Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Lịch sử thế giới cận đại -p2-chuong 1-2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.41 KB, 12 trang )

Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 35
1918, Cách mạng Đức bùng nổ. Ngày 29/9/1918, Bungari tuyên bố đầu hàng; ngày
30/10/1918, Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng. Ngày 1/11/1918, Đức ký hiệp ước đình chiến.
Ngày 2/11/1918, Áo - Hung tuyên bố đầu hàng; ngày 9/11/1918, nền cộng hoà Đức
tuyên bố thành lập. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.














PHẦN II
LỊCH SỬ CẬN ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG
CHƯƠNG I
NHẬT BẢN
1. TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN
1.1. KINH TẾ
Về nông nghiệp:
Quan hệ ruộng đất phong kiến vẫn tồn tại đậm nét. Đất đai nằm trong tay các
Đaimiô. Nông dân lĩnh canh ruộng đất và nộp tô cho Đaimiô. Quan hệ này tương đối
giống quan hệ ruộng đất ở Tây Âu trung cổ.
Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tác động phá vỡ tính chất tự nhiên của nền
kinh tế nông nghiệp. Nhiều vùng chuyên canh hàng nông phẩm: dâu, bông, chè, gạo…


xuất hiện đẩy nhanh sự giao lưu hàng hoá. Trong nông nghiệp xuất hiện chế độ làm thuê
và sự phá sản của nông dân góp phần bổ sung lực lượng lao động ở thành thị. Tô tiền là
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 36
chủ yếu, sản xuất nông nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả thị trường… làm cho tiền
đề của chủ nghĩa tư bản xuất hiện.
Rõ ràng, trên mặt trận nông nghiệp Nhật Bản, quan hệ phong kiến đang trên đà tan
rã, quan hệ kinh tế hàng hoá thâm nhập mạnh mẽ làm cho tình trạng kinh tế nông
nghiệp bền vững không còn nữa và hình thành những quan hệ mới mang tính chất tư
bản chủ nghĩa.
Về công thương nghiệp:
Công thương nghiệp đóng vai trò quan trọng, các ngành công nghiệp truyền thống
như dệt lụa, đồ gốm, bông sợi, giấy,… đều phát triển mạnh về quy mô. Các ngành công
nghiệp khai mỏ luyện kim đã sử dụng tiến bộ kỹ thuật mới. Năm 1860, lò cao đã xuất
hiện khá phổ biến. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng sử dụng lao động làm thuê.
Ngành đóng tàu đặc biệt phát triển ở các công quốc phía Nam như Chiuxiu, Toxa,
Saxuma, Hốclát.
Ở Nhật Bản đã hình thành các trung tâm thương nghiệp rất lớn. Ở Osaka có 1300
thương đoàn lúa gạo, 1700 thương đoàn nấu rượu. Mỗi thương đoàn gồm nhiều thương
nhân và những thương nhân này trở thành mạch nối thị trường trong nước và nước
ngoài. Nhiều thương điếm của Nhật được xây dựng ở các nước châu Á.
Thành thị:
Thành thị Nhật Bản mang tính chất châu Âu. Yêđô có tới 56 vạn dân là pháo đài
chống lại chính quyền phong kiến. Các thành thị tồn tại những quan hệ mới mang tính
chất tư bản chủ nghĩa. Vào thế kỷ 19 có ba trung tâm lớn: Yêđô là trung tâm chính trị
(nơi đóng đô của Mạc phủ), Kyoto là trung tâm văn hoá (nơi đóng đô của Thiên hoàng),
Osaka là trung tâm kinh tế.
1.2. CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI
Về chính trị:
Nhật Bản là một nước phong kiến. Đứng đầu Nhà nước là Thiên hoàng nhưng chỉ là

hư vị. Quyền hành tập trung trong tay Mạc phủ Tôcưgaoa. Bên dưới là một hệ thống
chính quyền từ trung ương đến địa phương. Ở các địa phương, các Đaimiô là những
lãnh chúa phong kiến theo kiểu châu Âu. Nhân dân lao động bị bóc lột nặng nề bằng địa
tô và thuế khóa.
Về giai cấp và xã hội:
Nông dân bị mất đất đai, bị bóc lột nặng nề phải đổ ra thành thị trở thành thị dân,
làm thuê cho địa chủ phong kiến nên nổi dậy đấu tranh.
Võ sĩ (Samurai) mặc dù đã tồn tại rất lâu, phục vụ cho các lãnh chúa bằng thanh
gươm và ngòi bút, được trả lương nhưng dưới tác động của nền kinh tế hàng hóa, họ
không đủ sống, phải đi buôn bán và làm mọi nghề khác nhau. Họ trở thành tư sản và
tiểu chủ quay lại chống quan hệ phong kiến.
Thiên hoàng có danh mà không có thực quyền, yêu cầu tập trung quyền lực thống
nhất đất nước, đoàn kết dân tộc để chống lại bên ngoài.
Đaimiô có thế lực kinh tế và chính trị, đoàn kết xung quanh Tướng quân có tư tưởng
bảo thủ chống lại các thành phần kinh tế mới để duy trì quyền lợi. Đây là đối tượng của
cách mạng.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 37
1.3. TƯ TƯỞNG
- Phái Hà Lan học chủ trương dịch sách và học tập kỹ thuật phương Tây. Đề nghị
Mạc phủ mở rộng cánh cửa đất nước để giao lưu với tư bản phương Tây, mở đường
cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Đại biểu là Aôki Takamô.
- Phái tư tưởng Ấn Độ xuất hiện giữa thế kỷ XVIII. Đây là phái tư tưởng đại biểu cho
giới bình dân. Họ chủ trương xoá bỏ giai cấp, bình đẳng xã hội cùng làm cùng
hưởng. Đại biểu là Siôêki.
- Phái tư tưởng phục hồi văn hoá cổ đại, chủ trường đề cao dân tộc Nhật Bản, khẳng
định Nhật là dân tộc có vị trí cao, có sứ mệnh thống trị châu Á phản ánh tư tưởng xô
vanh tư sản. Đòi hỏi sự thống nhất quyền lực vào trong tay Thiên hoàng.
- Phái tư tưởng thị dân, có chỗ dựa vững chắc là tầng lớp thị dân đông đảo, họ nêu lên
luật thuyết tâm học thành thị: công thương xứng đáng như sĩ nông và thậm chí còn

