Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đế quốc Hồi giáo - Mohamed sáng lập Hồi giáo 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.35 KB, 6 trang )

Đế quốc Hồi giáo - Mohamed sáng lập Hồi giáo
2

Mohamed thống nhất Ả rập
Sau mười năm hô hào thánh chiến, năm 621, đã ngoài ngũ tuần, ông mới bắt
đầu thực hiện mục tiêu. Ông họp các đệ tử ở tỉnh Akaba, hỏi ý kiến họ, họ thề sẽ
trung thành với ông và chiến đấu tới chết để truyền bá đạo.
Ông bảo họ:
- "Từ nay ta sẽ sống chết với các ngươi. Ai chết vì ta thì sẽ được lên Thiên
đường".
Khoảng bốn chục đệ tử thành lập một "Ikwan", một đoàn chiến sỹ sống chết có
nhau. Lần lần số chiến sỹ tăng lên hai trăm.
Hồi đó các bộ lạc Ả Rập đã có khuynh hướng thống nhất rồi. Trước Mohamed,
một vọng tộc ở Hedjaz, trong bộ lạc Coréischite, đã bắt đầu thực hiện được một
chút thống nhất về chính trị, tổ chức sự cai trị và sự tế tự ở La Mequec, nắm được
nhiều địa vị quan trọng trong xứ nhờ một chính sách ôn hòa có tính cách ngoại
giao nhiều hơn là chiến đấu: cho mọi bộ lạc tự ý dựng tượng thần ở Kaaba, tự do
thờ phụng, giúp đỡ tiền bạc, phân phối chức tước cho họ.

Mohamed ngược lại, bảo rằng chỉ có một vị thần chung cho mọi người Ả Rập,
và chỉ có mỗi một vị tiên tri là ông. Bộ lạc Coréschite nổi lên định thủ tiêu ông,
ông phải trốn khỏi La Mecque đúng cái đêm thích khách lại ám sát ông.
Người Hồi giáo gọi sự bôn tẩu này là Hégire và dùng năm đó, năm 622 để mở
đầu kỷ nguyên Hồi giáo. Hiện nay lịch của họ vẫn còn dùng kỷ nguyên ấy.
Hai năm sau, thấy đạo quân của mình đã đủ mạnh, ông dắt 311 bộ binh và 3 kị
binh thình lình tấn công bộ lạc Coréischite và toàn thắng ở Beder[8]. Chiến thắng
đầu tiên đó làm cho tín đồ càng tin ông, và nhiều người trước kia do dự, nay tình
nguyện theo ông, chỉ trong ít tháng ông có được 1.500 kị binh.
Để trả đũa, bộ lạc Coréschite liên kết với 12 bộ lạc khác, đem mười ngàn quân
tới bao vây Médine. Mohamed không nghinh chiến, mà xây thành đào hào để cố
thủ. Lối phòng thủ ấy quân La Mecque cho là hèn nhát. Họ ngày ngày lại dưới


