Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Kiến thức chứng khoán cơ bản docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.31 KB, 26 trang )


Kiến thức chứng khoán cơ bản
Năm lý do đầu tư vào cổ phiếu
Nguồn Đầu tư chứng khoán , sưu tập bởi trunghh ngày 12/07/2004
Đánh giá của bạn
1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn cần đăng nhập (login))
1. Tăng trưởng vốn
Với thời hạn dài hơn, cổ phiếu có thể tạo ra khoản lợi nhuận đáng kể nhờ giá cổ phiếu
tăng. Nhiều Công ty niêm yết trên TTCK còn dành cho các cổ đông của mình cơ hội mua
thêm cổ phiếu với giá chiết khấu và không phải mua qua nhà môi giới, do vậy tiết kiệm
được phí môi giới. Các công ty làm theo cách này cũng sẽ huy động thêm được vốn cho
việc mở rộng hoạt động.
2. Cổ tức
Các công ty chi nhiều nguồn lợi sau thuế của mình cho cổ đông của mình dưới hình thức cổ
tức. Một số công ty tái đầu tư cổ tức bằng cách phát hành thêm cổ phiếu cho các cổ đông
của mình (thường có chiết khấu đôi chút và miễn phí trung gian), thay vì trả cổ tức bằng
tiền mặt.
3. Việc mua bán rất linh hoạt
So với các khoản đầu tư khác, như đầu tư vào bất động sản, đầu tư vào cổ phiếu là rất cơ
động. Việc mua và bán cổ phiếu có thể được thực hiện một cách rất nhanh chóng và phí
môi giới thấp hơn so với phí giao dịch bất động sản. Khác với bán bất động sản, bạn có thể
bán một phần cổ phần của mình.
4. Đa dạng hóa các khoản đầu tư
Để đa dạnh hóa danh mục vốn đầu tư của mình, bạn có thể cần dành một phần tiền để
đầu tư vào thị trường cổ phiếu. Bạn có thể mua cổ phiếu trực tiếp hoặc thông qua các quỹ
quản lý.
5. Chiết khấu hoặc dành quyền cho các cổ đông
Một số công ty đăng ký trên TTCK, đặc biệt là các công ty bán lẻ hoặc cung cấp các dịch vụ


tài chính, thường đưa ra những chiết khấu hấp dẫn đối với các cổ đông khi họ mua dịch vụ
từ các công ty hoặc chi nhánh công ty của họ.
1. Trong dài hạn, đầu tư vào cổ phiếu hiệu quả hơn so với đầu tư vào trái phiếu
Theo tính toán của các chuyên gia, trong giai đoạn 1926 – 2002, mức lợi nhuận
trung bình của cổ phiếu trên thị trường thế giới đạt 10,2%/năm, cao hơn nhiều so
với chỉ tiêu tương ứng của nhà đầu tư vào trái phiếu là 5,8%/năm.
2. Các khoản đầu tư mạo hiểm có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn so với những khoản
đầu tư an toàn hơn
Các nhà đầu tư đòi hỏi tỷ lệ lợi nhuận cao hơn cho những hoạt động có mức rủi ro
cao hơn. Đó là lý do vì sao cổ tức thường cao hơn so với lãi suất trái phiếu. Điều
này cũng giải thích tại sao lãi suất đối với trái phiếu dài hạn cao hơn so với trái
phiếu ngắn hạn.
3. Yếu tố có tính quyết định đến giá cổ phiếu trong dài hạn là khả năng tăng
trưởng
Trong ngắn hạn, giá cổ phiếu dao động dựa trên cơ sở của rất nhiều các yếu tố, từ
lãi suất tới tác động của thời tiết. Nhưng trong dài hạn, yếu tố quyết định là khả
năng tăng trưởng của công ty phát hành.
4. Giá trái phiếu có khả năng phục hồi nhanh hơn nhiều so với giá cổ phiếu
Năm 1994 được coi là năm đối với trái phiếu do mức giảm giá khá mạnh. Tuy
nhiên, chỉ một năm sau đó, giá trái phiếu đã phục hồi, thậm chí còn tăng cao hơn
so với lúc trước khi mất giá. Ngược lại, giá cổ phiếu chậm thay đổi hơn: chỉ số
chứng khoán Dow Jones (Mỹ) trung bình giảm 44% trong năm 1973 -1974 và
hơn 10 năm sau, chỉ số này mới phục hồi được giá trị của mình.
5. Lãi suất tiết kiệm tăng lên là điều tồi tệ đối với trái phiếu
Khi lãi suất tiền gửi tăng lên, giá trái phiếu sẽ hạ, vì trái phiếu sẽ mất sức hấp dẫn
do người mua có xu hướng chuyển sang đầu tư vào tài sản khác có mức lãi suất
cao hơn. Ngược lại, khi lãi suất hạ thì giá trái phiếu lại có xu hướng tăng lên. Chịu
tác động lớn nhất của việc thay đổi lãi suất là những trái phiếu dài hạn.
6. Lạm phát có thể là mối đe dọa lớn nhất đối với các khoản đầu tư dài hạn của
bạn

7. Đa dạng hoá danh mục đầu tư giúp bạn giảm thiểu rủi ro.
10 Câu hỏi dành cho nhà đầu tư chứng khoán
Nguồn Báo Nhịp cầu đầu tư , sưu tập bởi trunghh ngày 14/04/2004
Đánh giá của bạn
1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn cần đăng nhập (login))
Trước khi quyết định mua chứng khoán, chắc chắn các nhà đầu tư phải kiềm tra, cân nhắc
trước nhiều vấn đề.
Trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chính thức nhập cuộc vào thị trường chứng khoán Việt
Nam thì các nhà đầu tư trong nước vẫn còn băn khoăn. Điều khiến họ e ngại là có nên mua
chứng khoán hay không, và nên chọn lựa mua cổ phiếu của công ty nào. Không dễ gì lựa chọn
khi hầu hết các công ty niêm yết đều có đầy đủ các con số, chuan mực như nhau trong các
bảng Cáo bạch. Tâm lý hiện nay của nhiều nhà đầu tư vẫn là mua chứng khoán theo số đông.
Như thế, liệu bạn có phải là người mua cuối cùng không? Vậy khi nào bạn nên nhanh tay mua
chứng khoán trước mọi người rút tiền ra.
Nếu bạn đầu tư theo những căn bản nhất định với 10 câu hỏi gợi ý sau đây, bạn có thể tự
quyết định giữ chứng khoán nào trước những biến động thị trường. Quan trọng hơn là bạn
thoải mái tự tin rằng bạn đang đầu tư đúng nghĩa chứ không phải là đánh bạc.

1. Công ty đó kinh doanh và kiểm tiền như thế nào?
Nếu bạn không biết đang mua cái gì, bạn rất khó khăn trong việc quyết định phải trả tiền cho
nó như thế nào?
Như vậy khi bạn mua chứng khoán, bạn cần phải tìm hiểu công ty ấy đang kiếm tiền như thế
nào? Về căn bản câu trả lời không phải lúc nào cũng rõ ràng. Nhưng bạn không thể không
quan tâm đến phương thức sinh lãi, phương hướng đầu tư , thị trường tìm năng, bộ máy nhân
sự cũng như các nguy cơ cạnh tranh rủi ro có thể xảy ra với các đối thủ cạnh tranh cùng lĩnh
vực.


2. Có phải doanh số bán hàng là thật?
Nói đến tiền mặt, điều khá quan trọng mà bạn phải thực sự chú ý là các nguyên tắc kế toán tài
chính.
Đôi khi, trong một số trường hợp, các công ty này chẳng bao giờ thu được tiền mặt thật mà
báo cáo tài chính vẫn thể hiện những con số đẹp nhất. Ơ thị trường chứng khoán Việt Nam, đã
có trường hợp như vậy. Thỉnh thoảng, những dấu hiệu cảnh báo về doanh thu không thấy
được, vì sự vận dụng tinh vi của doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, phải tự cảnh báo đối với
những doanh số bỗng vượt trội so với đối thủ cạnh tranh truyền thống. Con số là quan trọng,
nhưng đôi khi kết quả kinh doanh thực tế khác so với báo cáo tài chính.

3.Công ty đó đối với đối thủ cạnh tranh như thế nào?
Trước khi mua chứng khoán, điều phải quan tâm là chú ý đến các đối thủ cạnh tranh.
Điều gây ảnh hưởng đến quyết định là phân tích doanh số bán hàng. Nhưng không chỉ có thế.
Dẫn chứng cụ thể nhất là bạn phải nhìn lại cách công ty cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh
qua từng năm qua như thế nào?
Nếu công ty cạnh tranh trong nghành có tỷ lệ phát triển nhanh, thì doanh số tăng trưởng của
công ty phải đạt hay thậm chí cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác cùng nghành và đối
với các nghành khác cũng vậy. Điều này thể hiện khả năng cạnh tranh lâu dài của công ty.