cao hơn. Họ đề cao đức tính tiết kiệm cho bản thân và đất nước, đề cao tinh thần lao
động sáng tạo cần lao. Họ nêu lên hai nguyên tắc kinh doanh là nghiêm túc trong
kinh doanh và thật thà trong giao dịch. Đại biểu cho phái này Ishê Baizan (1685 -
1744).
2. CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN
2.1. SỰ XÂM NHẬP CỦA TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ
Giữa thế kỷ 19, tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm nhập Nhật Bản. Năm 1853, Mỹ
đưa 4 tàu chiến đến vịnh Yêđô yêu cầu Nhật Bản mở cửa thông thương. Năm 1854, Đô
đốc hải quân Mỹ Perry chỉ huy bốn chiến thuyền uy hiếp buộc Nhật Bản phải mở hai
cảng Shimôđa và Hakôđatê cho Mỹ tự do ra vào. Năm 1858, Mỹ ký hiệp ước bất bình
đẳng buộc Nhật mở thêm các cảng Yêđô, Nigata, Kôbe, Yôkôhama, Ôsaka, và
Nagasaki, đồng thời giành được sự lãnh sự tài phán và tối huệ quốc về quan thuế. Các
nước đế quốc khác cũng theo gương Mỹ ký những điều ước tương tự.
Những điều ước nói trên biến Nhật Bản trở thành thị trưởng chung của chủ nghĩa tư
bản. Nền kinh tế của Nhật Bản lâm vào cảnh hết sức khó khăn. Các giai tầng xã hội bị
ảnh hưởng, quyền lợi dân tộc bị xâm phạm nghiêm trọng. Mâu thuẫn giai cấp phát triển
đến đỉnh điểm.
2.2. NHỮNG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN
Trước các hành động đầu hàng của Mạc Phủ, quần chúng nhân dân đã nổi lên đấu
tranh đòi bình đẳng với người nước ngoài, tập trung quyền lực vào tay Thiên hoàng.
Ngày 9/11/1867, tướng quân đã xin trao trả quyền hành cho Thiên hoàng Minh Trị
(Mutsuhitô) mới 15 tuổi. Ngày 3/1/1868, Thiên hoàng ra lệnh tước quyền Tướng quân
và giao cho đại diện Samurai đứng ra thành lập chính quyền mới. Nhận thấy việc tính
toán của mình đã nhầm, Tướng quân huy động được 1,5 vạn quân tuyên chiến với lực
lượng của Thiên hoàng nhưng bị thất bại. Ngày 4/5/1868, lực lượng của Tướng quân
hoàn toàn tan rã. Thiên hoàng dời đô về Yêđô và đổi tên thành phố này thành Tokyo
nay là thủ đô của Nhật Bản.
2.3. CẢI CÁCH MINH TRỊ
Về chính trị: Thiên hoàng đã thành lập một chính phủ mới, trong đó Thiên hoàng là
ngưới có quyền lực cao nhất, Samurai tư sản hoá là thành phần chủ yếu.

Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 38
Thiên hoàng cũng thay đổi các tước hiệu quý tộc: Đaimiô thành Kadoku (Hoa tộc),
Samurai thành Shidoku (Sĩ tộc) và Xodudoku (Tốt tộc), các tầng lớp khác là bình dân.
Tuỳ theo đẳng cấp, Thiên hoàng cử các bộ trưởng và người đứng đầu các huyện.
Thiên hoàng đã xoá bỏ sự tồn tại của các công quốc và chia cả nước thành 72 huyện.
Đứng đầu mỗi huyện là một viên Tri huyện, tương ứng là các chức vụ thấp hơn ở các
đơn vị hành chính cơ sở.
Về kinh tế: Chính phủ Minh trị đã cho phép việc tự do buôn bán ruộng đất. Thuế đất
là 3% được nộp bằng tiền. Chủ đất có quyền tự do trồng trọt loại cây nào có lãi nhất.
Chính phủ Minh trị cũng tiến hành cải các chế độ tiền tệ, đo lường, quan thuế, khuyến
khích việc đầu tư kỹ thuật tạo diều kiện cho kinh tế công thương nghiệp phát triển.
Chính phủ còn bỏ vốn đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp giao cho tư nhân quản lý,
trả nợ dần.
Về văn hoá giáo dục: Chính phủ Minh Trị quy định chế độ cưỡng bức giáo dục ở
bậc tiểu học nhưng trên cơ sở đóng góp của phụ huynh. Mức đóng góp là 50
yên/em/năm, trong khi thu nhập của nông dân chỉ tương đương.
Tóm lại: những cải cách của chính phủ Minh Trị đã thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa phát triển đưa nước Nhật thoát khỏi tình trạng trì trệ của phương Đông. Nhật Bản
gia nhập hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa.
3. ĐẾ QUỐC NHẬT
3.1. KINH TẾ
Về công nghiệp : Chính phủ tiếp tục quản lý ngành công nghiệp quân sự và đóng tàu
ở các trung tâm Tokyo, Osaka, Itabaxi đồng thời quản lý ngành luyện kim và khai mỏ ở
Xaro, Ikudo, Kanashi, Mizưike …
Các cơ sở công nghiệp nhẹ và tiêu dùng phần lớn do chính phủ đầu tư và giao cho
công nhân quản lý. Ngành ngân hàng ban đầu do Nhà nước quản lý sau đó nhượng lại
cho tư nhân. Công ty Misubishi được giao quản lý toàn bộ tầu thuyền của công quốc
Tôxa và lập ra công ty tàu biển Nhật Bản. Công ty Mitsui được giao độc quyền về ngân
hàng. Các công ty này trở thành những công ty lũng đoạn đầu tiên ở Nhật Bản và ngày

