Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Những mối quan hệ giữa thuộc địa và người da đỏ 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.06 KB, 7 trang )

Những mối quan hệ giữa thuộc địa và người da đỏ
2


Năm 1670, những người định cư đầu tiên đến New England và đảo Barbados ở
vùng biển Caribbean đã tới vùng mà bây giờ là thành phố Charleston, bang Nam
Carolina. Một hệ thống chính quyền mà nhà triết học Anh John Loke góp phần
xây dựng đã được chuẩn bị một cách chu đáo, tỷ mỉ cho thuộc địa mới. Một trong
những đặc điểm nổi bật của nó là xoá bỏ được sự tính toán nhằm tạo ra tầng lớp
quý tộc cha truyền con nối. Một trong những khía cạnh kém hấp dẫn nhất của
thuộc địa là việc sớm buôn bán nô lệ người da đỏ, tuy nhiên trong suốt một thời
gian, gỗ xẻ, gạo và thuốc nhuộm màu chàm tím đã đem lại cho thuộc địa một cơ
sở kinh tế mạnh mẽ hơn.

Vịnh Massachusetts không còn là thuộc địa duy nhất được vận hành bởi các động
cơ tôn giáo nữa. Vào năm 1681, William Penn, một người giàu có theo giáo phái
Quaker và là bạn của vua Charles đệ Nhị, đã nhận được một vùng đất rộng ở phía
tây sông Delaware mà đã trở nên nổi tiếng với cái tên Pennsylvania. Ðể cung cấp
dân cư cho vùng đất này, ông Penn đã tích cực tuyển mộ nhiều thành viên các giáo
phái không quy phục nhà thờ chính thống từ nước Anh và từ lục địa châu Âu như
tín đồ các giáo phái Quaker, Mennonite, Amish, Moravian và Baptist.

Khi Penn đến vùng đất này một năm sau đó, đã có những người định cư Hà Lan,
Thuỵ Ðiển và Anh sống dọc bờ sông Delaware. Ðó là nơi ông đã lập ra thành phố
Philadelphia, "Thành phố của Tình yêu huynh đệ".

Trung thành với đức tin của mình, ông Penn đã được khuyến khích bởi tình cảm
bình đẳng, một điều không phải luôn luôn được tìm thấy ở các thuộc địa khác ở
nước Mỹ thời đó. Vì vậy phụ nữ ở Pennsylvania có các quyền từ lâu trước khi phụ
nữ ở các khu vực khác tại nước Mỹ có được. Penn và những người được uỷ quyền
của ông cũng rất chú ý tới những mối quan hệ của thuộc địa với người da đỏ ở


Delaware khi ông bảo đảm rằng họ được trả tiền thanh toán cho bất kỳ mảnh đất
nào mà người châu Âu đến định cư.

Bang Georgia được thành lập năm 1732, đây là bang cuối cùng trong số 13 bang
được thành lập. Vốn là một vùng nằm ở gần vùng Florida thuộc Tây Ban Nha,
miền này đã được nhìn nhận như là khu đệm chống lại các cuộc xâm nhập của
người Tây Ban Nha. Nhưng miền đất ấy lại có một đặc tính có một không hai: đàn
ông chịu trách nhiệm về các công trình bố phòng bang Georgia, tướng James
Oglethorpe, là một nhà cải cách đã có sự cân nhắc kỹ càng trong việc tạo ra một
khu di tản nơi mà những cựu tù nhân nghèo túng được trao cho những cơ hội mới
để phụng sự.

XII/ Dân định cư, nô lệ và những người hầu

Những người đàn ông và đàn bà ít quan tâm tới cuộc sống mới ở nước Mỹ thường
được thuyết phục đi Tân Thế giới bởi những lời dỗ dành, xúi bẩy rất khéo léo của
những người khởi xướng. Chẳng hạn, William Penn đã phổ biến những cơ hội
đang chờ đợi người định cư ở thuộc địa Pennsylvania. Các quan toà và giới lãnh
đạo nhà tù đã dụ dỗ bằng cơ hội di cư sang các thuộc địa như bang Georgia thay vì
phải chịu kết án tù.