4. Khả năng thích ứng trong môi trường đầu tư
Tìm hiểu xem nền kinh tế có ảnh hưởng đến nền kinh doanh và đầu tư của công ty không?
Một vài cổ phiếu hay công ty sẽ bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế quốc gia.
Chẳng hạn, khi nền kinh tế đi xuống, các cổ phiếu thông thườngsẽ bị rẽ đi một cách vô
lý. Nhà đầu tư cần để y đến tỉ giá lãi suất, vì tỉ giá này ảnh hưởng đến nhiều nghành nghề
khác nhau.
Có thể một yếu tố mà nhà đầu tư cần phải xem xét là mức độ giá cả của các đối thủ
cạnh tranh đang tồn tại trong nghành

5. Khả năng bại trận trong vài năm tới ra sao?
Quan tâm đến điều gì có thể “đánh” công ty mình mua, thậm chí giết chết công ty tron vài

năm tới. Chẳng hạn, công ty bạn định mua chứng khoán gặp vấn đề lớn như mất đi một khách
hàng quan trọng hay có thể cảm nhận được sự rủi ro này qua bảng Cáo bạch ban đầu của công
ty đối với công chúng hoặc báo cáo tài chính thông qua Uy ban chứng khoán. Sự tập trung
khách hàng hoặc tập sự độc quyền của nguồn cung cấp đôi khi chính là sự rủi ro cho chính
công ty.

6. Hiệu quả của hệ thống quản lý chi phí.
Tìm hiểu hệ thống quản lý của công ty có quản lý chi tiêu hiệu quả hay không?
Xem lại quá trình phát triển của công ty, bạn có thể viết ra và hệ thống lại những chi phí
thường xuyên mà công ty phải trả chưa hợp lý. Nếu có những khoản công ty phải trả “ một
lần” không hợp lý hoặc thậm chí nhiều khoản không thể hiện trong báo cáo tài chính.
Dựa vào đó, nhà đầu tư có thể biết được lợi nhuận thực sự của công ty là bao nhiêu? Nếu bạn
nhìn thấy những khoản chi “lạ lẫm” lập lại đôi ba lần trong bảng báo cáo thu nhập của công ty,
có thể bạn phải thận trọng hơn trong việc mua cổ phiếu công ty đó. Tìm và đọc chi tiết báo cáo
tài chính của công ty và những khoản chi riêng thật sự của công ty cũng là một điều cần xem
xét trước khi đầu tư.

7. Công ty có đi chệch hướng hay không?
Ngay cả khi lợi nhuận công ty nhìn có vẽ lạc quan nhất , điều này không có nghĩa là nó sẽ kéo
dài khi công ty đang có các khoản nợ dài hạn.
Bạn nên kiểm tra những khoản nợ trong bảng cân đối, những khoản phải trả và những khoản
được trả. Chẳng hạn, phải trả lãi suất lãi suất vay Ngân hàng , các Quỹ đầu tư… Bạn phải biết
trước những điều này thay vì sau đó phải “ hy sinh” bất ngờ. Ngoài khoản nợ, phần công ty
kiếm được và để tái đầu tư hoặc chia lợi tức cũng là phần bạn cần quan tâm. Lựa chọn việc sử
dụng nguồn lợi nhuận thế nào cho lợi nhuận tăng hơn trước hoặc “âm” lợi nhuận cũng là một
suy nghĩ để các nhà đầu tư cân nhắc trước khi đầu tư vào chứng khoán.

8. Hệ thống quản lý và bộ máy điều hành?
Đánh giá chất lượng của lãnh đạo công ty và bộ máy điều hành cũng là một bước quang
trọng, không phải cổ đông nào cũng được biết.

Một số phương pháp cổ điển là xem xét thông điệp mà Chủ tịch Hội đồng Quản trị gửi đến cổ
đông và kết quả đạt được của công ty trong vài năm gần nhất có thống nhất hay khác nhau.
Kết quả kinh doanh là do sự tài giỏi của nhà điều hành hay những điều kiện bên ngoài tác
động. Những that bại của công ty hay công ty đổ lỗi cho các lý do khách quan khác. Những
điều kiện làm nên thành công trong quá khứ không phải lúc nào cũng là một đảm bảo chắc
chắn cho sự thành công của công ty trong tương lai, đó cũng là lý do nhà đầu tư cần chú ý.

9. Giá trị thực sự của công ty là gì?
Những công ty thành công nhất thế giới lại có thể là những công ty làm nghèo đi tài khoản
danh mục đầu tư của bạn và ngược lại.
Thế nhưng, ông trùm đầu tư chứng khoán thế giới Warren Buffett có nhắc đên nguyên tắc đầu
tư làbạn có htể mua bất cứ cái gì có khuyến mãi ngoại trừ chứng khoán. Đừng bao giờ rơi vào
bẫy “khuyến mãi” trong sân chơi chứng khoán.
Các chỉ số tài chính của công ty cũng rất quan trọng. Bạn cần tỉnh táo nếu tìm hiểu giá trị thị
trường nếu công ty dự báo khả năng tăng trưởng 50% cho năm 2005 thì đây mới chỉ là
“phỏng đoán” chứ không phải là “đ1nh giá”. Các bước khác như kiểm tra dòng chảy tiền mặt,
nhà đầu tư cũng nên đọc hiểu báo cáo tài chính công ty trước khi mua chứng khoán.

10. Tự hỏi xem mình có cần thiết sỡ hữu chứng khoán này không?
Ở thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 23 lựa chọn đang niêm yết, bạn sẽ chọn?
Hiện sàn giao dịch chứng khoán có hàng chục lựa chọn đang niêm yết, chưa kể thị trường
không chính thức thì không có chứng khoán nào là chứng khoán “phải mua”. Thông thường,
các nhà đầu tư hay tự thuyết phục mình là không được để lỡ dịp này và khi ấy, xem ra cổ
phiếu nào cũng đáng để đầu tư . Vì thế, các nhà đầu tư phải tỉnh táo tạm ngưng mua khi chưa
có các câu trả lời thông suốt thông qua 9 điều kể trên. Bạn đừng quên mua chứng khoán là
đầu tư để đồng tiền sinh lãi chứ không phải là những “canh bạc may rủi”.
Danh gia co phieu thuong
được viết bởi Dzung ngày
09/12/2003
Đánh giá của bạn

1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn
cần đăng nhập (login))
Cổ phiếu thường là một phần vốn của một công ty cổ phần. Quyền sở hữu cổ phần này
tiêu biểu cho một phần quyền sở hữu của công ty và cho phép người sở hữu nhận được
phần lợi nhuận tương ứng, từ sự thịnh vượng của công ty. Chính vì lẽ đó, cổ phiếu có giá
trị, biểu thị bằng mệnh giá, giá trị sổ sách, chính xác nhất là giá trị thị trường (thị giá). Tuy
nhiên, thị giá của một cổ phiếu thì luôn thay đổi. Điều gì làm chúng thay đổi? Chính số
cung và cầu sẽ điều hành các biến động về giá của các cổ phiếu. Khi mức cầu xuất hiện có
vẻ vượt quá mức cung, giá cổ phiếu sẽ tăng lên và ngược lại. Nhưng điều gì nh hưởng đến
mức cung và cầu của một cổ phiếu. Câu trả lời bao gồm tất cả bất kỳ điều gì phù hợp đối
với những triển vọng của công ty đang được đề cập, nền công nghiệp hay các công nghệ
trong đó công ty đang hoạt động và bối cảnh kinh tế-chính trị đang diễn ra. Những yếu tố
này cũng luôn luôn dao động và chính phản ứng của nhà đầu tư đối với các ẩn dụ của các
dao động có liên quan đến cổ phiếu sẽ làm giá cổ phiếu biến động.
Các nhà đầu tư luôn mong đợi, tìm kiếm đầu tư những cổ phiếu của các công ty có khả
năng sinh lợi cao hơn các cổ phiếu khác, các loại công cụ tài chánh khác. Tuy nhiên, giá cả và
khả năng sinh lợi đầu tư của cổ phiếu là bao nhiêu để hấp dẫn các nhà đầu tư?
Trên các thị trường vốn phát triển hiện đại, các nhà đầu tư sử dụng tham chiếu rất
nhiều các chỉ số tài chính để đánh giá giá trị và khả năng sinh lãi của cổ phiếu cũng như các
thông tin, xu hướng thị trường trước khi đưa ra các quyết định đầu tư hay chấp thuận giao dịch
mua bán. Một số tiêu chuẩn đã được công nhận để dựa vào đó đánh giá các giá trị tương đối
của cổ phiếu là cổ tức, tỷ lệ lãi từ cổ tức, thu nhập trên mỗi cổ phiếu, giá trị sổ sách của mỗi
cổ phiếu thường, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và tỷ số giá trên thu nhập.
1.Cổ tức (Dividend)
Cổ tức là khoản thu nhập đầu tư hữu hình của các cổ đông được thanh toán định kỳ khi
công ty có lợi nhuận. Đại bộ phận cổ đông trông đợi vào cổ tức, vì vậy tình hình tăng giảm cổ
tức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu. Việc tăng cổ tức là một tín hiệu về việc tăng thu