càng có thế lực, chi phối cả về chính trị.
Về nông nghiệp: Song song với sự phát triển công nghiệp. nông nghiệp Nhật Bản
cũng chuyển mạnh theo hướng kinh doanh tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm thuê,
cơ giới hoá, cải tiến kỹ thuật chăm bón thuốc trừ sâu … Sản xuất theo cơ chế thị trường.
Về thương nghiệp: Nhật Bản mở rộng sự phát triển trong lĩnh vực này trên cơ sở thị
trường nội địa thống nhất và hướng châu Á – Thái Bình Dương.
Sự phát triển kinh tế đã dẫn tới sự tập trung sản xuất và tư bản hình thành nên các
công ty tư bản độc quyền lớn. Sự dung hợp giữa tư bản ngân hàng và tư bản công
nghiệp hình thành nên các tập đoàn tư bản tài chính. Một phần lớn số vốn được xuất
khẩu ra nước ngoài như: Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan mang lại nguồn lợi nhuận
kếch xù cho tư bản Nhật. Đầu thế kỷ XX, hai tập đoàn Mitsui và Misubishi sở hữu hơn
50% tổng số vốn tư bản và chi phối nhiều ngành sản xuất.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 39
3.2. CHÍNH TRỊ
Về đối nội : Minh Trị đã thành lập một bộ máy chính quyền gồm hai cơ quan hành
pháp và lập pháp trong đó Thiên hoàng và quý tộc giữ địa vị thống trị. Về cơ bản, thế
chế chính trị Nhật Bản vẫn là quân chủ chuyên chế.
Giai cấp tư sản không có quyền lợi về chính trị đã không ngừng đấu tranh đòi cải
biến theo xu hướng quân chủ lập hiến. Họ làm dấy lên một phong trào gọi là đòi dân
quyền và tự do. Đại biểu cho phong trào này là Itagaki và Kiđo. Tháng 10/1881, Itagaki
thành lập Đảng Tự do đại diện cho quyền lợi của địa chủ nhỏ, phú nông và tư sản công
thương nghiệp. Năm 1882, Okuma thành lập Đảng Cải tiến Lập hiến đại biểu cho lợi ích
của tư sản công thương, trí thức tư sản ngân hàng. Các đảng này không ngừng đấu tranh
đòi lập nghị viện tư sản.
Năm 1883, Itô Hirobumi từ Đức về nước khởi thảo bản hiến pháp 1889 dựa theo
hiến pháp Đức: dành cho Thiên hoàng quyền lực cao nhất; quốc hội gồm có hai viện:
viện quý tộc có 368 đại biểu, viện dân biểu có 300 đại biểu được bầu cử theo chế độ hạn
chế.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nông dân lao động đã diễn ra mạnh

mẽ dưới sự lãnh đạo của Hội nghiên cứu chủ nghĩa xã hội (1898), Đảng xã hội dân chủ
Nhật (1901), Đảng Xã hội Nhật Bản (1906). Chính phủ Nhật Bản đàn áp và ban hành
đạo luật “cảnh sát trị an”. Tuy nhiên phong trào vẫn diễn ra mạnh mẽ: Năm 1907 có 57
cuộc bãi công, 1912 có 46 cuộc, 1914 có 50 cuộc, 1915 có 64 cuộc, 1916 có 108 cuộc,
và năm 1917 có tới 198 cuộc bãi công. Năm 1918, Đảng Cộng sản ra đời.
Về đối ngoại: Nhật Bản đấu tranh đòi quyền bình đẳng xoá bỏ những điều ước đã ký
trước đây với tư bản phương Tây. Vị thế của Nhật Bản không ngừng tăng lên, Nhật Bản
tích cực tham gia vào những cuộc chiến tranh giành giật thị trường như chiến tranh Nhật
– Trung (1894 - 1895), Nhật – Nga (1904 - 1905).
Nhật Bản cũng tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược Đài Loan 1874, Triều
Tiên 1872 và tham gia phân chia thị trường Trung Quốc. Đồng thời Nhật Bản cũng tích
cực chạy đua vũ trang chuẩn bị tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong chiến tranh
thế giới thứ nhất Nhật Bản tham gia phe Hiệp ước.








Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 40
CHƯƠNG II
TRUNG QUỐC
1. CUỘC CHIẾN TRANH THUỐC PHIỆN LẦN THỨC NHẤT.
1.1. TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC CUỐI TRIỀU MÃN THANH
Về chính trị: Triều đại Mãn - Thanh là một triều đại phong kiến ngoại tộc tồn tại dựa
trên sự cấu kết giữa quý tộc Mãn và quý tộc Hán. Mâu thuẫn dân tộc thường trực, cơ
cấu quân sự ngày càng lỏng lẻo, quân lính bạc nhược, quan lại tham nhũng bất tài. Sự

bảo thủ lạc hậu của quan hệ phong kiến kìm hãm sự phát triển của xã hội Trung Quốc
làm cho Trung Quốc không đủ sức chống lại sự xâm nhập của tư bản phương Tây.
Về kinh tế : cơ sở của nên kinh tế là nông nghiệp dựa trên tính chất tự nhiên phong
kiến. Nền kinh tế hành hoá vẫn phát triển hình thành nên các vùng như Giang Tây, Hán
Châu dệt lụa làm sắt, mây tre. Các trung tâm buôn bán ở Quảng Châu, Quảng Đông,
Thượng Hải, … đã phá vỡ kết cấu kinh tế tự nhiên nhưng bị chính quyền phong kiến
kìm hãm.
Về xã hội và giai cấp: xã hội Trung Quốc ra ba bộ phận cấu thành. Giai cấp nông
dân chiếm tới 90% dân số là đối tượng bóc lột chủ yếu của phong kiến bị bạc đãi nghèo
đói liên tục nổi dậy đấu tranh nhưng chưa tìm được giải đáp.
Giai cấp địa chủ phong kiến bảo thủ lạc hậu, phản động không chấp nhận sự tiến
hoá. Nhưng về mặt xa xỉ và đồ truỵ vào loại bậc nhất thế giới, không chăm lo sản xuất
là lực lượng đẩy nhanh sự thối nát và tha hoá của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Tầng lớp công thương chủ yếu mang tính truyền thống không tạo nên nhân tố mới.
Xã hội Trung Quốc do đó đã bất lực trước sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản
phương Tây. Triều đình Mãn Thanh cũng thi hành chính sách đóng cửa để bảo vệ quyền
lợi giai cấp và dân tộc.
1.2. THUỐC PHIỆN, CÔNG CỤ MỞ CỬA TRUNG QUỐC
Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược Ấn Độ, Thực dân Anh đã tìm thấy ở Ấn Độ
một loại nông phẩm đặc biệt là thuốc phiện. Anh lại phát hiện ra ở Trung Quốc một thị
trường rộng lớn để tiêu thu hàng hoá và cung cấp nguyên liệu, Trung Quốc lại là một
nước lạc hậu phân tán tha hoá, thi hành chính sách đóng cửa. Tư bản Anh và phương
Tây bán thuốc phiện vào Trung Quốc thu lại nguồn lợi nhuận lớn. Mọi giai tầng trong
xã hội Trung Quốc đổ xô vào việc mua bán thuốc phiện. Phương tiện để trao đổi là bạc
trắng đã dẫn đến tình trạng chảy máu bạc trắng. Quan lại địa chủ bắt nông dân nộp thuế
bằng bạc trắng, quân lính cưỡp bóc nhân dân để lấy bạc đổi lấy thuốc phiện … Giai cấp
thống trị chỉ lo ăn chơi bán rẻ quyền lợi dân tộc.
Trước tình hình đó, trong triều đình Mãn - Thanh chia làm ba phái.
- Phái thoả hiệp, chủ trương chỉ cấm quan lại mà không cấm nhân dân hút thuốc
phiện.

- Phái đầu hàng đứng đầu là Xixan chủ trương cho tự do buôn bán thuốc phiện.
- Phái kiên quyết có ý thức dân tộc, được nhân dân ủng hộ chủ trương chống lại xu
hướng đầu hàng, chống lại tư bản nước ngoài để bảo vệ quyền lợi dân tộc và giành
được ưu thế. Đại biểu là Lâm Tắc Từ và Hoàng Tước Tư.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 41
Ngày 31/12/1838, vua Đạo Quang phái Lâm Tắc Từ làm Khâm sai đại thần xuống
Quảng Châu để triệt để ngăn cấm việc bán thuốc phiện. Ông bắt thương nhân Anh và
các nước nộp hết số thuốc phiện và cam kết không buôn bán thuốc phiện nữa, đồng thời
củng cố lực lượng quân sự tăng cường phòng ngự các cửa biển, tổ chức lực lượng dân
binh. Kết quả ông đã thu được hơn 2 vạn hòm thuốc phiện (20 kg/ hòm) và thiêu cháy
tại Hổ Môn. Đây chính là phát pháo hiệu của cuộc chiến tranh.
1.3. QUÁ TRÌNH CUỘC CHIẾN TRANH VÀ ĐIỀU ƯỚC NAM KINH
Tháng 6/1840, quân Anh gồm 15 ngàn quân và 41 tầu chiến nổ súng tiến công
Quảng Châu, cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt ở phía Nam Trung Quốc. Nhân dân Trung
Quốc tự vũ trang chống lại sự xâm lược của quân Anh. Mùa hạ năm 1841, phong trào
Bình Anh Đoàn ở Tam Nguyên Lý đánh bại cuộc tiến công của quân Anh. Giữa lúc đó
phái đầu hàng thắng thế chủ trương thỏa hiệp. Không thoả mãn, quân Anh tiếp tục mở
rộng cuộc chiến tranh lên phía Bắc và uy hiệp Bắc Kinh. Sợ hãi trước sức mạnh của
quân Anh, Triều đình Mãn Thanh đã phải ký hiệp ước Nam Kinh vào ngày 29/8/1842.
Nội dung chủ yếu của Hiệp ước Nam Kinh là:
- Trung Quốc phải mở 5 cửa biển cho Anh tự do thông thương: Quảng Châu, Phúc
Châu, Ninh Ba, Hạ Môn và Thượng Hải.
- Trung Quốc phải cắt Hương Cảng cho Anh.
- Trung Quốc phải bồi thường cho Anh 21 triệu bảng
- Thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của Anh do hai bên bàn bạc.
- Anh được hưởng quyền lãnh sự tài phán ở Trung Quốc .
Các nước tư bản khác cũng noi gương Anh buộc Trung Quốc phải ký những điều
ước tương tự. Mỹ ký Hiệp ước Vọng Hạ (7/1884), Pháp ký Hiệp ước Hoàng Phố
(10/1884), Bỉ, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Na Uy, Nga,… cũng ký những điều ước tương

