Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

HOA KỲ MỞ RỘNG SANG PHÍA TÂY VÀ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC VÙNG doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127 KB, 6 trang )

HOA KỲ MỞ RỘNG SANG PHÍA TÂY VÀ SỰ
KHÁC BIỆT GIỮA CÁC VÙNG

GÂY DỰNG TÌNH ĐOÀN KẾT
Cuộc Chiến tranh 1812, xét từ góc độ nào đó, là cuộc chiến lần thứ hai giành độc
lập và khẳng định sự đoạn tuyệt vĩnh viễn của nước Mỹ với nước Anh. Khi chiến
tranh khép lại, nhiều khó khăn trầm trọng đặt ra với nền cộng hòa non trẻ kể từ
thời cách mạng giờ đã biến mất. Nhà nước liên bang theo Hiến pháp đã đem lại sự
cân bằng giữa tự do và trật tự. Cùng với khoản nợ công rất nhỏ và một lục địa
đang ngóng chờ được khám phá, cánh cửa hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ xã hội
đã mở ra trước dân tộc Mỹ.
Hoạt động thương mại càng làm cho tình đoàn kết dân tộc thêm vững chắc. Những
mất mát trong chiến tranh đã giúp nhiều người nhận thấy tầm quan trọng phải bảo
vệ các nhà sản xuất Mỹ cho đến khi họ có thể một mình chống chọi được với sự
cạnh tranh của nước ngoài. Nhiều người lập luận rằng độc lập về kinh tế cũng
quan trọng không kém độc lập về chính trị. Để cổ súy tinh thần tự lực cánh sinh,
các nhà lãnh đạo Quốc hội như Henry Clay thuộc tiểu bang Kentucky và John C.
Calhoun thuộc tiểu bang Nam Carolina đã kêu gọi thực hiện chính sách bảo hộ
mậu dịch, hạn chế hàng nhập khẩu nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp Mỹ phát
triển.

Đây là thời điểm thuận lợi để tăng thuế quan. Các linh mục ở Vermont và Ohio
muốn bảo hộ chống lại sự tràn ngập của len nước Anh. Ở bang Kentucky, ngành
dệt cây gai dầu địa phương thành vải sợi may bao và túi mới ra đời đã bị ngành
công nghiệp dệt vải may túi bao Scotland đe doạ. Pittsburgh ở bang Pennsylvania
vốn đã là một trung tâm cán thép rất phát triển, nay sốt sắng thách thức các nhà
cung cấp thép Anh và Thụy Điển. Biểu thuế ban hành năm 1816 đã đủ mạnh để
bảo hộ thực sự các nhà sản xuất.

Ngoài ra, dân miền Tây còn ủng hộ một hệ thống đường sá và kênh đào quốc gia
để nối kết họ với các thành phố và hải cảng miền Đông, và để mở mang những


vùng đất miền biên giới cho việc định cư. Tuy nhiên, họ đã không thành công
trong việc kêu gọi chính quyền liên bang tham gia phát triển nội bộ bang do có sự
phản đối từ bang New England và miền Nam. Những con đường và những con
kênh còn lại là mối quan tâm của các bang cho đến khi Đạo luật Hỗ trợ Đường bộ
Liên bang năm 1916 được thông qua.

Vị thế của Chính phủ Liên bang vào thời gian này đã được củng cố mạnh mẽ nhờ
có một số quyết định của Tòa án Tối cao. Một người đại điện ủng hộ chủ nghĩa
liên bang, John Marshall, người bang Virginia, đã trở thành Chánh án Tòa án Tối
cao năm 1801 và giữ chức vụ này cho tới khi ông qua đời năm 1835. Tòa án vốn
yếu ớt trước khi ông nhậm chức thì giờ đây đã trở thành một tòa án mạnh, có vị trí
ngang hàng với Quốc hội và tổng thống. Theo các quyết định mang tính lịch sử
sau đó, Marshall đã xây dựng quyền của Tòa án Tối cao và củng cố chính quyền
liên bang.

Marshall là người đầu tiên trong hàng ngũ đông đảo các vị thẩm phán Tòa án Tối
cao mà những quyết định của họ đã tạo nên ý nghĩa và áp dụng cho Hiến pháp.
Khi ông kết thúc sự nghiệp phục vụ của mình thì Tòa án Tối cao đã giải quyết
chừng 50 vụ án liên quan tới các vấn đề hiến pháp. Một trong những phán quyết
nổi tiếng nhất của Marshall - vụ Marbury kiện Madison (1803) - ông đã kiên quyết
khẳng định quyền của Tòa án Tối cao được xem xét tính hợp hiến của tất cả các bộ
luật của Quốc hội Liên bang hay của cơ quan lập pháp của tiểu bang. Trong vụ Mc
Culloch kiện Maryland (1819) ông đã khẳng khái nêu cao lý thuyết của Hamilton
cho rằng, suy rộng ra, Hiến pháp ban cho chính phủ những quyền hạn vượt ra
ngoài phạm vi những quyền đã được quy định rõ ràng trong văn kiện này.