nhập trong tương lai. Do đó, khi cổ tức tăng lên thì đó là một tin tốt (giá cổ phiếu thường tăng
lên), và cổ tức bị cắt giảm thì đó là một tin xấu (giá cổ phiếu thường giảm). Nếu một công ty
không bao giờ chi trả cổ tức thì cổ phiếu của nó sẽ không hề có giá trị. Nhưng nếu săn lùng các
công ty chia cổ tức cao nhất, cổ phiếu của các công ty ấy lại thường không đạt thành tích cao
nhất bởi nó cho thấy công ty không có kế hoạch tái đầu tư - không có chiến lược lâu dài,
những lợi thế sẵn có sẽ không được tận dụng, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
không thể phát triển ổn định. Và cổ tức chỉ thể hiện những kết quả trong quá khứ, không có gì
đảm bảo sự việc đó sẽ tiếp diễn trong tương lai. Nó là nhân tố khiến cho cổ phiếu tăng giá,
nhưng không phải là nhân tố quan trọng.
Lấy cổ tức chia cho thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) ta có hệ số chi trả cổ tức. Hệ số
này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông thường dưới dạng cổ tức. Các
công ty có hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính tốt thường có hệ số chi trả cổ tức thấp
bởi công ty dành phần lớn lợi nhuận ròng cho tái đầu tư. Và ngược lại, những công ty làm ăn
yếu kém với tỷ lệ sinh lời trên tài sản thấp lại có khuynh hướng có hệ số chi trả cổ tức cao
nhằm tạo điều kiện cho cổ đông sử dụng cổ tức để đầu tư vào nơi khác có lợi hơn. Thông
thường, mức chia lợi tức cổ phần thấp sẽ làm sụt giảm giá mua-bán cổ phần. Còn chia quá cao
sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều khó khăn về chính sách tài trợ ngân quỹ để tái đầu tư mở
rộng kinh doanh. Do đó, một công ty trả lợi tức khiêm tốn nhưng cứ đều đều tăng lên thường
được ưa chuộng hơn là một công ty lâu lâu mới trả một món tiền lớn. Mức chấp nhận tỷ lệ chia
cổ tức cổ phần thường chiếm khoảng 40-60% lợi nhuận ròng.
2.Tỷ lệ lãi từ cổ tức (Dividend on price)
Đây là chỉ số quan hệ giữa thị giá và cổ tức cổ phiếu, phản ánh tỷ lệ hoàn vốn tổng
quát cho một chu kỳ đầu tư vào cổ phiếu thường, được tính như sau:

Tỷ lệ lãi từ cổ tức
=
Tiền mặt trả cổ tức mỗi cổ phiếu thường
Thị giá

Khi cổ tức và khả năng thanh toán cổ tức trong tương lai của một loại cổ phiếu càng

cao thì thị giá cổ phiếu đó đương nhiên sẽ gia tăng.
Nếu một công ty tạo ra nhiều lợi nhuận nhưng cắt giảm phần chia cổ tức cho các cổ
đông để gia tăng nguồn vốn hoạt động và tái đầu tư thì có khả năng công ty sẽ tạo ra được
nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Kết quả là thư giá cổ phần được gia tăng do phần lợi
nhuận để lại tái đầu tư đó. Đồng thời thị giá cổ phiếu cũng sẽ tăng lên do nhiều người muốn
mua để chờ cơ hội tăng giá trong tương lai. Nhưng nếu hệ số này quá cao, hãy xem mức tăng
trưởng của nó mất mấy năm để khiến cổ tức tăng lên đến mức lợi suất trái phiếu hiện thời. Lưu
ý là công ty có thể duy trì cổ tức ở tỷ lệ cao trong một khoảng thời gian dài trước khi họ buộc
phải cắt giảm nó, và hậu quả là thị giá cổ phiếu có khả năng giảm rất lớn ngay tức thời.
3.Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (Earning per share - EPS)
Các nhà đầu tư mua cổ phiếu đều mong muốn sẽ thu được lợi nhuận trong tương lai từ
vốn đầu tư vào các cổ phiếu đó. Do đó chỉ số thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ cung cấp thông tin
về thu nhập định kỳ của mỗi cổ phần thường, nó phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận ròng trên
một cổ phần mà cổ đông đóng góp vốn. Công thức tính là:

= Lợi nhuận ròng - Tổng cổ tức ưu đãi
EPS
Tổng cổ phiếu thường
Lưu ý: Trường hợp công ty phát hành thêm hoặc mua lại cổ phiếu thì tổng số cổ phiếu
thường (mẫu số trong công thức) phải được tính toán theo công thức bình quân gia quyền.
Công ty nào có EPS cao hơn so với các công ty khác sẽ thu hút được sự đầu tư hơn bởi
EPS càng cao thì công ty tạo ra lợi nhuận cổ đông càng lớn và ngược lại.
Nếu EPS của một loại cổ phiếu thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận cao và có xu hướng
tăng trưởng ổn định thì đương nhiên thị giá cổ phiếu giao dịch sẽ có khuynh hướng gia tăng.
Chỉ số này nên được xem xét trong một giai đoạn nhất định để đánh giá xu hướng ổn
định và khả năng tăng trưởng của nó, qua đó sẽ thấy được hiệu quả quá trình hoạt động của
công ty. Tuy nhiên, EPS không phải lúc nào cũng tỷ lệ với tổng lợi nhuận sau thuế. Nếu công ty
tăng vốn bằng cách phát hành thêm 10% số lượng cổ phiếu mà lợi nhuận tăng thêm không đủ
10% thì EPS sẽ giảm, kéo theo giá cổ phiếu giảm theo.
Nhiều công trình nghiên cứu chứng minh rằng các cổ phiếu có tỷ lệ tăng trưởng EPS

cao thì hệ số P/E của chúng cũng tăng lên theo. Tức là cổ phiếu sẽ tăng giá nếu EPS gia tăng.
Hầu hết những phi vụ thành công lớn đều thuộc về những công ty đang phát triển - những
công ty có thu nhập trên mỗi cổ phiếu tăng trung bình 30% trong 3 năm liền. Nếu sắp xếp EPS
của các công ty theo các mức từ 1 đến 99 với 99 là tốt nhất trong vòng 2 quý và ba tới năm
năm gần nhất thì một cổ phiếu có EPS là 80 có nghĩa là chúng có mức phát triển doanh lợi tốt
hơn 80% số công ty ngoài thị trường. Giá cả của chúng thường tăng lên rất cao.
Trường hợp công ty có phát hành trái phiếu chuyển đổi thì EPS được tính lại, gọi là EPS
giảm bớt, bởi số trái phiếu đó có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường vào bất kỳ lúc nào. Kết
quả là số lượng cổ phiếu tăng lên sẽ làm giảm thu nhập của mỗi cổ phiếu.
EPS giảm bớt
=
Lợi nhuận ròng (không phải trả lãi TP chuyển đổi)
Tổng trái phiếu chuyển đổi/Giá chuyển đổi

4.Giá trị sổ sách của mỗi cổ phiếu thường (Book value per common share)
Giá trị sổ sách là một hằng số cố định trong một thời gian, giữa hai kỳ công bố bảng
tổng kết tài sản, tuỳ theo kết quả kinh doanh đã được xác định. Nó chính là tài sản cổ phần
thường của các cổ đông tính trên một cổ phiếu được xác định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế
toán của công ty (bảng tổng kết tài sản), được tính như sau:
Vốn chủ sở hữu
Giá trị sổ sách
=
Tổng cổ phiếu thường

Giá trị sổ sách cho phép người đầu tư thấy được số giá trị tăng thêm của cổ phiếu
thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu.
Giá trị sổ sách và tỷ số giá c trên giá trị sổ sách đã từng được sử dụng làm công cụ
thẩm định xem liệu cổ phiếu đang được giao dịch ở mức giá rẻ hay đắt. Cổ phiếu có mức giá
cao gấp 2 lần giá trị sổ sách có lẽ là quá cao đối với các nhà đầu tư giá trị. Tuy nhiên, thực tế
đã có nhiều loại cổ phiếu được giao dịch ở các mức cao hơn thế. Nhưng cũng không nên coi giá

trị sổ sách là mức giá sàn của cổ phiếu, điều này có thể dẫn đến sự thua lỗ bởi không phải lúc
nào doanh nghiệp cũng có quyền lựa chọn để bán tài sản của mình theo giá trị sổ sách của
chúng.
5.Lợi nhuận trên mỗi cổ phần (Return on equity - ROE)
ROE đo lường mức lợi nhuận đạt được trên vốn đóng góp của các cổ đông, được tính
bằng cách lấy thu nhập ròng của công ty chia cho số vốn cổ đông.