tự. Trung Quốc bị biến thành nước phong kiến nửa thuộc địa.
1.4. HỆ QUẢ
- Cuộc chiến tranh thuốc phiện đã chọc thủng cánh của Trung Quốc làm cho Trung
Quốc trở thành một bộ phận của chủ nghĩa tư bản, điều này được thể hiện rõ ràng
bằng quyền bất khả xâm phạm của các tô giới nước ngoài. Anh lập tô giới ở Thượng
Hải diện tích 830 ha (1845), Mỹ (1847).
- Xác lập sự buôn bán không công bằng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của Anh và
các nước tư bản thấp nhất thế giới (5%), thuốc phiện 12% làm cho cuối thế kỷ XIX,
hàng thuốc phiện của Anh lên tới gần 6 vạn hòm lợi nhuận là 25 triệu bảng tương
đương 1/6 giá trị ngoại thương. Nền kinh tế của Trung Quốc ngày càng khủng
hoảng kiệt quệ.
- Cuộc chiến tranh thuốc phiện đã làm tan rã nhanh hơn xã hội Trung Quốc đồng thời
đã cấy lên những mầm mống của xã hội phương Tây ở Trung Quốc. Giai cấp tư sản
và công nhân ra đời.
- Đẩy mâu thuẫn dân tộc Trung Quốc phát triển lên đỉnh điểm mà nông dân là lực
lượng đi đầu chống lại ách thống trị của quý tộc phong kiến Mãn Thanh.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 42
2. PHONG TRÀO NÔNG DÂN THÁI BÌNH THIÊN QUỐC
2.1. NGUYÊN NHÂN
Những hệ quả của chiến tranh thuốc phiện đã tác động trực tiếp đến xã hội Trung
Quốc mà mâu thuẫn tập trung ở miền Nam Trung Quốc. Đây là nơi tiếp xuca trực tiếp
với chủ nghĩa tư bản phương Tây, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, ý thức dân tộc
Hán trỗi dậy mạnh mẽ.
2.2. DIỄN BIẾN
- Hồng Tú Toàn và Hội Thượng đế, Hồng Tú Toàn sinh ngày 1/1/1814 trong một gia
đình nông dân ở Quảng Đông. Là một người thông minh nhưng thi mãi không đậu
lại thấy được sự bất công của xã hội phong kiến đương thời. Ông tình cờ tiếp xúc
với tư tưởng bình đẳng của đạo Kitô trong tác phẩm “những lời dạy thế”. Năm 1844,
ông về quê chuẩn bị lý luận cho cuộc nổi dậy của nông dân trong đó hình thành hai

giải đáp lớn: bình đẳng xã hội không phân biệt nam nữ, đẳng cấp và mơ ước xây
dựng một xã hội thái bình. Tư tưởng đó phản ánh nguyện vọng, mơ ước chống lại sự
bất công của người nông dân.
Năm 1848, Hồng Tú Toàn thành lập Hội Thượng đế gồm có Phùng Vân Sơn,
Dương Tú Thanh, Vi Xương Huy, … Đây là một hình thức tôn giáo để tổ chức và
tập hợp lực lượng. Nó tuyên chiến với hệ tư tưởng phong kiến, phủ nhận tất cả các
thần thánh và chỉ thừa nhận thượng đế.
- Cuộc tiến công từ Kim Điền đến Nam Kinh (1851 - 1853). Tháng 1/1851, quân khởi
nghĩa tiến đánh Kim Điền thắng lợi. Tháng 9/1851, chiếm được Vĩnh An và xây
dựng chính quyền lấy hiệu là Thái Bình Thiên Quốc. Hồng Tú Toàn tự xưng là
Thiên Vương, Dương Tú Thanh là Đông Vương, Tiêu Triều Quý là Tây Vương, Vi
Xương Huy là Bắc Vương, Thạch Đạt Khai là Dực Vương, … Đồng thời định ra
quy chế tổ chức, kỷ luật nghiêm minh trong quân đội.
Từ đó quân khởi nghĩa lần lượt chiếm được 10 tỉnh Nam Trung Quốc. Trường
Sa, Vũ Hán , Cửu Giang, An Khánh (2/1853), và bao vây Nam Kinh. Ngày
28/3/1853, quân khởi nghĩa chiếm được Nam Kinh và đổi tên thành phố là Thiên
Kinh.
- Sự biến Dương Vi và sự tan rã của Thái Bình Thiên Quốc. Giữa lúc phong trào
đang phát triển thì mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo phong trào bắt đầu bộc lộ. Điều
này do tư tưởng bảo thu, hẹp hòi của người nông dân nảy sinh. Mâu thuẫn bắt đầu từ
quyền lợi giữa Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh – Hai nhà lãnh đạo cao nhất của
phong trào. Hồng Tú Toàn đã ra lệnh cho Vi Xương Huy mang quân bao vây phủ
Đông Vương và giết sạch cả nhà Dương Tú Thanh (2/9/1856), trong đó phần lớn là
những anh hùng Thái Bình Thiên Quốc. Hơn hai vạn người đã bị giết, Thiên Kinh
hỗn loạn. Vi Xương Huy lại có ý lộng quyền, Hồng Tú Toàn lại ra lệnh giết Vi
Xương Huy. Hàng vạn người lại bị giết hại. Hồng Tú Toàn gọi Thạch Đạt Khai trở
về để ổn định lại Thiên Kinh nhưng lại có ý nghi ngờ ông. Do đó, Thạch Đạt Khai
cùng với các tướng lĩnh mang mười vạn quân ra đi tiếp tục Tây Chinh, cuối cùng
thì ông đã bị giết hại tại Tứ Xuyên (1857).
Phong trào Thái Bình Thiên Quốc bị suy yếu hẳn, đến năm 1860, An Khánh thất