MỞ RỘNG CHẾ ĐỘ NÔ LỆ

Chế độ nô lệ mặc dù cho đến lúc này còn ít thu hút sự chú ý của công chúng song
đã bắt đầu có được tầm quan trọng hơn nhiều với tư cách là một vấn đề quốc gia

đại sự. Vào những năm đầu tiên của nền cộng hòa, khi các bang miền Bắc đang
tiến hành giải phóng nô lệ, nhiều nhà lãnh đạo đã cho rằng chế độ nô lệ sẽ bị thủ
tiêu. Năm 1786, George Washington đã viết rằng, ông chân thành cầu chúc cho
một kế hoạch nào đó có thể được thông qua theo đó chế độ nô lệ có thể được bãi
bỏ một cách từ từ, chắc chắn và tinh tế. Jefferson, Madison và Monroe từ Virginia
và các chính khách miền Nam hàng đầu khác đều có những lời phát biểu tương tự.

Sắc lệnh Tây Bắc ban hành năm 1787 đã cấm chế độ nô lệ ở lãnh thổ miền Tây
bắc. Cho tới năm 1808, khi việc buôn bán nô lệ quốc tế bị bãi bỏ thì có nhiều
người miền Nam nghĩ rằng chế độ chiếm hữu nô lệ sẽ mau chóng chấm dứt. Song
mọi sự mong đợi như vậy đã không được thành hiện thực bởi vì trong thế hệ sau
đó, dân miền Nam liên kết chặt chẽ với nhau biến việc tổ chức chiếm hữu nô lệ
thành những nhân tố kinh tế, khiến cho chế độ này càng đem lại lợi nhuận nhiều
hơn so với trước năm 1790.

Nguyên nhân chính là do sự phát triển nghề trồng bông quy mô lớn ở miền Nam
nhờ việc áp dụng canh tác các giống bông mới và phát minh máy tỉa hạt bông của
Eli Whitney vào năm 1793 giúp tách được các hạt ra khỏi bông. Đồng thời, cuộc
Cách mạng Công nghiệp đã thúc đẩy ngành công nghiệp dệt hoạt động với quy mô
lớn, làm gia tăng nhu cầu về bông nguyên liệu. Việc triển khai các vùng đất mới ở
miền Tây sau năm 1812 đã mở rộng rất lớn khu vực có thể trồng bông. Nghề trồng
bông đã dịch chuyển nhanh chóng từ các bang thuộc khu vực Tidewater ở duyên
hải miền Đông qua miền Nam trũng thấp hơn tới vùng đồng bằng châu thổ sông
Mississippi và cuối cùng là tới bang Texas.

Mía, một loại cây trồng khác sử dụng nhiều lao động, cũng góp phần mở rộng chế
độ nô lệ ở miền Nam. Những vùng đất ấm, màu mỡ ở Đông Nam Louisiana rất lý
tưởng cho việc trồng mía đem lại lợi nhuận cao. Tới năm 1830, bang Louisiana đã
cung cấp cho cả nước khoảng một nửa lượng đường. Cuối cùng, những người
trồng thuốc lá đã chuyển sang miền Tây và mang theo họ chế độ nô lệ.


Vì xã hội tự do của miền Bắc và xã hội chiếm hữu nô lệ của miền Nam đều bành
trướng sang phía Tây nên có lẽ sẽ có lợi về chính trị nếu duy trì được sự bình đẳng
vững chắc giữa các bang mới đang tiến về những vùng lãnh thổ miền Tây. Năm
1818, khi Illinois được chấp nhận vào liên minh, 10 bang đã được phép có chế độ
nô lệ, 11 bang cấm chế độ này; nhưng sự cân bằng đã được phục hồi sau khi bang
Alabama được thừa nhận theo chế độ nô lệ. Dân số ở miền Bắc tăng nhanh hơn,
cho phép các bang miền Bắc chiếm đa số ghế trong Hạ viện. Tuy nhiên, sự bình
đẳng giữa miền Bắc và miền Nam vẫn được duy trì ở Thượng viện.

Vào năm 1819, bang Missouri có 10.000 nô lệ đã xin gia nhập liên bang. Dân
miền Bắc tập hợp lại để phản đối việc gia nhập của Missouri trừ phi đó là một
bang tự do, và làn sóng phản đối đã lan khắp cả nước. Có một thời gian Quốc hội
đã lâm vào tình trạng bế tắc, nhưng Henry Clay đã đạt được một thỏa thuận mang
tên Thỏa hiệp Missouri: Missouri được gia nhập với tư cách là một bang có chế độ
nô lệ cùng lúc với bang Maine gia nhập với tư cách là một bang tự do. Ngoài ra,
Quốc hội đã cấm chế độ nô lệ ở lãnh thổ Louisiana vốn được mua lại từ nước Pháp
ở khu vực phía bắc biên giới phía Nam của bang Missouri. Đồng thời quy định
này dường như đã trở thành một thắng lợi đối với các bang miền Nam vì người ta
không ngờ rằng vùng sa mạc Mỹ bao la này lại có người đến sinh sống. Cuộc
tranh luận đã tạm thời được giải quyết ổn thỏa, nhưng Thomas Jefferson đã viết
cho một người bạn rằng "vấn đề trọng yếu này tựa hồ tiếng chuông báo cháy đã
khiến tôi tỉnh giấc với nỗi sợ khủng khiếp. Ngay lập tức tôi cho rằng đó là hồi
chuông khai tử Liên bang".

×