ROE
=
Thu nhập ròng
Vốn cổ đông

ROE của một công ty nào đó càng cao thì chứng tỏ công ty này sử dụng đồng vốn một
cách hiệu quả và khả năng thu hồi vốn của các cổ đông càng cao, và tất nhiên, giá cả cổ phiếu
của công ty này giao dịch trên thị trường càng cao. Những cổ phiếu thường được lùng mua là
những cổ phiếu có tỷ lệ ROE trên 20%.
Nếu ROE suy giảm là một bằng chứng cho thấy các cuộc đầu tư mới của công ty đã
đem lại ROE thấp hơn so với các cuộc đầu tư trước đây. Trong trường hợp này, dự đoán đúng
về ROE trong tương lai sẽ thấp hơn ROE gần nhất.
6.Giá trên thu nhập (Price on earning per share - P/E)
Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường và thu nhập của mỗi cổ phiếu,
được tính như sau:

P/E
=
Thị giá
EPS

Hệ số này cho nhà đầu tư biết họ phải trả giá bao nhiêu cho mỗi đồng thu nhập của
một cổ phiếu. Và bằng cách nghịch đảo của tỷ số P/E (lấy 1 chia cho P/E), nhà đầu tư có thể

xác định được tỷ suất lợi nhuận tương đối trên khoản đầu tư của họ.
Thông thường, P/E từ 5-15 là bình thường, nếu P/E lớn hơn 20 có nghĩa là:
- Nhà đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương lai.
- Cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư tho mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường
thấp.
- Nhà đầu tư dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao.
Nhiều ý kiến cho rằng cổ phiếu đó đang được định giá quá cao và giá cổ phiếu sẽ sớm
giảm đến một giá trị tương đối hợp lý. Tuy nhiên, điều khó có thể phủ nhận là P/E cao thường
ám chỉ một mức rủi ro lớn và rủi ro lớn hàm ý một cơ hội thu lợi nhuận lớn hơn. Những cổ
phiếu này thường nhạy cảm với những tin tức xấu, còn những cổ phiếu có P/E thấp thì không.
Các công ty tăng trưởng mới nổi cũng thường có hệ số P/E cao, bởi EPS của nó còn
chưa cao.
Khi tính được tỷ số P/E, nên so sánh với 4 chuẩn mực sau:
- Tỷ số tăng trưởng trong qúa khứ (kiểm tra qua nhiều năm để có thể biết được mức
bình thường của P/E).
- Mức tăng trưởng dự kiến trong tương lai của công ty.
- Cổ phiếu của các công ty khác trong cùng ngành kinh doanh.
- Toàn bộ thị trường, phản ảnh bởi chỉ số.
Trường hợp cổ phiếu có hệ số P/E thấp là do công ty chưa có uy tín, đang lâm vào
hoàn cảnh khó khăn hoặc thị trường không đánh giá cao công ty đó, người đầu tư chưa hiểu
biết nhiều về công ty
Lưu ý rằng P/E sẽ trở lên vô ích nếu nó không phản ánh khuynh hướng của lạm phát.
Nếu mức lạm phát là 8% một năm, tỷ số P/E là 12 thì tỷ số P/E thực sẽ gần với 20. Tỷ số P/E
thực này cho ta biết sự mong đợi của các nhà đầu tư có thực tế hay không. Nếu tỷ số P/E thực
thấp thì hầu như giá các cổ phiếu luôn tăng lên. Nếu chúng quá cao, giá các cổ phiếu luôn hạ
xuống.
Và chỉ số P/E cũng chỉ thực sự có ý nghĩa trong việc xác định giá cổ phiếu khi thị
trường chứngkhoán đã phát triển tương đối với nhiều công ty cùng ngành nghề, cùng quy mô
được niêm yết. Khi đó, chỉ cần nhân hệ số P/E với lợi nhuận mỗi cổ phiếu là có thể xác định
một cách tương đối giá trị của cổ phiếu (P

0
= P/E x EPS). Đây là cách xác định giá cổ phiếu
thường nhanh nhất và đơn giản nhất.
Theo phương pháp định giá này, về mặt lý thuyết chúng ta có thể áp dụng một trong
hai cách sau:
- Lấy P/E bình quân toàn ngành mà công ty đó tham gia hoặc P/E của một công ty có
cổ phiếu được giao dịch rộng rãi có cùng tỷ lệ lợi nhuận, độ rủi ro và mức tăng trưởng tương tự
nhân với EPS của công ty cần định giá.
- Đối với công ty có tốc độ tăng trưởng đều đặn, P/E được tính theo công thức sau:
P/E
=
(1-b) x (1 + g)
r - g

Trong đó, b là tỷ lệ thu nhập giữ lại, bằng [1-(Cổ tức/EPS)].
Giá cổ phiếu của công ty đó sẽ được xác định bằng cách nhân hệ số P/E này với EPS
của công ty.
Mặc dù vậy, P/E không phải là con số kỳ diệu. Tỷ số này được dùng để có được một
thước đo tương đối về giá cổ phiếu mà thôi. Không nên hiểu nó một cách biệt lập, mà nên so
sánh nó với P/E bình quân của ngành.
Theo xu hướng trên thị trường chứng khoán các nước trên thế giới, các nhà đầu tư
thường chấp nhận các công ty có hệ số P/E cao nếu hoạt động trong các lĩnh vực như ngân
hàng, tài chính chứng khoán, công nghệ tin học, công nghệ sinh học, viễn thông hay các
ngành sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.
Tại Việt Nam hiện nay, các chuyên viên tài chính nhận định P/E tại thị trường Việt Nam
từ 8 - 15 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân hàng hoặc các công ty có uy tín thì P/E
tại thị trường Việt Nam từ 10 - 15 lần và những lĩnh vực khác có thể dưới 10.
Điểm hạn chế của việc sử dụng hệ số P/E là nó được tính dựa vào lợi nhuận của năm
trước nên thường không chính xác, nhất là dùng P/E để phân tích các công ty chỉ vừa mới sinh
lời. Do đó, một cách khắc phục sự hạn chế của hệ số P/E này là sử dụng P/E trong tương lai

(P/E1), nghĩa là P/E được tính dựa trên lợi nhuận của năm tới. Khi đó, tỷ số này được tính dựa
trên mô hình chiết khấu cổ tức.
Tuy nhiên, việc dự đoán lợi nhuận của năm tới sẽ không hoàn toàn chính xác, và đó
cũng là lý do khiến nhiều nhà đầu tư còn do dự. Nhưng kinh nghiệm chỉ ra rằng, một hệ số P/E
tốt để mua cổ phiếu là P/E thấp hơn mức tăng lợi nhuận hàng năm của công ty.
Để có thể định lượng một cách chính xác hơn về giá trị của cổ phiếu, cần thiết phải đi
sâu vào phân tích các yếu tố phi định lượng khác có nh hưởng tới kết quả tính toán bởi vì giá
trị của một cổ phiếu luôn dao động thất thường mà không vì một lý do gì cả. Đồng thời, không
nên lấy các giá trị trước đây làm dấu hiệu của các giá trị tương lai. Số liệu mới vừa xảy ra có
thể cung cấp thông tin về kết quả tương lai nhưng chính các số ước tính về cổ tức và thu nhập
trong tương lai quyết định giá trị của cổ phiếu công ty./.
Chiến lược đầu tư cổ phiếu
được viết bởi Dzung ngày
02/12/2003
Đánh giá của bạn
1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn
cần đăng nhập (login))
Khi đã quyết định đầu tư vào cổ phiếu, nhà đầu tư cần phải xác định xem mình là
nhà đầu tư dài hạn hay ngắn hạn, mục tiêu đầu tư và mức độ rủi ro có thể chấp
nhận để xây dựng một chiến lược đầu tư cho phù hợp.
Chiến lược có thể rất đơn giản, và có thể không hơn gì một quan điểm đầu tư
thông thường. Thế nhưng căn cứ vào một số cơ sở logic nào đó sẽ tốt hơn chọn lựa
theo kiểu hú hoạ. Sau đây là một số chiến lược đầu tư chính:
1.Mua rồi giữ luôn
Mua cổ phiếu của những công ty làm ăn phát đạt rồi giữ luôn để hưởng cổ tức và
lãi vốn. Đây là chiến lược đầu tư lâu dài, có thể đem lại lợi nhuận và không đòi hỏi
nhà đầu tư phải quan tâm theo dõi các tin tức tài chính hàng ngày. Chiến lược này

xuất phát từ những kết luận cho rằng, trong quá khứ giá chứng khoán luôn tăng
một cách đều đặn và giá trị của khoản đầu tư sẽ tăng lên. Thêm vào đó, nhà đầu tư
còn nhận được cổ tức hàng năm và cổ phiếu có thể được phân tách. Tuy không có
gì đảm bảo cho việc phân tách sẽ đem lại lợi ích cho nhà đầu tư nhưng thực tế thì
giá trị của các khoản đầu tư thường tăng lên nhờ nghiệp vụ này.
Nhưng lưu ý rằng, mua rồi giữ luôn là một chiến lược đúng nhưng đừng thực hiện
điều đó một cách mù quáng. Cổ phiếu thường tăng giá qua thời gian nhưng điều đó
không phải luôn đúng với mọi cổ phiếu. Không một cổ phiếu nào luôn tăng giá
trong một thời gian dài. Bởi vậy, thỉnh thoảng nhà đầu tư cũng phải xem xét lại
tình hình hoạt động của công ty để có quyết định thích hợp.
Và luôn nhớ rằng không được mua cổ phiếu với giá quá cao, dù đó là cổ phiếu tốt.
Bởi lẽ, khi nó mất giá thì có thể phải mất nhiều năm mới thu lại được khoản tiền
đã đầu tư. Do vậy, hãy quan tâm đến việc định giá cổ phiếu trước khi mua. Kiểm
tra xem cổ phiếu đó có đắt không bằng cách so sánh tỷ số P/E của nó với các công
ty trong cùng lĩnh vực hoạt động và mức bình quân của ngành. Một số cổ phiếu tốt
sẽ có giá đắt hơn nhưng có thể là một cổ phiếu đáng đầu tư nếu mức tăng trưởng
lợi nhuận, doanh thu dự kiến là khả quan.
2.Mua khi giá hạ
Khi nhìn thấy giá trị đầu tư của mình giảm xuống, cũng là lúc nhà đầu tư phải mua
thêm nhiều cổ phiếu giống như vậy. Điều này nghe giống như ném tiền qua cửa sổ.
Tuy nhiên, loại cổ phiếu sẽ đầu tư là loại cổ phiếu có giá thay đổi rất nhiều trong
một thời gian dài và giá tăng trở lại mỗi khi giá sụt xuống mức thấp nhất, và mức
giá cao nhất và thấp nhất cách nhau từng nhiều năm. Như vậy, dù cho cổ phiếu
đang biến chuyển bất lợi như thế nào đi nữa, chúng ta cũng có thể trông đợi giá sẽ
tăng trở lại như nó vẫn luôn như vậy và chính điều này sẽ đem lại lợi nhuận cho
các nhà đầu tư trong một tương lai không quá xa.
Nhiều nhà đầu tư thực hiện chiến lược này theo cách khi giá giảm (tăng) cực điểm
và tăng lên (giảm xuống) một mức X nào đó thì mua vào (bán ra). Chiến lược này
có thể giúp cho nhà đầu tư tránh được những rủi ro phát sinh do việc mua vào khi
giá cao và bán ra khi giá thấp. Sự thua lỗ chỉ có thể xảy ra khi nhà đầu tư bán ra ở