Nhưng rất ít kiều dân có thể có đủ tiền chi phí cho chuyến vượt biển của họ và gia
đình họ để bắt đầu sự nghiệp ở miền đất mới. Trong một số trường hợp, các
thuyền trưởng của tàu nhận được những khoản tiền thưởng hậu hĩnh từ việc bán
các hợp đồng phục vụ cho các dân cư nghèo vốn được gọi là những người hầu
ràng buộc bằng giao kèo, và mọi phương pháp từ những lời hứa ngông cuồng, vô
lý đến việc bắt cóc đều được sử dụng để làm sao lấy đủ lượng hành khách mà con
tàu có thể chở được.

Trong những trường hợp khác, mọi chi phí cho việc vận chuyển và nuôi ăn được

các đại lý tuyển mộ người cho thuộc địa thanh toán như các công ty Virginia và
Vịnh Massachusetts. Ðể đổi lại, những người hầu ràng buộc bằng giao kèo đồng ý
làm việc cho các đại lý với tư cách công nhân theo hợp đồng, thường là từ bốn cho
đến bảy năm. Khi hết thời hạn, họ sẽ được trao "quyền tự do", thỉnh thoảng bao
gồm cả một mảnh đất nhỏ.

Người ta đã ước tính rằng một nửa dân định cư sống ở các thuộc địa ở miền nam
New England đã đến Mỹ theo hệ thống này. Tuy phần lớn số họ đã thực hiện các
bổn phận của mình một cách trung thành, song có một số người đã chạy trốn khỏi
chủ thuê họ. Tuy nhiên nhiều người trong số họ cuối cùng đã có thể tìm được đất
và lập các trang trại, hoặc là ở các thuộc địa mà họ đã định cư từ đầu hoặc ở các
thuộc địa láng giềng. Không hề có một sự sỉ nhục nào về mặt xã hội áp đặt cho
một gia đình nào đó từng bắt đầu lập nghiệp ở Mỹ dưới khuôn cảnh nửa nô lệ như
thế. Thuộc địa nào cũng từng cung cấp những vị lãnh tụ vốn là những cựu người
hầu ràng buộc bằng giao kèo.

Còn một ngoại lệ rất quan trọng đối với mô hình này: đó là những người nô lệ
châu Phi. Những người da đen đầu tiên được đưa tới Virginia vào năm 1612, đúng
12 năm sau khi thành lập thành phố Jamestown. Thoạt đầu, nhiều người được coi
là những người hầu ràng buộc bằng giao kèo mà họ có thể có được quyền tự do
của mình. Tuy nhiên, cho đến những năm 1660, vì nhu cầu về lao động cho các
đồn điền ở các thuộc địa miền Nam gia tăng nên việc thiết lập chế độ nô lệ bắt đầu
xiết lại xung quanh số phận người da đen, và người châu Phi đã được đưa tới Mỹ,
rồi sống trong sự trói buộc của người nô lệ bắt buộc.

XIII/ Ðiều bí mật vĩnh viễn của người Anasazi

Những khu làng Peublo lâu đời và "những thị trấn trên ghềnh đá" đầy ấn tượng sâu
sắc nằm ở giữa những ngọn núi mặt bàn (mesa) gồ ghề, trơ trọi và những hẻm núi
do sông chảy cắt ngang ở Colorado và New Mexico là nét đặc trưng cho những

khu định cư của một số cư dân thời tiền sử của Bắc Mỹ, đó là những người
Anasazi (theo tiếng Navajo, từ này có nghĩa là "những người cổ xưa").

Cho đến năm 500 sau công nguyên, người Anasazi đã xây dựng một số trong số
những khu làng giống nhau đầu tiên ở miền Tây Nam nước Mỹ, tại đây họ đi săn
và trồng các vụ ngô, bí hay đậu. Người Anasazi đã thịnh vượng suốt hàng thế kỷ,
họ xây đắp những con đê cùng các hệ thống tưới tiêu có cấu trúc tinh xảo; họ tạo
nên một truyền thống làm đồ gốm sứ rất độc đáo và mạnh mẽ; và họ đã khoét
những ngôi nhà nhiều phòng, phức tạp ở trên những vách đá dựng đứng mà ngày
nay vẫn còn nằm trong số những khu khảo cổ gây ấn tượng mạnh nhất ở Hoa Kỳ.

