Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Các quan Đô Đốc, Đô-Hộ, Kinh-Lược-Sứ An-nam, Các quan Thứ- Sử ba quận Giao, Ái, Hoan đời nhà Đường – Phần 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.02 KB, 12 trang )

Các quan Đô Đốc, Đô-Hộ, Kinh-Lược-Sứ An-nam, Các quan Thứ- Sử
ba quận Giao, Ái, Hoan đời nhà Đường – Phần 2



Tống-Nhung
Năm Hàm-Thông thứ 4 làm Đô-Hộ, cùng các đạo binh qua cứu viện An-
nam, đồn trú ở Lĩnh-Nam, không chịu tiến, hao tổn lương-thực. Trần-Bàn-
Thạch xin tạo thuyền lớn chở nổi 1.000 hộc, chở gạo từ Phúc-Kiến đến cấp
cho Nam quân. Nhung nghe theo, từ ấy quân lương được đầy đủ.
Cao-Biền
Tự là Thiên-Lý. Nguyên trước mọi Nam-Chiếu công hãm An-nam, Tuyên-
Tông xuống chiếu lập Hành-châu ở Hải-Môn, cho thêm binh hai vạn, khiến
Dung-Quảng Kinh-Lược là Trương-Nhân thâu phục An-nam. Nhân dùng
dằng không tiến, bèn giao binh cho Biền, phong làm chức đô-hộ. Biền chọn
5.000 quân tiến trước, giao ước giám-quân Lý-Duy-Châu kế tục tiến sau.
Duy-Châu đóng quân ở Hải-Môn, Biền tiến đóng Phong-Châu, phá quân
Mán ở huyện Nam-Định, chém bọn Trương-Thuyên, hàng phục được muôn
người, thâu được của để cung cấp quân-dụng. Tin tâu thắng trận về đến Hải-
Môn, Duy-Châu giấu đi và tâu dối rằng Cao-Biền giỡn với quân giặc, chẳng
chịu tiến. Vua giận, sai Hữu-Vũ-Vệ-Tướng-quân Vương-Án-Quyền thay
thế. Lúc ấy, Biền lại đánh phá quân giặc, tiến vây thành Giao-Châu hơn
mười ngày, thế giặc rất nguy khốn. Vừa tiếp được điệp-văn của Án-Quyền,
Biền giao việc quân cho Giám-Quân Vi-Trọng-Tể trông coi, cùng quân dưới
cờ hơn 100 người trở về. Trước đó, Biền khiến Tăng-Cổn về Kinh báo tiệp,
Cổn đi đến giữa bể, trông thấy cờ-xí tiến sang phía đông, nói ấy là thuyền
đội của quan Kinh Lược Sử mới và quan Giám-Quân. Cổn ngờ Duy-Châu
tất cướp lấy biểu-văn, bèn nấp nơi cửa đảo, chờ cho Duy-Châu đi qua rồi
liền ruổi đến Kinh-Sư. Vua tiếp được tấu-văn cả mừng, gia-phong Biền chức
Công-Bộ Thượng-Thư, khiến trở lại trấn An-nam. Biền đi đến Hải-Môn, trở
về nhiệm lại chức cũ.


