Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ SINH THÁI LÊN CƠ THỂ SINH VẬT ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.72 KB, 11 trang )

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ SINH
THÁI LÊN CƠ THỂ SINH VẬT


A. Ảnh hưởng của các nhân tố vô sinh
1. Nhiệt độ
Nhiệt độ ảnh hưởng thường xuyên tới các hoạt động sống của sinh vật.
Thực vật và các động vật biến nhiệt như ếch nhái, bò sát phụ thuộc trực
tiếp vào nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ môi trường tăng hay giảm thì nhiệt
độ cơ thể của chúng cũng tăng, giảm theo.
Động vật đẳng nhiệt như chim và thú do có khả năng điều hòa và giữ
được thân nhiệt ổn định nên có thể phát tán và sinh sống khắp nơi. Ví dụ, ở
vùng băng giá Cực Bắc (lạnh tới - 40
o
C) vẫn có loài cáo cực (thân nhiệt
38
o
C) và gà gô trắng (thân nhiệt 43
o
C) sinh sống.
Các loài sinh vật phản ứng khác nhau với nhiệt độ.
Ví dụ, cá rô phi ở nước ta chết ở nhiệt độ dưới 5,6
o
C và trên 42
o
C và phát
triển thuận lợi nhất ở 30
o
C. Nhiệt độ 5,6
o
C gọi là giới hạn dưới, 42


o
C gọi là
giới hạn trên và 30
o
C là điểm cực thuận của nhiệt độ đối với cá rô phi ở Việt
Nam. Từ 5,6
o
C đến 42
o
C gọi là giới hạn chịu đựng hay giới hạn sinh thái về
nhiệt độ của cá rô phi ở Việt Nam.



Nhiệt độ môi trường tăng lên làm tăng tốc độ của các quá trình sinh lí
trong cơ thể sinh vật. Ở động vật biến nhiệt, nhiệt độ môi trường càng cao
chu kì sống của chúng càng ngắn. Ví dụ, ruồi giấm có chu kì sống (từ trứng
đến ruồi trưởng thành) ở 25
o
C là 10 ngày đêm còn ở 18
o
C là 17 ngày đêm.
Sự biến đổi của nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng tới các đặc điểm
hình thái (nóng quá cây sẽ bị cằn) và sinh thái (chim di trú vào mùa đông,
gậm nhấm ở sa mạc ngủ hè vào mùa khô nóng)
Sinh vật cũng chịu tác động của độ ẩm, ánh sáng như đối với nhiệt độ
theo cách trên : Có giới hạn chịu đựng dưới và trên đối với mỗi nhân tố sinh
thái ấy (giới hạn dưới và giới hạn trên); có một điểm cực thuận (ở đó sinh
vật phát triển thuận lợi nhất).


2. Độ ẩm và nước
Nước là thành phần quan trọng của cơ thể sinh vật : chiếm từ 50% đến
98% khối lượng của cây, từ 50% (ở Thú) đến 99% (ở Ruột khoang) khối
lượng cơ thể động vật.
Mỗi động vật và thực vật ở cạn đều có một giới hạn chịu đựng về độ ẩm.
Loại châu chấu di cư có tốc độ phát triển nhanh nhất ở độ ẩm 70%. Có sinh
vật ưa ẩm (thài lài, ráy, muỗi, ếch nhái ), có sinh vật ưa khô (cỏ lạc đa`,
xương rồng, nhiều loại thằn lằn, chuột thảo nguyên). Nước ảnh hưởng lớn
tới sự phân bố của sinh vật. Trên sa mạc có rất ít sinh vật, còn ở vùng nhiệt
đới ẩm và nhiều nước thì sinh vật rất đông đúc.