mức giá dưới mức bình quân. Ngược lại, khi bán ra ở mức giá trên mức bình quân
thì nhà đầu tư sẽ có lãi.
Tuy nhiên, nắm giữ cổ phiếu trong trường hợp giá liên tục rớt sẽ đem lại nguy cơ
thua lỗ nghiêm trọng. Do đó, nên bán khi giá của chúng đã giảm tới 8% hoặc hơn
và chuyển sang đầu tư vào một loại cổ phiếu khác.
3.Mua dựa
Mua bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên quy luật số đông. Nhà đầu tư theo chiến lược
này cho rằng thị trường không thể có phản ứng kịp thời với những dữ liệu thống kê
và tình hình kinh tế một cách chính xác. Theo họ, nếu có một nhóm người (vừa đủ)
lạc quan về thị trường họ sẽ mua cổ phiếu cho đến khi giá lên cao một cách phi lý.
Ngược lại, khi họ bắt đầu bi quan thì họ sẽ bán ra, bất chấp những điều kiện cơ bản
lúc đó thế nào. Lúc đó, họ có thể làm cho giá xuống một cách phi lý.
Hành động mua cổ phiếu theo nhóm người này có thể mang lại lợi ích và sự an
toàn. Tuy nhiên, nhiều người thực hiện chiến lược này một cách cứng nhắc đã phải
mua với giá cao và bán với giá thấp. Lời khuyên được đưa ra: “Đừng mua khi số
người mua nhiều hơn số người bán, nếu không cẩn thận thì có thể phải chi số tiền
nhiều hơn cần thiết. Đừng bán khi số người bán nhiều hơn số người mua, nếu cứ
bán thì chỉ có thể kiếm được vài xu lời mà thôi”.
4.Mua cổ phiếu của những công ty nhỏ
Tiềm năng tăng giá là sự hấp dẫn các nhà đầu tư áp dụng chiến lược này. Những
công ty nhỏ có xu hướng đạt được mức lợi nhuận cao hơn công ty lớn, nhất là
trong thời kỳ lạm phát kéo dài và nằm ở mức cao. Tuy nhiên, cổ phiếu của các
công ty nhỏ có xu hướng mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu của các công ty lớn
trong giai đoạn này. Ngoài ra, giá cổ phiếu các công ty nhỏ biến động nhiều hơn và
thường không theo kịp chỉ số giá trung bình của thị trường trong dài hạn. Do đó,
cổ phiếu của những công ty nhỏ không phải để mua và giữ dài hạn.
Cổ phiếu của những công ty nhỏ có thể bất ngờ tăng giá dữ dội hay hạ giá dữ dội.
Tuy nhiên, nó tăng giảm theo ngành nghề. Nếu một ngành đang tăng lên, hãy mua
một vài cổ phiếu của các công ty nhỏ tốt nhất trong đó. Một trong các ngành đang
đầu tư đi xuống, hãy bán hết cổ phiếu của các công ty nhỏ trong ngành đó. Do đó,

khi áp dụng chiến lược đầu tư này, nhà đầu tư phải theo dõi thật sát sự phát triển
của nó để đảm bảo rằng nó vẫn luôn luôn đáp ứng đủ các tiêu chuẩn. Đó là làm ăn
có lãi, tỉ lệ gia tăng cổ tức trên 10% trong vòng 5 năm, tỉ lệ nợ trên vốn cổ phần
thấp, lưu lượng tiền mặt tự do cao và tỉ lệ P/E thấp. Nếu P/E cao thì tỷ lệ gia tăng
lợi nhuận cũng phải cao.
Với kỹ năng, kinh nghiệm và sự kiên nhẫn, cổ phiếu của các công ty nhỏ sẽ mang
lại cho nhà đầu tư nhiều phần thưởng.
5.Mua cổ phiếu tăng trưởng
Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những công ty có doanh số, thu nhập và thị
phần đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và người ta
mong rằng nó còn tiếp tục chứng tỏ mức tăng trưởng lợi nhuận cao. Các công ty
này thường quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu và phát triển cho nên phần lớn
lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư. Do vậy, cổ tức thường thấp. Tuy nhiên, tìm ra
và chọn được một cổ phiếu tăng trưởng không phi là việc ai cũng làm được. Nó
đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và khả năng phân tích thị trường.
Các công ty tăng trưởng thường là những công ty có sản phẩm hoặc dịch vụ tân
tiến, có khả năng nắm bắt và đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và mới mẻ của
xã hội (lĩnh vực tiêu dùng, công nghệ cao và sinh học ).
Thông thường, các công ty tăng trưởng có tỷ số P/E cao; vốn cổ phần lớn hơn hoặc
bằng tổng nợ; tăng trưởng đều đặn, không ngừng trong thu nhập tính theo đầu cổ
phiếu ít nhất là 10%/năm.
Một số nghiên cứu cho thấy, những công ty đã từng đạt mức thu nhập thực tế cao
hơn mức thu nhập dự đoán thì có nhiều khả năng sẽ lặp lại được thành tích đó
trong tương lai.
Phần thưởng dành cho các nhà đầu tư cổ phiếu tăng trưởng rất hấp dẫn. Nhiều
người đã làm giàu nhờ biết lưu giữ những cổ phiếu tăng trưởng đích thực trong
một thời gian dài.
Một nguy hiểm lớn cho những người đầu tư cổ phiếu tăng trưởng là chạy theo cái
mốt nhất thời. Khi công ty có một sản phẩm hay dịch vụ mới, họ cho rằng nó có
khả năng tăng trưởng mạnh và cứ hỏi mua cổ phiếu đó với giá cao. Tuy đó là

những cổ phiếu tốt nhưng được đánh giá quá cao sẽ có phản tác dụng và trong
trường hợp đó nhà đầu tư không kịp thanh toán sẽ bị lỗ nặng. Do đó, cần phân biệt
tăng trưởng dài hạn với bộc phát tức thời. Các nhà đầu tư cổ phiếu tăng trưởng
phải biết cách nhìn vượt lên trên các biến chuyển giá cả trong ngắn hạn của chứng
khoán, từ chối dứt khoát việc trả giá quá cao cho sự tăng trưởng. Mức giá hợp lý
để mua cổ phiếu tăng trưởng là khi PEG nhỏ hơn 1 (P/E chia cho tốc độ tăng
trưởng dự đoán G).
Mục tiêu của cổ phiếu tăng trưởng nên được xem xét đánh giá hàng năm, hàng
quý, thậm chí là hàng tháng. Tuy nhiên, khi đánh giá hàng tháng, nhà đầu tư cần
tránh phản ứng quá nhạy cảm và bán cổ phiếu ra quá sớm khi nhận thấy sự sút
giảm mức độ tăng trưởng.
6.Đầu tư giá trị
Đầu tư giá trị là việc tìm kiếm các cổ phiếu có giá thị trường thấp hơn giá trị của
nó và có triển vọng trong tương lai. Tuy nhiên, nhà đầu tư có thể không đồng ý
được với nhau thế nào là một cổ phiếu bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó.
Theo Graham và Dodd thì chúng phải đáp ứng được những tiêu chuẩn sau:
- Giá trị kế toán của một cổ phần thấp hơn giá thị trường của nó.
- Giá cổ phần bằng hoặc thấp hơn 50 lần thu nhập đầu cổ phần chia cho lãi suất
của trái phiếu công ty loaại AAA tính theo số nguyên.
- Giá cổ phần bằng hoặc thấp hơn 150 lần tỷ lệ lợi tức cổ phần chia cho lãi suất của
trái phiếu công ty loại AAA.
Tuy nhiên, không phải nhà đầu tư nào cũng áp dụng cứng nhắc theo những tiêu
chuẩn này. Việc tìm ra các cổ phiếu đang bị thị trường đánh giá thấp là một công
việc hết sức khó khăn, tốn nhiều thời gian nghiên cứu. Trong một số giai đoạn nào
đó của chu kỳ thị trường, các cổ phiếu "giá trị" gần như không ai được biết đến.
Thay và đó, người ta chỉ chú ý đến những công ty tăng nhanh lợi nhuận, hoặc
những công ty có công nghệ mới, hoặc những công ty tỏ ra năng động hơn.
Cũng giống như đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng, đầu tư giá trị cũng phải rất kiên
nhẫn. Nhà đầu tư giá trị phải chờ thị trường thừa nhận là đã đánh giá thấp cổ phiếu
của họ và sẽ trả giá cao hơn cho những cổ phần đó.