thủ, Thiên Kinh bị bao vây. Ngày 19/7/1864, quân Thanh chiếm được Thiên Kinh.
Cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc hoàn toàn thất bại.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 43
- Những chính sách lớn của Thái Bình Thiên Quốc.
 Về quân sự: Thái Bình Thiên Quốc rất chú ý xây dựng quân đội. Quân đội
Thái Bình Thiên Quốc có tính kỷ luật cao, hai đạo quân Nam Doanh và Nữ
Doanh được duy trì và củng cố. Thái Bình Thiên Quốc tổ chức ba hưỡng
tiến quân. Đông Chinh nhằm cắt đứt nguồn cung cấp tài nguyên của nhà
Mãn Thanh nhằm tạo nên thế lực kinh tế mạnh. Tây Chinh, nhằm tiều diệt
lực lượng địa chủ Hán tộc của Tăng Quốc Phiên và Tả Tôn Đường và bảo vệ
Thiên Kinh. Bắc Chinh, nhắm tiêu diệt lực lượng quân sự và xoá bỏ sự thống
trị của nhà Thanh. Cả ba hướng này đều không thu được thắng lợi do mâu
thuẫn nội bộ của phong trào nảy sinh.
 Về kinh tế: Thái Bình Thiên Quốc thực hiện việc trao quyền sở hữu ruộng
đất cho làng xã. Lấy đơn vị nhà làm tế bào, cứ 25 nhà là một đơn vị xã hội
kinh tế quân sự gọi là Lưỡng tư mã. Trên cơ sở đó thực hiện chế độ cùng
làm cùng hưởng, đây chính là tư tưởng bình quân của nông dân chống lại sở
hữu phong kiến. Nó trở lên không tưởng và thất bại. Đối với thành phần kinh
tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, Thái Bình Thiên Quốc không thừa
nhận vì nó ngược lại đối với nền kinh tế tự cung tự cấp của mình. Tuy nhiên,
do yêu cầu phát triển xã hội mà lĩnh vực này vẫn phát triển.
 Những chính sách khác: Thái Bình Thiên Quốc còn thi hành một số chính
sách như : cấm hút thuôc phiện; cải cách chế độ thi cử trong đó có thi nghề
nghiệp và tính toán; thi hành chính sách bình đẳng nam nữ, xoá bỏ tục lệ bó
chân; coi người ngoại quốc như anh em và cho họ tự do buồn bán nhưng
không thừa nhận các Hiệp ước bất bình đẳng.
2.3. TÍNH CHẤT, NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
- Tính chất: Thái Bình Thiên Quốc là một phong trào nông dân đơn thuần mang tính
chất của phong trào nông dân thời cận đại với nhiệm vụ cách mạng dân chủ tư sản

được đặt ra, nhiệm vụ giải phóng xã hội phản đế, phản phong nhưng không phải là
một cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Nó cũng không phải là một cuộc chiến tranh
tôn giáo. Đây là một phong trào nông dân lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc.
- Nguyên nhân thất bại: Phong trào Thái Bình Thiên Quốc bị thất bại do quá trình
phong kiến hoá tự bản thân nó huỷ hoại phong trào. Các thế lực phong kiến và tư
bản nước ngoài cấu kết nhau để đàn áp. Phong trào đã không đánh giá được sự nguy
hiểm cũng như sức mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
- Ý nghĩa lịch sử: Mặc dù thất bại nhưng phong trào Thái Bình Thiên Quốc đã tuyên
án tử hình chế độ phong kiến trên tất cả các mặt. Phong trào tồn tại trong 14 năm
nhưng đã lập nên một cấu trúc mới mang tính chất thử nghiệm chính là ảo ảnh của
xã hội mới. Sự thất bại của phong trào là tất yếu nhưng đã đánh dấu một bước phát
triển trong phong trào nông dân Trung Quốc, đồng thời cũng để lại nhiều bài học
quý báu đối với sự nghiệp cách mạng về sau của nhân dân Trung Quốc.
3. PHONG TRÀO DÂN TỘC TƯ SẢN TRUNG QUỐC
3.1. CÁC NƯỚC ĐẾ QUỐC SÂU XÉ TRUNG QUỐC
3.1.1. SỰ ĐẦU TƯ CỦA TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY
Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai (1856 – 1858) giữa Anh, Pháp với Trung
Quốc đã diễn ra. Trung Quốc hoàn toàn thừa nhận những đòi hỏi của các nước đế quốc.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 44
Điều này đã tạo ra hệ quả các nước đế quốc tràn vào Trung Quốc, Trung Quốc trở thành
thị trường tiêu thu hàng hoá và cung cấp nguyên liệu của hầu hết các nước đế quốc.
Trong giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
các nước đế quốc đã tăng cường đầu tư tư bản để khai thác nguồn lợi nhuận. Nhiều
ngành công nghiệp mới đã được xây dựng mang tính chất phức hợp của công nghiệp tư
bản chủ nghĩa.
3.1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN DÂN TỘC TRUNG QUỐC
Giai cấp địa chủ phong kiến muốn lợi dụng cơ hội để trục lợi. Đầu tiên là các địa
chủ Hán tộc như Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Tả Tôn Đường đã tiến hành xây
dựng những xưởng đúc súng sửa chữa tầu thuyền. Những xí nghiệp này vẫn còn tồn tại