3. Ánh sáng
Ánh sáng Mặt Trời là nguồn năng lượng cơ bản của mọi hoạt động sống
của sinh vật. Cây xanh sử dụng năng lượng ánh sáng Mặt Trời khi quang
hợp. Động vật ăn thực vật lá đã sử dụng gián tiếp năng lượng ánh sáng Mặt
Trời. Ánh sáng tác động rõ rệt lên sự sinh trưởng, phát triển của sinh vật.
Cây đậu xanh đặt trong ánh sáng liên tục thì lớn nhanh nhưng ra hoa muộn
tới 60 ngày.
Tăng cường độ chiếu sáng cho cá hồi và chim thì chúng phát triển nhanh
hơn nhưng nếu chiếu sáng quá dài lại làm cho chúng sinh trưởng kém đi.
Các vùng của quang phổ đều có tác động đặc trưng lên cơ thể sinh vật
Các tia sáng nhìn thấy được (bước sóng từ 4000 Å đến 8000 Å) chứa
đựng phần lớn năng lượng của bức xạ Măt Trời toả xuống mặt đất, có tầm
quan trọng lớn đối với cơ thể sinh vật. Cây xanh tổng hợp chất hữu cơ nhờ
năng lượng của các tia sáng này.
Các tia tử ngoại có bước sóng cực ngắn, gây chết cho sinh vật còn tia có
cước sóng 3000 Å - 4000 Å lại cần để tổng hợp vitamin D. Chiếu tia tử
ngoại vào sinh vật một liều lượng lớn sẽ gây đột biến.
Các tia hồng ngoại có bước sóng dài hơn 8000 Å là một nguồn nhiệt quan
trọng, sưởi nóng cây cối và cơ thể động vật biến nhiệt (thằn lằn, rắn, sâu bọ)

sử dụng nguồn nhiệt ánh sáng Mặt Trời để nâng cao thân nhiệt.
Nhịp chiếu sáng ngày đêm đã hình thành nhóm sinh vật ưa hoạt động
ngày và nhóm ưa hoạt động đêm.
Ngoài ba nhân tố trên còn có nhiều nhân tố vô sinh khác ảnh hưởng tới
đời sống của sinh vật như đất, gió, độ mặn của nước, nguyên tố vi lượng
Đất không chỉ là giá đỡ cho cây phát triển, là nơi làm tổ của một số động
vật mà còn là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây và nhiều động vật.
Gió làm thay đổi thời tiết, đưa phấn hoa, hạt cây đi xa. Giông bão gây
thiệt hại cho động vật, thưc vật và hủy môi trường.

B. Ảnh hưởng của các nhân tố hữu sinh
Sinh vật có quan hệ tác động qua lại với các sinh vật khác sống chung
quanh, với sinh vật kí sinh trên cơ thể và trong cơ thể.
Có hai nhóm nhân tố hữu sinh : quan hệ cùng loài và quan hệ khác loài.
1. Quan hệ cùng loài
Gà con mới nở, lợn con mới sinh đều có xu hướng tụ tập bên nhau tạo
thành các quần tụ cá thể. Mức độ quần tụ cực thuận thay đổi tùy loài (sinh
sản nhiều hay ít, phạm vi hoạt động rộng hay hẹp ), tuỳ giai đoạn phát triển
và tuỳ điều kiện cụ thể (nơi ở, khí hậu, thức ăn )
Quần tụ cây chống gió và chống mất nước tốt hơn.
Quần tụ cá chịu được nồng độ chất độc cao hơn cá đơn độc.
Các cá thể trong quần tụ được bảo vệ tốt hơn, chúng đua nhau tìm thức ăn
và ăn nhiều hơn.
Tuy nhiên khi quần tụ qúa mức độ cực thuận sẽ gây ra sự cạnh tranh (do
thiếu thức ăn, nơi ở, tranh giành cá thể cái). Kết quả là một số cá thể phải
tách khỏi quần tụ (nhóm và bầy đa`n). Đó là sự cách li.
Sự cách li làm giảm nhẹ cạnh tranh, ngăn ngừa sự gia tăng số lượng cá thể
và sự cạn kiệt nguồn thức ăn dự trữ.
Một số cá thể (hổ, báo ), một cặp hoặc nhóm cá thể (bò rừng, sư tử, cá )
có bản năng bảo vệ tích cực và nghiêm ngặt vùng sống, coi vùng sống là

lãnh thổ riêng của mình.