Một số nguyên tắc khi thực hiện chiến lược này:
- Không nhằm vào những cổ phiếu được ưa chuộng và không đưa ra những phán
đoán mạo hiểm về tốc độ tăng trưởng của công ty trong tương lai.
- Tỷ số giá cả/giá trị sổ sách nhỏ hơn 2,5.
- Lợi suất cổ tức cao và nhất quán.
- Tỷ số P/E thấp.
- Tốc độ tăng trưởng trung bình 7% (bởi cổ phiếu của các công ty có tốc độ tăng
trưởng cao sẽ giảm giá rất mạnh khi có sự giảm sút về lợi nhuận).
- Mức vốn hoá của công ty thấp.
- Công ty có khối lượng tiền mặt dồi dào và đang gia tăng.
- Hệ số thanh toán hiện tại bằng 2.
- Bán dần lượng cổ phiếu nắm giữ khi nó đã đem lại 70% lợi nhuận mong đợi
trong khoảng 3 năm trở lại kể từ lúc mua.
- Bán khi thị trường tăng giá, và mua khi thị trường giảm giá. Nghĩa là mua khi các
nhà đầu tư khác ghét bỏ và bán khi hầu hết các nhà đầu tư bắt đầu trở lên yêu thích
cổ phiếu đó.
7.Mua cổ phiếu của những công ty quen thuộc, lĩnh vực quen thuộc
Đó là cổ phiếu của các công ty thường xuyên được tiếp xúc, được quan sát hay
đơn giản là sản phẩm của công ty đó được nhà đầu tư thường xuyên mua. Cũng có
khi chỉ vì thích sản phẩm của công ty đó hoặc do ảnh hưởng bởi danh tiếng hay
mối quan hệ quen biết mà họ quyết định đầu tư vào công ty đó. Đây có thể là một
sự khởi đầu tốt nhưng cần phải biết kỹ hơn về công ty dự định sẽ đầu tư.
Điểm hạn chế của chiến lược này là sự chủ quan, chỉ nhắm vào các khía cạnh
phiến diện về công cuộc kinh doanh của công ty mà thôi. Và nó hạn chế nhà đầu tư
vào một hoặc hai ngành nghề. Đầu tư theo chiến lược này đòi hỏi sự nhạy bén
trước các sự kiện mới mẻ. Nhiều công ty có vẻ xa lạ nhưng nếu chịu khó tìm hiểu
thì có thể thấy đó thực sự là một cổ phiếu tốt đáng để khai thác. Qua việc nghiên
cứu, cảm nhận riêng về một loại cổ phiếu có thể được xác nhận hay bị bác bỏ.
Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được rất nhiều.
8.Mua cổ phiếu thượng đẳng

Cổ phiếu thượng đẳng là cổ phiếu của các công ty lớn có tiếng tăm, tiềm lực tài
chính mạnh, thành tích kinh doanh vững chắc, lợi nhuận ổn định. Việc nắm giữ cổ
phiếu này sẽ giảm thiểu yếu tố rủi ro, ngay cả trong thời kỳ suy thoái hay khủng
hoảng kinh tế, nhưng thành tích của nó hiếm khi nổi bật. Chiến lược này phù hợp
với những nhà đầu tư ngại rủi ro và muốn có thu nhập đều đặn.
Để góp phần làm lên sự thành công khi áp dụng các chiến lược đầu tư nói trên,
một số trường hợp và dấu hiệu bán cổ phiếu sau đã được đúc kết nhiều năm qua từ
những kinh nghiệm của các nhà đầu tư trên khắp thế giới.
Nên bán cổ phiếu khi:
- Các lý lẽ ban đầu dùng để quyết định mua cổ phiếu là sai lầm hoặc không còn
nữa.
- Công ty không còn giữ vị trí đứng đầu như trước kia nữa.
- Những người quản lý hàng đầu bắt đầu bán cổ phiếu hoặc rời bỏ khi công ty trở
lên suy yếu.
- Công ty đang trong tình trạng bất lợi do sản phẩm chính của công ty bị cạnh
tranh bởi những sản phẩm có ưu thế hơn làm cho thị phần của công ty bị giảm sút.
- Mức chênh lệch giá đã đáp ứng được mục tiêu đề ra.
- Các chỉ tiêu dự báo thuộc phân tích căn bản hạ thấp xuống. Dù vì lý do nào đi
nữa cũng nên bán cổ phiếu đi.
- Giá tăng đột ngột và giá đóng cửa cao hơn nhiều so với những ngày tăng giá
trước đó.
- Trong suốt năm vừa qua, giá tăng liên tục trên 50% (giá hiện hành nhiều hơn 1,5
lần giá thấp nhất).
- Giá không tăng trong 13 tuần.
- Có khối lượng giao dịch lớn nhất kể từ thời điểm nó bắt đầu lên giá.
- Giá tăng nhanh trong 2-3 tuần liên tục và đang có xu hướng xuống.
- Giá tăng mạnh trong 1-2 tuần sau khi được phân tách.
- Cổ phiếu lên giá kèm theo sự xuất hiện của những tin tức tốt liên quan.
- Giá tăng nhưng khối lượng giao dịch giảm.
- Khối lượng giao dịch tăng nhưng giá không tăng.

- Ai cũng biết là giá đang đi lên.
- Lợi tức cổ phần của từng quý bắt đầu tăng chậm lại hoặc giảm đi trong 2 quý liên
tục.
- Bán khi nảy sinh tình huống tạo điều kiện cho bạn tăng tài khoản của mình thông
qua việc mua các cổ phiếu có tiềm năng tốt hơn.
- Cân bằng danh mục đầu tư (khi có một cổ phiếu chiếm tỷ trọng quá lớn) hoặc
không hài lòng về danh mục đầu tư hiện tại.
- Cổ phiếu ở trong giai đoạn giá xuống lần thứ hai.
- Bán khi được gọi góp tiền bảo chứng đầu tiên.
Sự trì hoãn là kẻ thù của nhà đầu tư. Cũng giống như khi mua, đã quyết định bán
cổ phiếu thì phải bán thật nhanh, nếu có thể./.
Trước khi quyết định đầu tư, bạn đã thực sự hiểu công ty cổ phần tới mức nào ?
Nguồn Quang Huy , sưu tập
bởi nga ngày 18/05/2003
Đánh giá của bạn
1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn
cần đăng nhập (login))
Rất nhiều bạn khi đã quyết định mua cổ phiếu của một công ty cổ phần rồi, vẫn còn chưa
biết rõ về công ty đó. Một số còn tệ hơn nữa là chỉ mới nghe nói tới là công ty đó nghe đồn là
tốt, mà không có một nỗ lực nào để tìm hiểu cho biết đích xác. Có nhiều bạn còn nói là không
có cách nào để tiếp cận lấy được thông tin của công ty đó, và có mà không hiểu gì cả. nếu vậy
chỉ có một lời khuyên duy nhất là bạn nên nhờ một công ty tư vấn nào có uy tín để giúp bạn
và giải thích cặn kẽ cho bạn về công ty bạn dự định đầu tư. Còn nếu bạn là người muốn tìm
hiểu kỹ về một công ty cổ phần trước khi đầu tư thì cần phải tìm hiểu công ty đó qua các lãnh
vực sau đây:
1. Doanh thu của công ty có tăng không? Nếu tăng thì tăng theo mức độ nào. Doanh số
này sẽ căn cứ vào hoạt động chính của công ty, chứ không thể căn cứ vào các hoạt

động phụ như đầu tư tài chánh hay địa ốc của công ty .
2. Lợi nhuận trước thuế và sau thuế: Lợi nhuận này bắt buộc tăng theo doanh số của công
ty. Nếu doanh số tăng mà lợi nhuận không tăng! Hãy coi chừng vì chi phí của công ty
quá nhiều, nên lợi nhuận không thể tăng được. Đây là dấu hiệu xấu cho công ty cổ
phần. Như vậy bạn cần phải xét tới lợi nhuận biên tế (profit margin) của chính công ty
đó, trước khi có quyết định đầu tư.
3. Sản phẩm và thị phần của công ty đó: Đầu tư vào một công ty có nghĩa là đóng góp
tiền vào một công ty đó để sản xuất hay cung cấp dịch vụ, bạn cần phải hiểu rõ về sản
phẩm này hiện nay có phải thế mạnh của công ty không? Và sản phẩm này đã chiếm
được bao nhiêu thị phần trên thị trường. Thông thường bạn nên chọn những công ty
hàng đầu của một lãnh vực sản xuất nào đó. Bởi vì công ty hàng đầu có lợi thế về
kinh doanh hơn nhiều so với các công ty đứng hàng thứ hai thứ ba… Như vậy yếu tố
thị phần cần được chú ý.
4. Chiến lược kinh doanh của công ty: trong hiện tại và tương lai. Theo mức đánh giá của
bạn thì chiến lược này có khả thi không? Một khi chiến lược công ty sai sẽ làm cho
công ty bị thua lỗ, và bạn sẽ là nạn nhân của công ty khi giá cổ phiếu đi xuống.
5. Thành phần Hội Đồng Quản Trị và Ban Giám Đốc công ty có thực sự giỏi hay không?
Nếu không thì bạn đã đưa tiền để đầu tư nhầm công ty rồi đó!
6. P/E: Tỷ lệ giá thị trường/tiền lời công ty có quá cao không? Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro
cho bạn càng nhiều. Cần phải chú ý, tỷ lệ thấp thì tốt hơn
7. Mức trả cổ tức của công ty như thế nào? Bạn cần hoạch định lại chiến lược của bạn,
mua cổ phiếu để nhận cổ tức hay mua cổ phiếu để kiếm chênh lệch giá?
8. Các công ty đối thủ đối với công ty bạn định đầu tư như thế nào? Mạnh hơn? Yếu hơn?
Giỏi hơn? Sản phẩm tốt hơn và giá bán rẻ hơn? Bạn cần phải áp dụng đúng câu nói
trong bình pháp Tôn Tử “ Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”
9. Số lượng cổ phiếu của công ty bạn đầu tư nhiều hay ít? Nếu ít sẽ lợi và hại về điểm
nào? Nếu công ty có nhiều cổ phiếu thì lợi và hại ở điểm nào?
10. Cuối cùng là thành phần cổ đông của công ty mà bạn muốn đầu tư là ai? Các nhà đầu
tư tài chính? Các nhà đầu tư có tổ chức? Các nhà đầu tư nhỏ? Công ty giữ một số lớn
cổ phiếu. Những yếu tố này rất quan trọng cho giá thị trường của cổ phiếu. Một

