Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quyển Đệ Thập Tứ - An nam chỉ lược doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.73 KB, 12 trang )

Quyển Đệ Thập Tứ - An nam chỉ lược


Học Hiệu
Triệu-Đà làm vua Nam-Việt, mới lấy thi, lễ giáo-hóa nhân-dân một ít. Cuối
đời Tây-Hán, Tích Quang cai-trị Giao-chỉ Nhâm-Diên cai trị Cửu-Chân,
dựng nhà học-hiệu, dạy dân noi theo nhân nghĩa.
Thời Hán, Đường, thường cống những người tiến-sĩ minh-kinh (những
người học hành thông-thái) như bọn Lý-Cấm, Trương-Trọng, Khương-
Công-Phụ, Đến đời Tống, An-nam lập thành Quốc-Gia, họ Lý đặt phép
khoa-cử ba năm một kỳ thi, lấy trạng-nguyên, bảng-nhãn, Thái-hoa-lang,
thành ra điển-lệ. Những người thi đậu được ban cấp áo mão, võng ngựa
vinh-qui .
Quan-Chế
Từ nhà Đinh trở về sau, mới chịu vương-tước của nhà Tống gia-phong.
Nhưng ở trong nước tự đặt danh-hiệu, bắt chước việc cũ của Triệu-Đà, tự
phong trong nước có vương, hầu; đặt quan có "chánh", có "tiếp", cũng giống
như "phẩm" và "tòng" vậy.Vương Tự-vương
Vương Tự-vương
Thượng-Hầu Hầu
Tiếp hầu (sau tước Hầu một bậc)
Nội-Minh-Tự (các quan hầu cận thêm chữ "Nội" lên trên)
Minh-tự Tiếp-Minh-Tự
Nội-đại-liêu-ban Đại-liêu-ban
Đại-liêu
Thân-vương-ban (danh tước của thân thuộc vua)
Nội-ký-ban Ký-ban
Nội-Chư Vệ Chư-Vệ
(trên đây xen lẫn cả văn cả võ)
Văn: Nội-viên-ngoại-lang Viên-ngoại-lang
Võ: Nội-lang-tướng Lang-tướng


Văn: Nội-lệnh-thư-gia Lệnh-thư-gia
Võ: Nội-thượng-ban Thượng-ban
Võ: Nội-thượng-chế Thượng-chế
Võ: Nội-Cung-phụng Cung-phụng
Võ: Nội-Thị-Cầm Thị-Cầm
Văn: Hiệu-thư-lang, quyền miễn cung-hậu thư-xá. (chữ "xá" có chỗ viết chữ
"gia").
Võ: Nội-trực-điện Trực-điện
Văn: Cung-hậu xá-nhân Thư-Xá
Văn: Xá-nhân Sư-Ông
Võ: Tá-chức Tá-chức-quan
Văn: Đô-tào Binh-tào
Tể-thần tiếm-hiệu
Thái-Sư Thái-uý-bình-chương-sự
Thái-phó Thái-bảo
Phụ-quốc Thiếu-sư
Thiếu-bảo Thiếu-phó
Tả, Hữu-bộc Tham-tri-chính-sự
Võ-Soái
Đô-Nguyên-Soái Tiết-Độ-sứ
Đại-tướng-quân Phó-nguyên-soái
Phó-Tiết-độ Phó-tướng-quân
(Mấy chức trên nầy, chỉ dùng người tông-tộc nhà vua)
Nội-điện-tiền-chỉ-huy-sứ Chiêu-thảo-sứ
Thiên-tướng Tỳ-tướng
Văn-Chức
Ngự-sử-đài-quan Hàn-lâm-viện-quan
Kiểm-pháp-quan An-Vũ-Sứ
Thượng-Thư Đông-Thượng-Các-Môn sứ
An-Vũ-phó-sứ

