quốc Liên chỉ định bà Marie Curie
làm hội viên của Tổ Chức Giáo Dục Quốc Tế.

Nguyện vọng của bà Marie Curie là được thấy một Viện Radium thành lập tại
Varsovie. Dự án xây dựng thành hình vào năm 1925 và bà Curie đã sang Ba Lan
để đặt viên đá đầu tiên cho Viện. Khi xây dựng xong, Viện Radium Varsovie lại
thiếu Radium để nghiên cứu. Tháng 10 năm 1929, bà Marie Curie lại sang Hoa
Kỳ. Tại đây, bà được đón tiếp rất trọng thể chẳng kém gì lần đi trước và nước Hoa
Kỳ một lần nữa lại giúp đỡ nhà nữ bác học. Ngày 29/5/1932, Viện Radium Ba Lan
được khánh thành đúng theo ý nguyện của nhà nữ bác học lừng danh.

Khi đã ngoài 60 tuổi, bà Marie Curie vẫn còn hăng hái làm việc mỗi ngày 12 giờ.
Dưới sự hướng dẫn của bà từ năm 1919 tới năm 1934, 483 tác phẩm khoa học đã
được các nhà vật lý và hóa học của Viện Radium phổ biến, và trong số các cơng
trình nghiên cứu khoa học này, riêng bà Curie có 31 tác phẩm.

Từ tháng 12 năm 1933, sức khỏe của bà Curie đã suy giảm. Bà đành phải ăn uống
theo lời chỉ dẫn của bác sĩ và đôi khi, bà trở về miền quê để sống trong bầu khơng
khí an lành. Rồi trong một chuyến đi chơi vào tháng 5 năm 1934, bà Curie bị cảm
lạnh. Mặc dù lời khuyên cần tĩnh dưỡng của bác sĩ, bà vẫn làm việc vì luyến tiếc
thời giờ khảo cứu trong phịng thí nghiệm. Bà Curie bị cảm lại. Bệnh trạng kéo dài
hàng tháng. Người ta nhìn thấy bà nằm liệt giường trong bộ y phục màu trắng với



bộ tóc bạc trắng như tuyết, và dưới vầng trán cao rộng, hai mắt bà nhắm lại, hai
cánh tay buông xuôi để lộ ra hai bàn tay xương xẩu đã bị các tia phóng xạ ăn loang
lổ nhiều chỗ. Bà Marie Curie tắt thở vào ngày 04 tháng 7 năm 1934 tại bệnh viện
Sancellemoz, mặc dù các bác sĩ tài danh tận tâm chữa trị. Bà Marie Curie đã chết
vì bệnh hoại huyết (leukemia) do chính các tia phóng xạ từ chất Radium phát ra.

Trưa ngày thứ Sáu, 06 tháng 7 năm 1934, tang lễ của nhà nữ bác học đã được cử
hành tại nghĩa địa Sceaux. Quan tài của bà được đặt lên quan tài của ông Pierre
Curie, đúng theo ý nguyện của bà là được gần chồng lúc sống cũng như lúc chết.

Bà Marie Curie là nhà nữ bác học lừng danh đầu tiên của thế giới khoa học. Bà đã
đi tiên phong trong công cuộc khảo cứu chất phóng xạ. Ngồi việc phụng sự Khoa
Học, bà Marie Curie cịn là một nữ cơng dân có lịng ái quốc nhiệt thành, khơng
những đối với Q Hương mà cịn với cả Tổ Quốc mà bà nhìn nhận. Bà Marie
Curie quả là nhân vật đã thực hiện hoàn toàn câu nói của Đại Văn Hào người Pháp
Victor Hugo: "Phụng sự Tổ Quốc mới chỉ là một nửa. Nửa kia là phụng sự Nhân
Loại"

5/ Marie Curie là người đầu tiên:
Marie Curie là người đàn bà thông minh và can đảm.

Bà là người đầu tiên dùng chữ radioactivité (chất phóng xạ) vì do hiện tượng của
nó.


Bà là người Âu châu đầu tiên đậu bằng Tiến sĩ Khoa học.

Bà là người đầu tiên được giải thưởng Nobel về Vật lý (1903). Cùng lãnh giải

thưởng là Pierre, chồng bà và Henri Becquerel vì đã tìm ra chất phóng xạ.

Bà là người đàn bà đầu tên nhậm chức Giáo sư Ðại học là trưởng phịng thí
nghiệm Ðại học Sorbonne ở Paris (1906).

Bà là người đầu tiên được 2 giải thưởng Nobel. Năm 1911 bà được giải thưởng
Nobel về Hóa học do sự khám phá ra cách cơ lập chất Radium tinh chất và những
hợp chất của nó.

Bà là người phụ nữ đầu tiên được yên nghỉ trong Ðiện PANTHEON ở Paris bên
cạnh nhà văn Victor Hugo, nhờ công lao của Bà.

Chất Radium của bà đã tìm ra là chất trị liệu ung thư đã cứu biết bao nhiêu người.

Bà là người Mẹ đầu tiên của người con gái được giải thưởng Nobel : Irère JoliotCurie cũng được giải thưởng Nobel về Hóa học năm 1935.

Irène và Frédéric Joliot xứng đáng là thừa kế của mẹ.

15 tháng 1 năm 1934 họ cùng tìm ra chất phóng xạ nhân tạo (Radioactivité
artificielle) và được giải thưởng Nobel hóa học




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×