nguyên tắc là nếu cổ đông là pháp nhân giàu có đầu tư vào công ty đó thì sẽ ảnh
hưởng rất mạnh tới giá cổ phiếu, hơn là những nhà đầu tư lẻ tẻ, ít tiền.
Số đông luôn đúng!
Nguồn Bùi Anh Kim , sưu
tập bởi nga ngày
18/05/2003
Đánh giá của bạn
1 2 3 4 5

C?p nh?t
( Chú thích: bạn
cần đăng nhập (login))

Ai là những người đang thua lỗ trên thị trường chứng khoán? Một số người thất
bại vì họ không biết mình đang làm gì trên thị trường chứng khoán. Nghe có vẻ vô lý
nhưng có rất nhiều người có kiến thức cao siêu về chứng khoán cũng thất bại thảm hại.
Nhiều người lại thành công nhờ những triết lý đầu tư đơn giản. Theo dõi đối tượng tham
gia TTCK trong 3 năm qua, tôi nhận thấy thế này:
Trong 6 tháng hoạt động đầu của thị trường, đối tượng tham gia chủ yếu là những
người tương đối có kiến thức về tài chính và chứng khoán và có máu mạo hiểm. Các cựu
sinh viên từng được đào tạo khá bài bản về TTCK tại Học viện Ngân hàng Tp.HCM cho
biết phần lớn những sinh viên đã tìm hiểu về TTCK tại đây (khoảng 5000 người) không
dám tham gia TTCK trong những tháng hoạt động đầu tiên vì sợ. Họ cảm thấy sợ bởi vì
TTCK Việt Nam là một đồ hình giản đơn so với những gì họ đã từng học. Điều này có thể
giải thích tại sao giới chuyên môn liên tục hô hoán về hiện tượng “giá ảo” trong suốt thời
gian thành lập thị trường.
Từ khoảng đầu tháng 3/2001 trở đi, nhiều người am tường những lý thuyết về
TTCK bắt đầu tham gia TTCK; trong đó có nhiều vị làm công tác nghiên cứu kinh tế và
giảng dạy về tài chính - chứng khoán tại các đại học. Sau cú té ngã đầu tiên của TTCK,
tháng 6/2001 đến hết năm 2002, những “chuyên gia” trong giới chứng khoán đã không

chấp nhận việc cổ phiếu giảm giá mãi. Nhiều vị học giả còn mạnh miệng khẳng định đi,
khẳng định lại rằng:”bây giờ là thời điểm tốt nhất để mua chứng khoán”. Đến lúc này, tất
cả những quan điểm uyên bác trên đều trật thực tế “1 dặm”.
Bạn hiểu gì về những lời thú nhận của giới học giả. Một vị đại diện UBCKNN sau
khi đã khẳng định về thời gian tốt nhất để mua cổ phiếu đã công khai cho biết:”tôi cũng
mua cổ phiếu với giá cao hơn bây giờ (thời điểm giữa năm 2002), tôi đã bán đâu”. Bạn có
thể tự an ủi rằng bạn không phải người thất bại duy nhất. Bạn có nhớ quỹ VFF đã mua cổ
phiếu BBC ở giá 23.000 đồng. Cũng có nhiều công ty chứng khoán đã mua cổ phiếu REE
và SAM ở giá trên 30.000 đồng/cp; thậm chí có những công ty mua tự doanh cổ phiếu
DPC với giá trên 30.000 đồng.
Trạng Trình dạy rằng:”khôn chết - dại chết - biết sống”. Nhiều nhà đầu tư đã rất
thành công trên TTCK. Điều chắc chắn là họ không vượt trội những người khác về kiến
thức hay về tiền bạc. Vấn đề ở chỗ họ thức thời đối với từng bước đi của thị trường.
Hiện nay hầu hết các cổ phiếu niêm yết đang giao dịch dưới cả giá trị sổ sách và
thấp hơn cả giá trị nội tại. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư như thế là chắc thắng. Thế
nhưng nhiều người “mặt dày – mày dạn” với thị trường đang án binh bất động. Có người
bảo với tôi rằng những lão làng của thị trường đang kiên nhẫn chờ đợi bởi họ biết rằng
nếu chỉ dùng sức của họ thì không nên trò trống gì; và họ biết đại đa số nhà đầu tư đang
cạn kiệt về tài chính, đang cố gắng xoa dịu những vết thương trước khi có thể thăng hoa
về tinh thần để thấy “tiền lại sinh ra tiền” trên TTCK.
+ Tôi nghĩ là mình có thể đầu tư vào cổ phiếu, vậy nên mua cổ phiếu nào?
Đây là một câu dễ hỏi, nhưng lại quá khó để trả lời cho bạn hài lòng ngay. Theo chúng tôi,
trước hết bạn nên trang bị cho mình một vốn kiến thức cơ bản về đầu tư cổ phiếu, sau đó sàng
lọc những thông tin mình thu thập được, đưa ra quyết định đầu tư một cách kỹ lưỡng, và sau
đó là thành thực và kiên định theo đuổi kế hoạch đầu tư của mình. Chúng tôi xin mượn câu nói
của Warren Buffet (tỷ phú giàu thứ 2 thế giới, nhà đầu tư thành công nhất thế kỷ 20) để giới
thiệu với bạn kiến thức nền tảng của đầu tư cổ phiếu:
“Nếu có thể chia con người ra thành ba nhóm: một nhóm biết đếm và một nhóm không biết
đếm thì có ba điểm cần phải lưu ý đặc biệt khi mua cổ phiếu:
• Cổ phiếu đó có phải của một công ty chất lượng cao đang tăng trưởng hay không

• Giá của cổ phiếu đó hiện nay có hấp dẫn hay không.”
Tất nhiên đây là cách nói “chơi chữ” nếu hiểu nôm na thì chỉ đơn giản là “ngay cả người không
biết đếm cũng cần phải đặc biệt chú ý tới chất lượng công ty và thời điểm đầu tư cổ phiếu của
công ty đó”
Vậy làm thể nào để biết được một công ty cổ phần là “chất lượng cao” và thời điểm đầu tư khi
giá còn hợp lý?. Có “ba” cách: một là chẳng làm gì cả, cứ gửi tiền đầu tư cho một nhà chuyên
nghiệp (quỹ đầu tư, nhà môi giới kinh nghiệm và có lương tâm) để họ ra quyết định (giả sử họ
cũng biết cất nhắc điểm cơ bản này); và hai là: phải tự học và phân tích lấy hoạt động của
công ty cũng như diển biến giá cổ phiếu của công ty đó trên thị trường.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có một quỹ đầu tư nào được thành lập, mà nếu có thì tương lai gần
cũng không phải dễ mở rộng đến đông đảo mọi người nên chắc là bạn cần tự mình tìm ra công
ty mình có thể đầu tư thôi. Theo chúng tôi thì cũng có “ba” cách để có thể bắt đầu:
• Qua những hiểu biết về một công ty, từ những sản phẩm mà công ty đó làm ra, rồi các
mối quan hệ xã hội giúp bạn biết tương đối rõ một công ty (ban lãnh đạo, khả năng
quản lý, chất lượng sản phẩm, tiềm năng), giúp bạn tin tưởng tương lai của công là
tốt.
• Nhờ các công cụ phân tích, thống kê cổ phiếu và thị trường chứng khoán (của
SSI.com.vn chẳng hạn), bạn tìm ra được những công ty tốt nhất theo tiêu chí của
mình.
Sau khi đã nhắm được một vài công ty có thể đầu tư, bạn lại cần dành thêm thời gian để
nghiên cứu kỹ hơn kết quả hoạt động của công ty, tài sản, bộ máy quản lý, thị trường hướng
hoạt động trong tương lai v.v. của công ty để khẳng định lại nhận xét ban đầu của mình.
Sau khi đã chọn được công ty ưng ý rồi lại cần xem giá cổ phiếu của nó hiện có “tốt” không,
khi nào là thời điểm nên mua, hàng hoá tốt thì tất nhiên thường có giá cao, tuy nhiên không
phải lúc nào toàn thị trường cũng đánh giá công ty đó đúng giá trị. Nếu cổ phiếu đó giá tốt thì
đương nhiên là cơ hội vàng của bạn rồi, nhưng nếu giá quá cao bạn cũng không nên “ngần
ngại” ngồi chờ, còn nhiều công ty tốt khác, và nhiều đợt dao động giá khác có thể mua. Để
đánh giá thế nào giá giá tốt, giá cao, xu hướng mua bán cổ phiếu đó hiện nay như thế nào bạn
cần có một công cụ theo dõi thị trường và phân tích giá. Chắc cũng không cần phải giới thiệu,
SSI.com.vn được xây dựng cũng nhằm mục đích này.