Tam-ty-viện quan-nhân tức là nơi xử kiện tụng)
1. Tuyên-thanh
2. Túc-hiến
3. Hình-chánh
An-Vũ-Ty quan-nhân.
Cận-Thị-Quan
Nhập-nội phán-thủ-hầu (quản lãnh các quan hầu cận).
Thượng-phẩm-hầu.
Thượng-phẩm minh-tự.
Thượng-phẩm đại-liêu-quan-ban.
Thượng-phẩm phụng-ngự Trung-phẩm phụng-ngự
Hạ-phẩm phụng-ngự Thị-vệ-nhân hỏa-đầu
Thị-vệ-nhân dũng-thủ Thị-vệ-nhân
Phân-quyền-nhân
Thái-sư Thái-uý nha đô-quan (tức là những chức phụ, lấy các viên Minh-tự
sung vào).
Vương-hầu-gia-hành-khiển (quyết-vệ, nội-thị)
Vương-hầu-nha-quản-giáp (cũng giống chức hành-khiển, một văn-chức, một
vũ-chức, đều có đặt quản-hầu).
Phương-Trấn
Thượng-lộ trại-chủ (lấy các quan hầu và Minh-tự làm chức ấy).
Phó trại-chủ (tục gọi là Hành-Khiển hay Thượng-thư, lấy các quan Minh-Tự,
Đại-liêu làm chức ấy).
Tri-châu Quan-sát
Sát-hải Áp-ngục-quan
Trấn-Át
Thể-tập hương-ấp quan (quan làng, đời đời kế tập)
Quản-giáp (Có thượng, trung, hạ, ba bậc, lấy các quan đại-liêu, lang-tướng
làm chức ấy).
Đại-Toát Tiểu-Toát

Chủ-đô
Phán-cung
(Học-quan, dùng các học-sĩ thi hỏng làm, để dạy học-trò).
Tăng-Quan (Chức sắc nhà chùa)
Quốc-sư Tăng-thống
Tăng-lục Tăng-chính
Đại-hiền-quan
Đạo-Quan (Chức sắc các thầy pháp)
Đạo-Lục Uy-nghi
Đô-quan
Chương-phục (áo mão phẩm phục)
(phủ-phất, đại-phấn, hoa-trùng: những thẻ như con trùng kết trên mão.
Tổ thọ: lụa thắt lưng.
Thùy bội: những viên ngọc đeo lòng thòng.
Phương-tâm: tấm phụ tâm vuông dính trước ngực áo.
Khúc-lĩnh: cổ áo tràng.
Miễn-lưu: dãi tua đính ở mão, đều hơi giống Trung-quốc).
Quốc-chủ đội mão Bình-thiên, mão Quyển-vân hay mão Phù-dung, mặc áo
cổn-y, đeo đai lưng Kim-Long, cổ áo đính là trắng hay bông trắng kết lại,
khăn kết tua vàng và ngọc châu, phủ tấm vuông, tràng áo cong, tay cầm
ngọc khuê. Lúc khánh lễ, chịu bề tôi lạy mừng.
Mão của tước vương chia ra ba bậc, tước hầu hai bậc, Minh-Tự một bậc, gọi
là mão Củng-thần, ở trên có dính con ong, con bướm bằng vàng, lớn nhỏ sưa
dày tùy theo cấp bậc. Thân-vương mặc áo Tiêu kim-tử-phục (áo tía thêu
kim-tuyến), Hầu, Minh-tự mặc áo phượng-ngư-tú-phục (áo thêu chim-
phượng,cá). Từ đại-liêu-ban trở xuống mặc áo cổn, đội mão miễn, đều có
cấp bậc (văn ban thêm con cá vàng). Viên-ngoại-lang, Lang-tướng đội mão
miển Kim-ngân-gián-đạo (vàng bạc xen nhau). Lệnh-thư-xá đến Văn-hiệu-
thư-lang (thượng-chế, thị-cấm) đều đội mão miễn bằng bạc. Mão miễn đại lễ
mới dùng đến, thường lễ chỉ đội khăn và mặc áo tía, các chức Cung-hầu,