quan hệ phong kiến trong khi kỹ thuật và vốn đầu tư vẫn do tư bản nước ngoài nắm giữ
nên cuối cùng đều thất bại.
Giai cấp tư sản dân tộc ra đời vào cuối thế kỷ XIX, học chủ yếu kinh doanh trong
lĩnh vực chế biến và công nghiệp nhẹ với quy mô nhỏ, lãi nhiều nhưng thường xuyên bị
tư bản nước ngoài chèn ép. Chính vì vậy, tư tưởng tư sản cải lương đã xuất hiện. Cùng
lúc đó giai cấp công nhân thuộc địa cũng ra đời và từng bước trưởng thành nắm lấy
ngọn cờ dân tộc.
3.2. SỰ THỨC TỈNH DÂN TỘC TƯ SẢN CẢI LƯƠNG
3.2.1. NGUYÊN NHÂN
Sự ra đời của giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội Trung Quốc và những tác động
của tình hình thế giới nhất là Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản chủ nghĩa làm
chuyển biến về tư tưởng trong xã hội Trung Quốc . Một tầng lớp trí thức tiến bộ đã ra
đời đòi hỏi phải canh tân đất nước theo xu hướng học Nhật Bản. Các đại biểu như Tiết
Phúc Thành, Trần Xí, Trịnh Quan Ứng, Mã Kiến Trung,… Đề nghị lập hiến theo các
nước phương Tây, kiên quyết chống ngoại xâm, làm dấy lên phong trào duy tân sau
này.
3.2.2. DIỄN BIẾN
Đại biểu xuất sắc của phong trào Duy tân là Khang Hữu Vy. Ông xuất thân trong
một gia đình địa chủ quan liêu ở Quảng Đông. Đứng trước nguy cơ của dân tộc Trung
Quốc và những trào lưu tư tưởng tiến bộ, Khang Hữu Vy cùng với Lương Khải Siêu và
các đồng chí của ông chủ trương duy tân đất nước. Họ nêu ra bốn nội dung cơ bản:
- Về kinh tế: Khuyến khích công thương nghiệp phát triển trên cơ sở tuyên truyền
học tập kỹ thuật phương Tây, khuyến khích phát minh khoa học kỹ thuật trong
nước, tăng cường quản lý mỏ, đường sắt và tài chính.
- Về chính trị: Cách chức những nhân lực bất tài tham nhũng, làm trong sạch bộ máy
nhà nước có sự tham gia của tư sản tự do.
- Về quân sự: Tăng cường lực lượng vũ trang theo kiểu phương Tây
- Về văn hoá: Lập trường học, cải cách thi cử, cử người đi học nước ngoài, tự do
sách báo, mở mang dân trí.
Phái Duy tân được sự ủng hộ của vua Quang Tự và tầng lớp địa chủ mới, trí thức địa

phương, có tư tưởng đứng đắn nhưng không có thực quyền. Trong khi đó lực lượng bảo
thủ đứng đầu là Từ Hy Thái Hậu có chính quyền quân đội. Do so sánh tương quan lực
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 45
lượng chênh lệch như vậy, Viên Thế Khải lại phản bội nên cuộc vận động duy tân từ
ngày 11/6 đến ngày 21/9/1898 bị thất bại. Mộng ước Duy tân tan vỡ.
3.3. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TƯ SẢN
3.3.1. TÔN TRUNG SƠN VÀ TỔ CHỨC CÁCH MẠNG
Tôn Trung Sơn xuất thân trong một gia đình nông dân ở Quảng Đông. Lúc đầu ông
chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khang – Lương, nhưng sau một quá trình tiếp xúc với các
trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng của ông chuyển sang cách mạng.
Ông nhận thức được vai trò và sức mạnh của nông dân Trung Quốc. Tháng 11/1894,
ông sáng lập tổ chức Hưng Trung Hội tại Hônôlulu (Mỹ). Tháng 7/1905, Tôn Trung
Sơn cùng các đồng chí của ông là Hoàng Hưng, Tống Giáo Nhân triệu tập hội nghị
thống nhất ở Tôkyô gồm đại biểu ba tổ chức Hưng Trung Hội, Hoa Hưng Hội, Quang
Phục Hội thành lập Trung Quốc Đồng Minh Hội. Thành phần tham gia là địa chủ, trí
thức, lưu học sinh, công nhân, nông dân và tất cả các tầng lớp trong xã hội Trung Quốc.
Tổ chức này nêu cao cương lĩnh “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập
Dân quốc, bình quân địa quyền”. Năm 1907, Tôn Trung Sơn về nước lãnh đạo một loạt
các cuộc khởi nghĩa mang tính chất thử nghiệm ở miền Nam Trung Quốc.
3.3.2. DIỄN BIẾN VÀ KẾT CỤC CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TÂN HỢI
Dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn và tổ chức Đồng Minh Hội, phong trào cách
mạng đã nổ ra mạnh mẽ nhất là ở miền Nam Trung Quốc. Tiền đề cơ sở của cuộc cách
mạng đã được xuất hiện. Ngày 10/10/1911, cuộc khởi nghĩa bùng nổ từ lực lượng Tân
quân ở Vũ Xương thắng lợi. Hai ngày sau thì chiếm được Hán Khẩu và Hán Dương.
Tuy nhiên, quyền lãnh đạo cách mạng lại rơi vào tay phái Lập hiến của Lê Nguyên
Hồng. Do đó, cách mạng diễn ra theo xu hướng thoả hiệp. Đầu tháng 12, quân cách
mạng chiếm được Nam Kinh và tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Ngày
25/12/1911, Tôn Trung Sơn về nước triệu tập hội nghị Đồng Minh Hội bàn việc thành
lập chính phủ. Ngày 1/1/1912, Tôn Trung Sơn được bầu làm đại tổng thống. Năm 1912,