Trong lúc Án-Quyền ngu hèn, Duy-Châu tham dữ, các tướng chẳng chịu
phục tùng, quân Mán nghe Biền trở lại, bỏ trốn quá nửa. Biền lại khích-lệ
tướng sĩ, đánh được thành, giết man-soái Đoàn-Tù-Thiên và quân Mán hơn
3 vạn người. Thổ-nhơn ngày trước đầu hàng quân Mán, nay đem chúng trở
về hàng-phục. Vua xuống chiếu đặt Tịnh-Hải-Quân ở An-nam, phong Biền
làm Tiết-độ-sứ.
Phụ chép bài văn bia Thiên-Oai-Kỉnh, đường kênh mới đào
Tịnh-hải-tiết-độ, chưởng thơ-ký, triều-nghị-lang, thị-ngự-sử nội-cung-
phụng,
tứ phỉ-ngư-đại (được đeo dãi thêu hình con cá), Bùi-Hình soạn. (Thấy
chép ở sách Ung-Chí)
Biển lớn không bờ, xa tít tận chân trời mờ-mịtt, cuồng phong cuồn cuộn,
sóng lớn nổi dậy, như gò cát trôi, như núi tuyết dựng, nháy mắt trắng xóa
muôn dặm, dầu oai-linh của thuỷ-thần cũng không ngăn cản nổi. Cá voi to
sợ sức dày vò, con trạnh lớn mắc vòng vây khốn, loài thuỷ-tộc lớn lao như
thế, còn chẳng được yên; huống thuyền bè qua ngang, làm sao đi được. Bởi
thế, đã có nhiều thuyền chìm đắm không thể cứu vớt. Có cứu vớt đặng chăng
là nhờ Thiên-Oai-Kỉnh ngày nay vậy.
Từ Đông-Hán Mã-Phục-Ba muốn đánh hai chị em họ Trưng để thâu phục
Giao-Chỉ, vì đường sá chuyển-vận khó-khăn, phải vượt qua bể cả, bèn đục
đá đào núi, để tránh đường biển, nhưng lúc làm công việc, nhân-công chết
hàng vạn người cũng không làm nổi; nhiều khi sét đánh làm cho đá lớn trên
núi lăn xuống ngáng đường; Phục-Ba chẳng làm sao được, bèn phải đình chỉ
công việc.
Từ ngày Hoàng-Đường ta lập cuộc đô-hộ, nghe kể chuyện cũ, nổi giận,
muốn kế-tục làm nốt công việc, bèn khiến khởi công làm lại, nhưng hao
người tốn của, mà công việc làm cũng không nên, dân phu đi làm, chết chóc
bỏ xương đầy đường. Sau đó không ai dám bàn đến việc ấy nữa.
Từ ngày Kỵ-Xạ Bột-Hải-Công ra đánh Mán rợ, vượt bể cả, dẹp yên Giao-
Chỉ, thâu phục quận thành, ruổi ngựa mài gươm, lập đồn đóng trại, nhưng

chuyển vận lương hướng còn phải xông pha sóng gió; bàn luận mưu chước,
chưa được đồng ý về một kế-hoạch nào hay. Bột-Hải-Công nói rằng:
"Chúng ta chinh-phục phương Nam, mở rộng oai-phong hoàng-gia, họp binh
để an dân, phải chịu tốn kém, mới tiện cho công việc", bèn khiến bọn
Trưởng-Sử Lâm-Phúng và Hồ-Nam tướng-quân Dư-Tồn-Cổ lĩnh bản bộ
tướng-sĩ và lấy thêm dân phu hơn một nghìn người, đem đi khai phá Thiên-
Uy-Kỉnh. Bột-Hải-Công dụ rằng: "Đạo trời giúp thuận, sức thần phò trì; nay
chúng ta đào giòng biển để cứu sinh-linh, nếu làm việc ngay thẳng thì chẳng
có gì khó. Các quan đô-hộ trước lại khao quân, mà chẳng đi đến nơi, giữ
phép không nghiêm, nhân việc công để thu lợi riêng, bởi thế, người đều
biếng trể. Nay ta thì chẳng thế, cốt làm cho được việc nhà vua mà thôi". Bọn
Lâm-Phúng vâng lời ra đi.
Bắt đầu từ ngày mồng 5 tháng 4 năm Hàm-Thông thứ 9 (868) mọi người tay
cầm cuốc xuổng, dự bị tiền lương, gặp núi đá đào phăng, chẳng sợ gì cứng
rắn, gặp những tảng đá lớn và dày, thì đông người hợp sức giúp tay, đập phá
cạy xeo, chỉ trong vòng hơn một tháng, đường gần mở xong. Nhưng chặng
giữa có hai đoạn, gặp đá lớn chơm chởm, dăng quanh mấy trượng, cứng rắn
như sắt, không thể đào thông, đục tra xuống thì mũi cong, búa đập vào thì
cán gãy, dân phu ngó nhau ngã lòng, tay chân bải hoãi, chẳng làm thế nào
được. Ngày 16 tháng 5, giữa lúc ban ngày, thình lình mây kéo đen đặc, gió
thổi ào ào, rừng núi tối mờ, ngữa bàn tay không thấy, bỗng chốc sấm vang
chớp nhoáng, ở sở làm có vài trăm tiếng sét đánh dồn, dân phu khiếp đảm,
run rẩy, bưng tai bịt mắt, một lát sau, trời quang mây tạnh, chúng chạy ra
xem, thì đống đá gan lì bỗng dưng tan nát, có những hòn lớn cồng-kềnh, sức
người không sao xeo nổi, đều bị rồng cuốn vứt ra hai bên lèn. Lại ở phía tây
có những tảng đá rắn chắc, đến ngày 11 tháng 6, sấm sét lại đánh dữ dội như
ở phía đông, chúng chạy đến xem, thấy đá tiêu tan đâu mất, những hòn đá
quanh co ở hai bên bị phá vỡ chừng mười trượng. Đi lên phía tây lại gặp
phải đá lớn, người chịu bó tay, chỉ vái trời giúp đỡ, thì sấm chớp lại nổi lên,
đá bị dđánh tan, suối nước tuôn ra mùi như rượu ngọt. Ấy là càn không giúp