Bạn quan tâm đến công cụ thống kê thị trường: nhấp chuột vào đây
Bạn quan tâm đến công cụ phân tích cổ phiếu (bao gồm phân tích giá): ở đây
+ Chứng khoán là gì ?
Một cách đơn giản, chứng khoán bao gồm tất cả các loại giấy tờ có thể sinh lợi trực tiếp cho
chủ sở hữu, với giá trị như vậy bạn phải trả giá để có chứng khoán và tất nhiên là có thể mua
đi bán lại chừng nào không vi phạm pháp luật.
Tại Việt Nam chúng ta mới có hai loại chứng khoán là cổ phiếu và trái phiếu. Hiện tại trang
Web SSI.com.vn chúng tôi chỉ tập trung vào lĩnh vực cổ phiếu, lĩnh vực được coi là mạo hiểm
hơn, nhưng cũng là mảnh đất màu mỡ hơn.
+ Vậy cổ phiếu là gì ?
Cổ phiếu là đại diện thể hiện quyền sở hữu cổ phần trong một công ty cổ phần (công ty hợp
vốn bởi nhiều người mỗi người góp một phần nhất định trong tổng vốn của công ty được chia
đều thành các phần bằng nhau). Người sở hữu cổ phiếu có nghĩa là sở hữu một phần của công
ty và có quyền chiếm hữu, định đoạt, hưởng quyền lợi và tất nhiên là chịu cả trách nhiệm vật
chất từ công ty đó - tương ứng với lượng cổ phần mà mình sở hữu. Những quyền lợi này hấp
dẫn các nhà đầu tư, có người thì muốn có một lượng ít cổ phiếu trông chờ vào khả năng sinh
lợi và phát triển của công ty (đồng thời cũng là sự phát triển của cổ phần); những nhà đầu tư
lớn thì có thể mua lại cả một công ty hoặc một phần đáng kể của công ty để tăng tầm ảnh
hưởng của mình thông qua việc mua cổ phiếu.
Các công ty cổ phần làm ăn có lãi, phát triển nhanh và ổn định thì rất có lợi cho cổ đông
(người sở hữu cổ phiếu). Ngoài việc được hưởng cổ tức hàng năm, cổ phần trong tay họ cũng
không ngừng được tăng giá trị. Chính vì điều này mà cổ phiếu công ty tốt luôn là mục tiêu săn
đuổi của các nhà đầu tư.
Thế nào là đầu tư chứng khoán, có phải là “chơi” cổ phiếu không?
Chúng ta đã quá quen với từ “đầu tư”, nhưng từ này cũng được lạm dụng nhiều và đã trở nên
quá đa nghĩa, cũng như các nhà đầu tư, nhà nghiên cứu chứng khoán trên thế giới,
SSI.com.vn xem xét đầu tư là việc bạn bỏ một nguồn lực mà mình có (tiền bạc, công sức, trí
tuệ) vào một vật một việc để hy vọng có nguồn lợi trong tương lai. Đầu tư vào cổ phiếu là việc
huy động một nguồn vốn tiền mặt mà mình có để mua cổ phiếu và hy vọng sau một khoảng
thời gian (dài hay ngắn phụ thuộc vào mục tiêu của bạn) cổ phiếu lớn mạnh hơn và sẽ sinh lợi

cho bạn.
Trong thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, khi số người tham gia còn ít, kiến thức các
nhà đầu tư còn tương đối hạn chế, theo quan điểm của chúng tôi là không thể đầu cơ “chơi”cổ
phiếu thành công, tuy nhiên cơ hội còn rất nhiều cho những nhà đầu tư chân chính.
+ Vậy tôi có nên đầu tư vào cổ phiếu không?
Nếu bạn có một khoản vốn dành cho đầu tư thì cổ phiếu là một lĩnh vực rất hấp dẫn:
• Thứ nhất đầu tư cổ phiếu không cần quá nhiều tiền. Để bắt dầu bạn chỉ cần vài triệu
đồng, trong khi đầu tư mở cửa hàng, lập công ty, mua bất động sản thì cần vốn lớn
hơn rất nhiều.
• Thứ hai cổ đông được nhận cổ tức, nếu công ty làm ăn phát triển ổn định thì đây là
nguồn lợi tức tăng dần ổn định.
• Thứ ba, trong dài hạn cổ phiếu hứa hẹn mang lại rất nhiều lợi nhuận. Hai ví dụ điển
hình:
o Tại Mỹ không ai mà không biết Berkshire Hathaway của Warren Buffet, tỷ phú,
nhà đầu tư thành công nhất của thế kỷ 20. Những người đầu tư $1000 vào cổ
phiếu của Berkshire từ năm1956 thì đến thời điểm tháng 10 năm 2002 (một
năm tồi tệ của TTCK Mỹ) đang sở hữu $5 triệu.
o Tại Việt Nam, giới đầu tư chắc ai cũng biết đến "cá kình" Gemadept, những
người sở hữu công ty từ lúc công ty bắt đầu cổ phần hoá thì đến ngày
1/4/2003 (vào lúc TTCK Việt Nam bị khủng hoảng tâm lý và rớt xuống đáy) giá
trị tài sản của họ cũng được nhân lên đến gần 100 lần (ai góp 10 triệu đồng thì
nay đã là tỷ phú). Còn những người “chậm chân” hơn, mua GMD từ lúc cổ
đông của công ty được bán cổ phiếu ra bên ngoài thì cũng được nhân lên ngót
nghét dăm ba chục lần; đó là chưa kể những khoản cổ tức rất lớn hàng năm
công ty chia cho cổ đông.
Tuy nhiên cũng không khó khi tìm ra những ví dụ về những người khuynh gia bại sản vì cổ
phiếu (thì cũng như khánh kiệt vì công ty, địa ốc bị đóng băng, tịch thu ). Điểm mấu chốt là
bạn cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản và có chính kiến của riêng mình.
Người ta có thể nói với bạn: “mua cổ phiếu cũng dễ như việc mua mớ rau ở chợ”, không sai,
tuy nhiên ngay cả việc mua rau gì ăn cho ngon, mớ nào cho tươi, giá nào cho hợp lý thì thực

sự cũng không đơn giản rồi.
Kiến thức chứng khoán
Phân loại Phân tích kỹ thuật
Chủ đề CANSLIM, phương pháp lựa chọn cổ phiếu hiệu quả
C-A-N-S-L-I-M, phương pháp lựa chọn cổ phiếu hiệu quả
C-A-N-S-L-I-M được liệt kê như là một công cụ phân tích kỹ thuật, một phưng pháp
lựa chọn cổ phiếu hiệu quả. Có thể coi C-A-N-S-L-I-M là sự kết hợp điển hình của
phưng pháp phân tích c bn và phân tích kỹ thuật trong đầu tư chứng khoán. C-A-N-
S-L-I-M do William J. O'Neil, một nhà "phù thuỷ" thị trường, người đứng đầu Công ty
nghiên cứu đầu tư William J. O'Neil & Company đề xướng.
C-A-N-S-L-I-M tượng trưng cho:
C = Current Quaterly Earnings Per Share (lãi ròng trên mỗi cổ phiếu của quý gần
nhất). Nghiên cứu của O'Neil cho thấy, hầu hết các cổ phiếu tốt đều có sự gia tăng
lợi nhuận so với cùng quý năm trước đó (tỷ lệ tăng càng cao càng tốt). Khi lựa chọn
cổ phiếu đầu tư, cần để ý tới các cổ phiếu có sự gia tăng lợi nhuận mạnh mẽ. Tuy
nhiên, khi đọc các báo cáo tài chính, cần để ý tới độ tin cậy và thống nhất của thông
tin (chẳng hạn như có thể có gì đó không đúng khi doanh thu của công ty tăng 20%
trong khi lãi ròng chỉ tăng 5%).
A = Annual Earnings Increases (sự gia tăng lãi ròng hàng năm). Theo O'Neil, cổ
phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm trước. Cần
đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và trên
25%. Tuy nhiên, cũng nên chú ý tới chu kỳ kinh doanh của từng ngành, từng công
ty. Theo O'Neil, tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khong 80% các cổ phiếu tồi.
N = New Products, New Management, New Highs (sn phẩm mới, ban qun lý/phưng
thức qun lý mới, giá cổ phiếu đạt độ cao mới). Thường phi có một nhân tố nội tại nào
đó dẫn tới việc tăng giá cổ phiếu và các yếu tố cần lưu ý là sn phẩm mới, ban qun lý
mới và độ cao mới của giá cổ phiếu.

×