chân thành chửi bới nhục mạ thậm tệ, Mohamed nhẫn nhục chịu đựng. Mùa mưa
tới, địch không có chỗ ẩn náu; lương thực cạn dần, nấu nướng lại khó. Mọi người
đều ngã lòng, ý kiến lại xung đột. Không bao lâu 10.000 quân ô hợp của La
Mecque tự tan rã như cát bay trong cơn lốc (năm 627).
Họ rút lui hết rồi, Mohamed mới kéo quân tới mấy thị trấn nhỏ gần Médine, kể
tội dân Do Thái ở đó đã theo địch; ông giết hết 900 người đàn ông, còn đàn bà trẻ
con thì bán làm nô lệ.
Ông ký kết một cuộc ngưng chiến là mười năm với bộ lạc Coréischite rồi tấn
công các thương đội Do Thái, chiếm Khaibar, Fadac, Wadil Cora, Taima. Thấy
được Allah phù hộ, ông dắt theo hai ngàn kị binh hiên ngang hành hương ở La
Mecque. Danh ông vang lừng khắp miền Hedjaz. Các bộ lạc ở Nedjd nhận ông
làm "lãnh tụ Ả Rập", xin được theo ông trong các chiến dịch
Bộ lạc Coréischite thấy vậy càng tức, phá hiệp ước đình chiến; ông đem mười
ngàn kị binh tới chân thành La Mecque. Một số đông dân cư trong thành hoảng sợ,
bỏ trốn ra ngoài, còn quân lính giữ thành do Abou Sophian chỉ huy không chiến
đấu mà đầu hàng (630). Abou Sophian còn xin dâng một người con trai để làm đệ
tử Mohamed. Chính người con đó, Moawiah, sau thành một danh tướng trong đạo
quân Hồi giáo và sáng lập giòng vua Ommeyade.
Nhận sự đầu hàng của Abou Sophian rồi, ông vào đền, lật đổ hết các tượng
thần, phá hủy hết các bàn thờ dị giáo, bảo: "Ánh sáng đã hiện thì bóng tối phải
lui!". Uy tín ông lúc này càng tăng, quân đội càng hăng hái chiến đấu vì tin rằng
quả thực Allah che chở ông. Ngay bộ lạc Coréỉschite cũng theo Hồi giáo.
Từ khắp nơi trong bán đảo, các bộ lạc lại La Mecque để tỏ lòng trung thành với
Giáo chủ. Các tù trưởng Taif, Hadramaout, Oman, Hasa Banrein, Hail đều nguyện
theo đúng kinh Coran, gởi binh sỹ lại để gia nhập đạo quân Ikwan. Bộ lạc Yemen
còn trù trừ, Mohamed phái một tướng đem quân tới trừng phạt.
Tới cuối năm 631, danh vọng ông tới tột đỉnh, quyền hành lan khắp bán đảo,
kinh Coran được truyền bá khắp nơi. Mọi người sợ ông như sợ Chúa Allah. Chưa
bao giờ ở Ả Rập một quốc vương được tôn sùng như ông.
Sở dĩ ông thành công là nhờ xã hội Ả Rập lúc ấy đã tới một trình độ mà tôn giáo

đa thần không thích hợp với sự tiến hóa nữa. Các giống dân du mục đã bắt đầu
định cư và ranh giới giữa các bộ lạc đã bắt đầu bị xóa bỏ; các giống dân phải hòa
hợp với nhau để tạo thành một quốc gia mạnh hơn có một nền kinh tế thống nhất,
một đạo quân hùng cường chống nổi ngoại xâm.
Ngoài lý do xã hội và lịch sử ấy, ta có thể kể thêm tính cách chiến đấu mạnh mẽ
của quân lkwan, họ nhất quyết đánh ngã đối phương bằng mọi phương tiện, kể cả
phương tiện khủng bố.
Tính cách đó, chính Mohamed tạo ra cho họ.
Lý do thứ ba là tính tình của vị giáo chủ Mohamed vừa có tài ngoại giao, vừa có
nhiều thủ đoạn, biết tùy lúc dùng võ lực hay điều đình, tấn công hay nhượng bộ;
nghĩa là có đủ tư cách của "một quốc vương Ả Rập".
Đối với sỹ tốt, ông dùng thuật tâm lý, những lời lẽ bóng bảy, để kích thích óc
tưởng tượng và lòng tin của họ. Ngồi một chiếc ghế thô sơ, dưới gốc một cây chà
là, ông thân mật giảng kinh Coran cho họ rồi bảo:
- Khi ta bị vây ở Médine, đích thân ta cầm cái cuốc để đào hào. Lưỡi cuốc làm
tóe ra ba tia lửa: tia lửa thứ nhất báo rằng Yemen sẽ thần phục ta; tia thứ nhì báo
rằng Ba Tư và phương Đông sẽ bị xâm chiếm; tia thứ ba sẽ ứng vào Ai Cập và
phương Tây. Biết bao chiến thắng vẻ vang chờ đợi các binh sỹ của ta.
Yemen đã chiếm được một cách rất dễ dàng thì ai mà không tin ràng hai điều
sau sẽ ứng nốt. Ở giữa sa mạc khô cháy mà tưởng tượng cái ngày vào Damas,
Bagdad chiếm những của cải tích luỹ ở đó cả ngàn năm, bắt cóc các nàng tiên
trong các vườn hồng, vườn cam thì lòng ai mà chẳng phấn khởi.
Ông sai thảo các bức thư gởi cho các "quốc vương trên mặt đất ", bảo họ có
muốn khỏi bị tiêu diệt thì mau mau theo Hồi giáo đi. Nhưng các sứ giả của ông bị
coi thường. Tên tù trưởng Ả Rập nào mà dám ăn nói lỗ mãng như vậy kìa? Nó
chưa ra khỏi sa mạc, chưa biết Quốc vương Ba Tư ra sao mà! Chosróè II, vua Ba
Tư, xé bức thư của Mohamed. Mohamed quát:
"Vương quốc của nó sẽ tan tành cho mà coi?". Quốc vương Damas cũng đáp
bằng một giọng khinh bỉ, bảo có gan thì cứ kéo quân tới.
Ông lại hành hương ở La Mecque lần cuối cùng rồi trở về Médine, gom tất cả