Thư-Xá-Ông được mặc. Đai lưng bằng da tê hay bằng vàng tuỳ theo phẩm
trật, hốt đều bằng ngà voi. Bọn chức-quan, tá-chức đều đội khăn, mặc áo tía,
thắt đai xéo, không cầm hốt, chắp tay lạy quốc-chủ. Bình thường ở nhà đội
khăn tàu, thường phục chuộng màu trắng, người trong nước ai mặc đồ trắng,
cho là tiếm-chế, duy phụ-nữ thì không cấm về trang-sức. Từ vương, hầu đến
thứ dân thường hay mặc xiêm màu huyền, cổ tròn, quần bằng lụa trắng, thích
đi giày da. Vương, hầu lúc vào yết-kiến Quốc-chủ, không bịt khăn, tỏ ý thân
quý, thứ dân thì không được như vậy. Các nội-quan hầu cận, Thượng-phẩm
đội mão dương-thường, đính ong bướm vàng hoặc thưa hoặc nhặt, mặc áo
phẩm phục, trung-phẩm thì áo mão, sắc-chế hơi giảm. Hạ-phẩm thì đội mão
dương-thường tía, mặc áo tía, thảy đều chắp tay lạy vua, không cầm hốt.
Khăn đội thường của quan thượng-phẩm thường dùng nhung màu tía xen
màu biếc làm sáu tua kết sau khăn, đai thắt ngang, để tỏ vẻ quan quý. Trung-
phẩm kết tua tía, hạ-phẩm tua đen, khảm quanh bằng ngọc, vàng và đồi-mồi,
làm cho ra vẻ lạ vậy.
Hình-chính
Theo phép kẻ mưu phản bị giết cả thân-tộc, kẻ giết người phải thường mạng.
Bắt được gian phu, được tự chuyên giết chết. Đời gần đây, mới ra lệnh cho
gian-phu được lấy 300 quan tiền chuộc tội chết. Dâm-phụ, xử trả về cho
người chồng làm tỳ-thiếp và người chồng được phép muốn cầm bán cho ai
tự ý. Giết kẻ có quan tước, tùy theo phẩm hàm cao thấp, thường tiền chuộc
tội, nhưng phải bị đánh đòn 80 trượng, tội nặng đánh 60 trượng. Giết chết
đồng lệ với tội gian dâm. Lỵ-mạ (mắng ruả), kẻ có quan tước, tuỳ việc khinh
trọng, khiến phạm-nhân đem tiền và trầu rượu tạ lỗi, số trượng bị đánh cũng
như tội trên. Hai người đánh nhau đều có thương-tích, thì kẻ đánh trước bị
tội. Kẻ ngụy-tạo những đồ phi-pháp bị thích tội danh lên mặt, đánh đòn
(trượng) và đày đi xa. Cường đạo bị xử trảm. Thiết đạo mới sơ phạm, bị
đánh 80 trượng, thích lên mặt hai chữ "phạm đạo", đồ lấy trộm một thường
ra chín, nếu không thường nổi, bắt vợ con ra mà trừ; phạm tội lần thứ hai,
chặt tay chân, lần thứ ba, giết chết. Kẻ vu cáo trở lại bị tội (nghĩa là bị tội mà

mình đã vu cáo cho người).
Công-điền phải hằng năm nạp lúa. Dân hằng năm phải nạp tiền thân-dịch và
tháng giêng, tháng bảy đi mừng quan, mùa nào trái ấy, cá, gạo, v.v
Kẻ nông, thương, khỏi bị trưng thâu lương thuế. - (đất hẹp người đông, đời
trước đặt ra phép nầy để bớt gánh nặng cho dân).
Quan lại nào liêm minh, có tài xử đoán việc thưa kiện, đều được xét công
thăng chức.
Đồ đo lường, cân, trái cân thảy đều giống Trung-quốc, chỉ có vàng bạc, sô
đoạn, tơ gai, vị thuốc, các món ấy đều tự tính mà thôi. Mua bán giao-dịch
dùng tiền thời Đường, Tống, 70 chữ (văn) làm 1 tiền, 700 chữ làm một quan.
Thiếu nợ có thể bị giam cầm, trả hết vốn lãi mới được thả ra. Cùng-dân
không thể tự nuôi sống, có thể tự cầm bán mình cho người khác.
Binh-chế
Quân không có sổ bộ nhất định, chọn những dân tráng-kiện sung vào, 5
người làm một ngũ, 10 ngũ làm một đô; lại lựa hai người lanh-lẹ và có tài
cho coi việc giảng tập vũ-nghệ. Đòi nhập ngũ thì ra, lúc rảnh cho về làm
ruộng.
Thân-quân
Thánh-dực-đô Thần-dực-đô
Long-dực-đô Hổ-dực-đô
Phụng-vệ quan-chức-đô (có phận sự đi bắt và ghi những tội-phạm. Các đô
trên nầy đều có tả-đô, hữu-đô)
Du-quân
Thiết-lâm-đô Thiết-hạm-đô
Hùng-hổ-đô Vũ-An-Đô
Gia-nhân của các Vương-Hầu
Toàn-Hầu-đô Dước-Đồng-đô
Sơn-liệu-đô (còn nữa, nhưng không chép).


×