sức, thần lực phò-trì, lối hiểm đường nguy, một giây san phẳng, đều nhờ
Bột-Hải-Công lòng không riêng vạy, tinh-thần cảm thấu trời xanh, hoàn
thành việc lớn, thần diệu vô cùng, được sức mặc-tướng âm-phò, từ xưa
không ai sánh kịp. Từ nay một mạch lưu thông, hai hồ liên tiếp, không còn
một chút trở ngại; quan quân kinh quá, biển nước chẳng sợ gian nguy, lương
hướng chở chuyên, thuyền bè không lo chìm đắm. Từ trước đường đi Giao-
Chỉ có ba nơi nguy hiểm:
1 Mũi Hoa-Chùy ở bãi Tống-Động, có sóng to cuồn-cuộn;
2 Rặng Thạch-Giốc ở vũng Nữ-Ân có cá mập vẩy vùng;
3 Sóng thần Đại-Gia dữ-dộ, ai đi qua đó thảy đều rởn óc lạnh mình.
Ngày nay, dòng êm đường phẳng, chẳng phải đi qua những nơi nguy hiểm
ấy nữa. Than ôi! Công cán của Bột-Hải-Công có thể ngang với người đào
Hứa-Cừ và mở Quế-Lĩnh để giúp người đời. Bọn Lâm-Phúng và Tồn-Cổ
siêng lo việc nước, mẫn cán tinh-chuyên, ngoài công việc chỉ- huy, còn biết
xem xét địa-thế, xẻ núi đốn cây, sửa công quán, lập thương-đình, suối đào
cho nước thông, cầu bắt ngang như mống dựng, miếu thần chùa phạt, đền
thờ Thiên-Lôi và nhà thờ Lão-Tử đều xây cất đầy đủ, để lưu truyền đời đời.
Ngày 15 tháng 9 năm nay hoàn thành, bọn Lâm-Phúng và Tồn-Cổ nài xin
dựng bia ghi công, để đời sau được biết. Bột-Hải-Công nhân khiến người
chưởng-thư chép rõ công việc. Tôi là Bùi-Hình chẳng dám khiêm nhường từ
chối, cầm bút làm bài minh rằng:
Trời đất mênh-mông, sức người hèn yếu,
Đường nguy chở gạo, biển cả vượt thuyền,
Chẳng mấy lúc yên, đắm nghiêng thường bị,
Ông tôi quyết kế, đào núi xẻ ngàn;
Công-tác gian-nam, sấm chớp vang dậy,
Biển thông lối chảy, thuyền dễ qua ngang,
Sông nước phẳng bằng, thuận đường vận-tải,
Đạo trời khai thái, oai thần phò-trì.
Ngày 13 tháng giêng năm Hàm-Thông thứ 11, (870) dựng bia.