được gọi là năm Trung Hoa Dân Quốc Thứ nhất.
Lợi dụng tình hình đó, Viên Thế Khải buộc vua Thanh thoái vị và ra điều kiện buộc
Tôn Trung Sơn phải trao cho y chức đại tổng thống tại Bắc Kinh. Ngày 12/2/1912, Tôn
Trung Sơn từ chức trao quyền đại tổng thống chiến tranh Viên Thế Khải, Lê Nguyên
Hồng làm phó tổng thống. Cuộc cách mạng Tân Hợi về cơ bản đã kết thúc thất bại.
3.3.3. TÍNH CHẤT, NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
- Tính chất: Cuộc cách mạng Tân Hợi mang tính chất tư sản được quy định bởi nhiệm
vụ đánh đổ chế độ phong kiến và tuyên bố thành lập chế độ cộng hoà tư sản. Là
cuộc cách mạng mang tính chất tiến bộ, có ý nghĩa dân tộc rõ rệt mặc dù chưa đề ra
nhiệm vụ chống đế quốc.
- Nguyên nhân thất bại: Do giai cấp lãnh đạo cách mạng còn yếu đuối, đường lối cách
mạng thiếu chính xác, tổ chức lãnh đạo không thống nhất, mặc dù đã đề ra cương
lĩnh ruộng đất nhưng lại trốn tránh thực hiện và so sánh lực lượng quá chênh lệch về
phía lực lượng phản cách mạng.
- Ý nghĩa lịch sử: Cuộc cách mạng là sự tuyên án tử hình chế độ phong kiến Trung
Quốc trên tất cả các mặt đồng thời mở đầu cho xu hướng cách mạng và ý thức dân
chủ ở Trung Quốc phát triển. Sự thất bại của cuộc cách mạng đã để lại nhiều bài học
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 46
quý báu cho cách mạng Trung Quốc trong đó giai cấp công nhân Trung Quốc sẽ
nắm lấy sứ mệnh lịch sử của dân tộc






CHƯƠNG III

ẤN ĐỘ

1. CHỦ NGHĨA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY XÂM NHẬP ẤN ĐỘ
1.1. ẤN ĐỘ GIAI ĐOẠN ĐẦU BỊ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN XÂM NHẬP
Trong phát kiến địa lý, từ thế kỷ XVI, chủ nghĩa thực dân phương Tây đã đến Ấn
Độ. Bồ Đào Nha chiếm một số vị trí ở vùng bờ biển phía Nam như Goa, Cancutta,
Calicut. Đến nửa sau thế kỷ XVII, Hà Lan cũng chiếm được một số căn cứ ở vùng bờ
biển phía Tây.
Thực dân Pháp, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Áo – Hung, … cũng tới Ấn Độ vào giữa thế
kỷ XVII và lập ra các thương điếm ở đây. Thực dân Anh cũng tới Bắc Ấn và sau đó xây
dựng căn cứ ở Bom Bay.
Trong thế kỷ XVIII, các nước tư bản phương Tây mâu thuẫn và tranh giành quyền
lợi ở Ấn Độ, nổi bật nhất là cuộc cạnh tranh giữaAnh và Pháp nhưng ưu thế dần thuộc
Anh.
1.2. SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN ANH
Từ thế kỷ XVIII, từ các căn cứ đã lập ra trên đất Ấn Độ, tư bản Anh bắt đầu bành
trướng mở rộng đất đai ra toàn Ấn Độ. Nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược của
nhân dân Ấn Độ đã nổ ra. Tiêu biểu là cuộc kháng chiến của nhân dân vùng Bengan vào
1757. Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Anh do Công ty Đông Ấn Anh tiến
hành. Đến năm 1796, về cơ bản thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm lược và xây dựng
một hệ thống chính quyền thuộc địa ở Ấn Độ. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ vẫn
tiếp tục diễn ra nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Đến năm 1849, về cơ bản Anh đã hoàn
thành việc xâm lược toàn bộ đất đai Ấn Độ.
Thực dân Anh đã tiến hành áp đặt một chính sách cai trị Ấn Độ thông qua Công ty
Đông Ấn Anh. Giai cấp quý tộc phong kiến Ấn Độ vẫn còn được duy trì một số quyền
lợi nhưng chỉ là công cụ của thực dân Anh. Đứng đầu bộ máy cai trị thường là các viên
tướng võ người Anh, bên dưới là những tên trưởng khu nắm quyền hành chính, thu
thuế và tư pháp. Để xây dựng cơ sở xã hội cho sự thống trị lâu dài, thực dân Anh áp
dụng chế độ Daminđa và Raiôtvavi nhằm tạo ra một bộ phận giai cấp địa chủ mới có
quyền lợi gắn chặt với tư bản Anh. Đồng thời thực dân Anh đã mở các đồn điền rộng
lớn trồng các loại cây công nghiệp như thuốc phiện, cà phê, thuốc lá, chàm, …và chăn
nuôi.

Về công thương nghiệp, thực dân Anh thi hành chính sách thuế quan không bình
đẳng, hàng hoá của Anh vào Ấn Độ chịu mức thuế chỉ khoảng 2% trong khi hàng hoá
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử

×