Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thơ đề Vịnh của Danh-hiền các Triều-đại ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.39 KB, 12 trang )

Thơ đề Vịnh của Danh-hiền các Triều-đại

Thơ của Lục-Sĩ-Hoành tặng Thứ-Sử Giao-Chỉ là Cổ-Bí tự Công-Chân 3
Cố-Hầu gặp buổi thịnh,
Hoạn lộ lướt thanh phong.
Phiên-Hậu 4 từng vua giúp,
Nam-Châu lại ruỗi giong.
Trống vang ngoài năm núi,
Cờ phất vượt muôn trùng.
Dù nhỏ, nên lánh trọc,
Chẳng to, cũng lập công.
Non cao chi ngại vượt,
Bể cả chỉ quanh vòng.
Buồn bã xem diều liệng,
Cờ về nhướng cổ trông.
Thơ của Thẩm-Thuyên-Kỳ khi bị biếm sang Hoan-Châu (2 bài)
Bài thứ 1
Nghe đồn Giao-Chỉ quận,
Nam với Quán-Hung liên5
Ngày lạnh chia mùa ít,
Mặt trời bổ bóng thiên.
Úy-Đà từng dựng nước,
Sĩ-Nhiếp đã xa miền.
Làng xóm liên nhà ở,
Ngư diêm nối nghiệp truyền.
Người Giao dâng trĩ múa 6,
Tướng Hán ngắm diều lên7
Đầu bắc sườn non quẩy,
Gió nam mặt biển rền.
Biệt ly bao quản tháng,
Râu tóc đã kinh niên.


Thân thuộc than phần số,
Vợ con cắt nợ duyên.
Mộng àn, hồn bối rối,
Sầu chất, bệnh triền miên.
Thôi chớ muôn hàng lệ,
Lòng chẳng thấu Hoàng-thiên.
(Vượt bể vào Long-Biên).
Bài thứ 2
Từ trước nghe đồng trụ,
Một năm vừa trải qua.
Đất Lâm-ấp chẳng biết,
Trời đạo-minh còn xa.
Bao thuở nhuần mưa móc,
Bên trời cách Kinh-hoa.
Nhớ ai lụy chan chứa,
Tợ suối Nhật-Nam sa.
Thơ của Quyền-Đức-Dư đưa chân Đô-Hộ Bùi-Thái
Bổng đeo Giao-Chỉ ấn,
Bằng bối tạm chia tay.
Quan nhiệm dù xa cách.
Chúa lo mừng được thay.
Chu-Diên đường khuất khúc,
Phỉ-túy bay liền bầy.
Thuyền đội vượt sóng biển,
Sinh kỳ cuốn khói mây,
Cõi xa vén màn thấy,
Hang núi khói hương bay.
Bắc-Việt mừng yên vỗ,
Nam-huân sách đức dày.
Bạn thân than tạm biệt,

Công lạ chờ có ngày.
Ý-dĩ quà bên ấy,
Ngày về, dám phiền ai.
Thơ của Bì-Nhật-Hưu chê Đô-Hộ Lý-Trác làm việc quan tàn bạo, nhân
dân phản loạn
Phương nam chẳng triệu-hồi đô-hộ,
Khiến Giao-Châu một độ ngửa nghiêng.
Kể từ ba bốn năm liền,
Trung-nguyên nhục nhã liên miên lắm hồi.
Kẻ nhu nhược thụt lùi trước trận,
Người oai hùng mấy bận dùng binh.
Quân-nhu hao tốn sinh-linh,
Mấy tay chiếu-tướng mặc tình kiếm ăn.
Nạo xương-tủy nhân-dân quá-mức,
Để đem làm lương-thực quân-nhân.
Hứa-Xương hùng hổ tướng-quân,
Hơn người oai võ mười phần hiên ngang.
Mạnh như gió, kéo sang muôn kỵ,
Biến thành thây lấp bí giòng sông.
Có người sống sót hồi tông,
Muôn nhà trông thấy hãi hùng khóc than.
Tiếng ai oán lan tràn thôn dã,
Khí căm hờn đầy cả núi hang.
Ngọn cờ tiếng trống bẽ bàng,
Ai mà nghe thất cho đang tấm lòng?
Biết ai mà thở than cùng?
Dĩnh-Xuyên cổ-lục mấy trùng xa xa.
Bài đàn Việt-Thường của Hàn-Dũ
Mưa phải thì,
Vận tốt tươi,