"Nền cũ ở phía nam Giao-Chỉ, thời Hàm-Thông (860-873), Bột-Hải-Công
Cao-Biền, đi đánh phương Nam, mở đường vận-tải lương-thực, có sét đánh
trời giúp, bèn dựng đá lớn ghi công. Lối đi đặt tên là Thiên-Oai. Đến đời
Chiêu-Hy (Chiêu-Tông) (889-903), Hy-Tông (874-888), Trung-Nguyên loạn
lạc, bỏ ra ngoài bờ cõi, không ngó đến, nhà Tống ta nhân theo, cũng chẳng
sửa chữa đường đi ngoại bang. Thái-Thú Ung-Châu là Hoắc-Trung-Cẩn tình
cờ tìm thấy bản khắc cũ, sợ ở chỗ xa xuôi, lâu ngày vùi lấp thất truyền, bèn
khiến thợ khắc đá, dựng ở bên hữu sảnh-đường, ý muốn tỏ cho người xa biết
được thánh đức của nhà vua, hằng năm phải lo việc tiến công, không nên trễ
nải vậy.
Ngày 21 tháng 1 năm Thiệu-Thánh thứ 5 (4)
Cao-Tầm
Theo Cao-Biền thâu phục Giao-Chỉ có công; vua khiến thay Biền làm chức
Tiết-Độ-Sứ.
Tăng-Cổn
Tỳ-tướng của Cao-Biền, thường vì Cao-Biền đi báo tin thắng trận tại An-
nam. Trong năm Càn-Phù thứ 4 (877), được bổ-nhiệm chức An-nam đô-hộ.
Thời ấy vua Nam-Chiếu là Tù-Long mất, con là Pháp nối ngôi, xưng hiệu
Đại-Phong-Nhân, cử quân xâm phạm An-nam, Cổn chạy qua Ung-Châu, đạo
binh đồn trú tan rã. Gặp lúc vua Hy-Tông chạy ra đất Thục, Trần-Kỉnh-
Huyên đề-nghị hoà với Nam-Chiếu, Lư-Huệ-Đậu và Lư-Trác bèn nói dối với
vua rằng: "Từ cuối đời Hàm-Thông (860-873), quân Mán làm phản, xâm
nhập bốn Châu: An-nam, Ung, Quản, và Kiềm, thiên-hạ tao loạn đã mười
lăm năm nay; quá nửa tô-thuế không nạp về Kinh-Sư, kho-tàng trống rỗng,
quân lính bị chết vì lam chướng, đốt xương gửi tro về; người chẳng nghĩ đến
nhà, chỉ lo vong mạng làm trộm cướp, thực đáng đau lòng, huống chi quân
đồn-thú An-nam ít ỏi, nạn cướp mùa đông rất đáng lo ngại. Nay ta khiến sứ-
giả đi báo hoà hão, tuy họ chưa xưng thần, nhưng ta cũng có thể dùng mưu
lung lạc bọn họ bắt phải phục tùng, như thế trong nước sẽ được nghĩ ngơi
vậy". Vua cho lời tâu là phải. Nhưng vừa lúc giặc Hoàng-Sào (5) đã yên, nên