Thế mà cho tới năm 1300, họ đã rời bỏ các khu định cư của mình, bỏ lại mọi đồ sứ
gốm, các công cụ, đồ đạc, thậm chí cả quần áo - dường như họ đã trù định việc trở
về - và có lẽ họ đã biến mất vào lịch sử xa xôi. Quê hương của họ trở nên hiu
quạnh không ai sống ở đó trong suốt hơn một thế kỷ, cho tới khi các bộ lạc mới
đến như người Navajo và người Ute, và sau đó là những người định cư Tây Ban
Nha và châu Âu khác.

Câu chuyện về người Anasazi gắn bó chặt chẽ với môi trường tươi đẹp nhưng
khắc nghiệt nơi họ đã chọn để sinh sống. Những khu định cư đầu tiên bao gồm các
ngôi nhà hầm giản dị được khoét sâu vào trong đất đã trở thành những đàn lễ
(kiva)3 chìm được dùng làm nơi tụ hội và thực hành các nghi lễ tôn giáo. Sau này
các thế hệ kế tiếp đã phát triển kỹ thuật nề để xây dựng các làng Pueblo với các
kiểu nhà vuông bằng đá. Nhưng sự thay đổi gây sửng sốt nhất trong đời sống của
người Anasazi- vì những lý do mà vẫn chưa ai khám phá - là việc chuyển tới
những nơi trên vách đá của những ngọn núi mặt bàn có đỉnh phẳng, nơi người
Anasazi đã đục khoét thành các căn nhà nhiều tầng rất đáng kinh ngạc.

Người Anasazi sống trong một xã hội cộng đồng chung được tiến hoá chậm chạp
suốt nhiều thế kỷ. Họ buôn bán với những người khác trong vùng, nhưng những

dấu tích về chiến tranh quả là ít ỏi và rải rác. Và tuy người Anasazi chắc chắn có
các thủ lĩnh tôn giáo và các thủ lĩnh khác cũng như những thợ thủ công rất tài khéo,
song rõ ràng những sự phân biệt về xã hội hay giai cấp là không tồn tại.

Những môtíp tôn giáo và xã hội hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc xây
dựng những cộng đồng làng trên vách đá cùng sự rời bỏ đi của họ. Nhưng cuộc
đấu tranh nhằm tăng lượng lương thực trong một môi trường ngày càng khó khăn
có lẽ là một yếu tố quan trọng nhất. Vì dân số tăng, nông dân trồng trọt trên những
ngọn núi mặt bàn ngày càng lớn điều đó đã khiến một số cộng đồng phải canh tác
trên những phần đất sát biên vách núi, trong khi đó những người khác đã rời đỉnh
các ngọn núi mặt bàn tới khu sườn vách đá. Nhưng người Anasazi không thể ngăn
cản sự mất mát độ phì nhiêu của đất do việc sử dụng đất thường xuyên liên tục,
cũng như họ không thể chống lại được hạn hán theo chu kỳ. Việc phân tích các
vòng tuổi thân cây, chẳng hạn đã cho thấy rằng trận hạn hán cuối cùng kéo dài 23
năm, từ năm 1276 đến năm 1299, rốt cuộc đã bắt buộc các nhóm người Anasazi
cuối cùng phải rời bỏ vĩnh viễn.

Tuy người Anasazi đã tan tác khỏi quê cha đất tổ của mình, song họ không hề biến
mất. Di sản của họ vẫn tồn tại trong sự kiện khảo cổ đặc biệt sâu sắc mà họ đã để
lại, và tồn tại trong những người Hopi, người Zuni và những người Pueblo khác vì
những bộ lạc ấy là người nối dõi họ.

×