quân đội, được 140.000 người, tính kéo tới Syrie thì bị bệnh và mất năm 632.
Trước khi lâm chung một năm ông đã rót vào lòng tín đồ những lời dạy bảo
nhân từ mà nghiêm của một vi giáo chủ luôn luôn lo lắng cho cái trật tự xã hội mà
mình mới dựng lên, cần phải củng cố trong một thời gian lâu
Ông bảo họ:
"Hỡi thần dân, các con hãy nhớ kỹ lời của ta đây, vì không biết năm tới ta còn
sống với các con nữa không. Các con phải biết coi sinh mệnh, tài sản của đồng
loại là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
"Kẻ làm con thuộc quyền sở hữu của kẻ làm cha. Ai xâm phạm đến luật hôn
phối sẽ bị trừng trị.
"Ai nhìn nhận kẻ khác làm cha, coi kẻ khác làm thầy sẽ bị Chúa, bị các thiên
thần và bị nhân loại trừng phạt.
"Hỡi thần dân của ta, đàn ông có quyền tuyệt đối với đàn bà và đàn bà cũng có
quyền với đàn ông. Đàn bà không được phạm luật hôn phối, làm những việc dâm
ô. Nếu đàn bà phạm tội, các con có quyền giam họ trong phòng riêng dùng roi da
mà đánh, song đừng đánh mạnh quá. Nếu họ biết giữ mình thì nên cho họ ăn mặc
đầy đủ. Con nên trọng đãi vợ của con, vì họ là kẻ bị giam cầm trong tay con; họ
không có quyền hành gì cả trong những việc không liên quan đến họ. Con tin lời
Chúa mà cưới họ, con dùng lời Chúa mà ràng buộc họ với con.
"Đối với nô lệ, con dùng thức ăn gì thì cho họ dùng thức ấy; con mặc thứ vải gì
thì cho họ mặc thứ vải ấy. Nếu họ phạm một tội lỗi không thể tha thứ được thì con
nên đem bán họ đi, vì họ là nô lệ của Chúa, con không nên làm khổ họ".

Không một thánh kinh nào mà thực tế như kinh Coran. Không một giáo chủ nào
mà tổ chức đời sống tín đồ tỷ mỉ như Mohamed, một quốc vương kiêm quân sự
gia, luật gia. Trong xã hội hắc ám thời Trung cổ, loài người chỉ chực ám hại lẫn
nhau, dân tộc này coi dân tộc kia là thù địch, những lời tầm thường, giản dị mà
chân thành đó của ông được dân chúng Ả Rập rất tin phục. Họ thấy đức chúa tể
Allah ông dạy cho họ thờ phụng tuy đáng sợ mà cũng công bình, bác ái, khác hẳn
các vị thần tạp nhạp trước kia họ cúng vái.

Mohamed trước khi chết giao lại cho các tướng lãnh trách nhiệm "truyền bá lời
dạy của Chúa tới chân trời góc bể". Ông để lại cho họ một xứ Ả Rập thống nhất,
một đạo quân cuồng tín, đã có mười năm kinh nghiệm.
Ước vọng được lên Thiên đường hun đúc trong lòng họ, làm cho nhiệt huyết
của họ bừng bừng, và mười mấy vạn quân đó chỉ đợi lệnh của chủ tướng để xông
tới chinh phục thế giới.

×