không khiến đi nghị hoà.
Kính-Ngạn-Tông
Làm Thứ-Sử Ái-Châu đời nhà Đường.
Thôi-Lập-Tín
Làm An-nam đô-hộ, rể là Bùi-Duy-Nhạc quyền nhiếp chức Thứ-Sử Hoan-
Châu, tham dữ quá độ. Tống Giao-Châu Chuyển-Vận-Sứ, An-Vũ-Sứ
Hầu-Nhơn-Bữu
Con của Thái-Sư Hầu-Ích, được tể-tướng Triệu-Phổ gã em gái và cho bổ
nhiệm công-vụ ở Tây-Lạc luôn mười năm, không thay đổi. Lư-Đa-Tốn có
hiềm khích với Triệu-Phổ, gặp lúc Phổ phải ra nhiệm ngoại-trấn, Đa-Tốn
làm Tham-Tri chính-sự, bèn đổi Nhân-Bữu qua coi việc Ung-Châu, mười
năm không được thay thế. Nhân-Bữu tự nghĩ chắc phải chết già ở cõi ngoài,
nhơn dâng kế-sách bình định Giao-Châu, nói hiệu nay chủ-súy Giao-Châu
đã bị hại, trong nước đương loạn, có thể đem một đạo quân nhỏ thừa thời
đánh chiếm, và cầu xin về triều tấu việc. Sở vào, vua Thái-Tông cả mừng,
khiến ngựa trạm ra triệu về. Đa-Tôn tâu rằng: "Giao-Chỉ có nội loạn, ấy là
thời trời làm mất nước ấy, triều-đình phát binh thừa lúc bất ý, ví như sét
đánh chẳng kịp bưng tai vậy. Nay triệu Nhân-Bữu về, mưu của ta đã lậu, họ
sẽ biết mà ngừa trước, dựa vào thế núi rừng hiểm trở, không thể đánh được
nữa. Bây giờ, nên cho Nhân-Bữu làm Chuyển-Vận-Sứ, theo đường tắt qua
nhận chức, rồi khiến phát quân Kinh, Hồ 3 vạn người, ruổi thẳng đánh vào,
thế ắt vạn toàn, dễ như đập lá khô và bẻ củi mục vậy". Vua cho lời tâu là
phải, bèn phong cho Nhân-Bữu làm Giao-Châu thủy-lục chuyển-vận-sứ.
Nhân-Bữu tiến binh, gặp quân địch rất mạnh; viện binh không đến, nên
Nhân-Bữu bị giết chết giữa sông. Thái-Tôn nghe tin rất lấy làm thương xót,
truy tặng chức Công-Bộ Thị-Lang và cho hai người con là Diên-Linh và
Diên-Thế đều làm Trai-Lang; Diên-Linh làm đến chức Điện-Trung-Thừa và
Diên-Thế đến chức Thái-Tử Trung-Xá.
Thiệu-Diệp
Năm Cảnh-Đức thứ 2 (1005), làm chức Quang-Lộc-Khanh, Giao-Châu An-

Vũ-Quốc-Tín-Sử. Năm thứ 3 (1006), Giao-Soái Lê-Hoàn mất, trong nước
đương loạn, vua xuống chiếu khiến Diệp cùng với Lăng-Sách Quảng-Châu
đồng đi Kinh-lược, xem tiện-nghi tâu về cho vua nghe. Tháng 8, Diệp dâng
bảnđồ đường thuỷ và đường bộ từ Ung-Châu tới Giao-Chỉ. Chân-Tông đưa
cho cận-thần xem và nói rằng: "Giao-Châu là nơi độc-địa, nếu đem binh qua
đánh thì tử-thương ắt nhiều; vả lại tổ-tôn mở mang cương thổ rộng lớn
nhường ấy, chúng ta chỉ nên giữ gìn cẩn-thận mà thôi", bèn khiến Diệp làm
Binh-Bộ Viên-Ngoại-Lang, vỗ yên Giao-Chỉ, việc xong được thưởng công.
An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Cửu Chung
Chú Thích:
1. Việt-sử Thông-giám chép: Quang-Sở-Khách.
2. Vĩnh-Thái là niên hiệu của Đại-Tông nhà Đường, chỉ có một năm đầu là
năm 765 sau công-nguyên.
3. Đồng-mông là một loại chiến-thuyền, hẹp mà dài, dùng để xông vào đánh
thuyền địch.
4. Niên hiệu Thiệu-Thánh chỉ có bốn năm 1094-1097.
5. Hoàng-Sào đời Ý-Tông nhà Đường, thi tiến-sĩ hỏng, làm phản vào đời
Hy-Tông, bắt đầu từ năm Càn-Phù thứ 2 (875) đến năm Trung-Hoà thứ 4
(884) mới bị dẹp yên.

×