Nào ta có ý gì với ai?
Từ thuở Thành-Chu,
Chăm chỉ gian lao,
Mở mang bờ cõi,
Lưu truyền đời sau.
Ngày nay Thánh-hoàng,
Ngự trị bốn phương.
Oai linh lừng lẫy
Ai dám khinh thường.
Nhà không bỏ trống,
Ruộng có người cày.
Việt-Thường thần phục,
Bốn bể vui vầy.
Thơ của Hứa-Hồn làm khi lên lầu Úy-Đà
Hạng, Lưu đương mãng đuổi hươu Tần 8,
Hoàng-ốc nghênh ngang chốn hải-tân.
Cậy sức Nhâm-Ngao từng dựng nước,
Nghe lời Lục-Giả lại xưng thần.
Thơ Lý-Sinh tiễn bạn đi Lĩnh-Nam
Xa khơi non nước cõi Giao-Châu,
Thương kẻ năm tàn ruổi vó câu.
Bên biển Tạ-Công ngời chất bạc,
Trên đài vua Việt thoáng nhìn trâu.
Lều tranh vượn hú trăng soi sáng,
Nhà đá cây già khói tỏa thu.
Ngảnh mặt Trường-An nửa vạn dặm,
Gốc đồng bóng mát chớ yêm lưu.
Thơ của Trương-Tịch chơi núi tặng thầy tu quận Nhật-Nam
Trong núi một sư già,
Cửa tùng khép mưa sa.

Dở kinh trên lá chuối,
Rủ áo dưới bông la 9
Xây đá mới đào giếng,
Phá rừng tự trồng trà,
Hải-nam có khách đến,
Trăm tiếng thổ, hỏi nhà.
Thơ của Tư-Mã để đền thờ Phục-Ba
Biển Nam ban lệnh Hán,
Rừng Uất đuổi binh Mường.
Đồng-trụ chia biên-giới,
Hoàng-kim cống quân-vương.
Ý gian-thần đã trải,
Lòng báo-quốc ai thương.
Lam-chướng đành trôi giạt,
Trung dũng một hòm xương.
Tăng-Uyên-Tử khách-ngụ An-Nam, thấy Tiến-Phụng-Sứ về, khẩu
chiếm bốn câu
An-nam ai bảo xa xăm,
Kế-Châu có kẻ hằng năm đi về.
Giang-Nam, Giang-Bắc bạn bè,
Ba năm thư-tín, chẳng hề gửi thăm.
An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Thập Lục Chung
Chú thích:
1. Dịch là nách, một bên, viên là tòa nhà. Dịch viên là hai tòa Trung-Thơ và
Môn-Hạ ở hai bên cung điện nhà vua. Chưa rõ tác giả của Dịch-Viên-Tùng-
Chí là ai.
2. Sử-Thông do Lưu-Trí-Cơ đời Đường soạn, có 20 quyển, chia ra nội thiên
và ngoại thiên nói về nguồn gốc và đắc thất của sử sách.
3. Ở quyển thứ 8 chép là Công-Trực.
4. Phiên Hậu là những tước vương gần với Thiên Vương.

5. Nước người Mán có tục xuyên hông.
6. Đời nhà Đường, người Việt đem chim địch (trĩ) vào chầu và múa.
7. Mã Viện đời Đông-Hán khi qua đánh Trưng Trắc chưa yên, dưới thì nước
lụt, trên thì mây mù, ngửa mặt thấy diều bay sà xuống nước, có ý buồn nhớ
quê hương.
8. Lưu Bang và Hạng Vũ nổi lên tranh thiên hạ của nhà Tần ví như giành
nhau một con hươu.
9. Bông đằng la.

×