2. Quan hệ khác loài
Quan hệ sinh thái giữa các cá thể khác loài chủ yếu là quan hệ dinh dưỡng
và nơi ở. Tính chất của quan hệ này là hỗ trợ hoặc đối địch.
a. Quan hệ hỗ trợ
Trong thiên nhiên có nhiều trường hợp sống chung giữa các cá thể khác
loài. Vi khuẩn lam cộng sinh với nấm thành địa y;


vi khuẩn cố định đạm sống trong nốt sần rễ cây họ đậu; trùng roi
Trichomonas sống trong ruột mối giúp mối tiêu hoá xenlulô; hải quì bám
trên vỏ ốc của tôm kí cư.


Đây là quan hệ cộng sinh, cần thiết, có lợi cho hai bên cả về dinh dưỡng
lẫn nơi ở.
Nhạn bể và cò làm tổ tập đoàn. Quan hệ sống chung này cũng có lợi cho
cả hai bên, tuy nhiên không nhất thiết cần cho sự tồn tại của chúng. Đây chỉ
là quan hệ hợp tác.
Hiện tượng ở gửi của nhiều loài động vật không xương sống, nhất là sâu
bọ sống nhờ trong tổ kiến và tổ mối, cũng là một dạng quan hệ hỗ trợ nhưng
chỉ có lợi cho một bên gọi là quan hệ hội sinh.

b. Quan hệ đối địch
Quan hệ đối địch giữa các cá thể khác loài cũng phổ biến trong thiên
nhiên. Ví dụ, thú có túi sống phổ biến khắp châu Úc. Thỏ và cừu được nhập
vào châu Úc, thích ứng với môi trường sống mới dễ dàng và phát triển
mạnh, giành lấy những nơi ở tốt, làm cho nơi ở của thú có túi phải co hẹp
lại. Thỏ và cừu đã cạnh tranh nơi ở, làm ảnh hưởng tới sự phân bố của thú có

túi. Quan hệ cạnh tranh về nơi ở và chất dinh dưỡng cũng thường diễn ra
mạnh mẽ giữa cây trồng và cỏ dại.
Cáo bắt gà, chó sói ăn thịt thỏ là thể hiện mối quan hệ đối địch giữa động
vật ăn thịt và con mồi.
Hiện tượng giun kí sinh trong động vật và người; rận, chấy kí sinh ngoài
da động vật và người; dây tơ hồng hay tầm gửi sống bám vào cây khác là
dạng quan hệ sinh vật kí sinh – sinh vật chủ. Đó là quan hệ sống bám của
một sinh vật này trên cơ thể sinh vật khác bằng cách ăn mô hoặc thức ăn đã
được tiêu hoá của vật chủ mà không giết chết sinh vật chủ.
Nhiều loài thực vật tiết ra chất phitônxit kìm hãm sự phát triển của các
sinh vật xung quanh: chất gây đỏ nước của tảo giáp làm chết nhiều thực vật
va` động vật trên bề mặt ao hồ. Tảo tiểu cầu tiết ra chất kìm hãm sự phân
chia và quá trình thẩm thấu của rận nước. Đây là dạng quan hệ ức chế - cảm
nhiễm.

C. Sự tác động tổng hợp của các nhân tố sinh thái
Mỗi cây lúa sống trong ruộng đều chịu tác động cùng một lúc của nhiều
nhân tố sinh thái như nước, ánh sáng, nhiệt độ, đất, gió, sự chăm sóc của con
người Nếu cây được chăm bón đầy đủ chất dinh dưỡng thì khả năng chống
chịu của cây với những biến động của các nhân tố sinh thái khác bao giờ
cũng tốt hơn.
Như vậy, sự tác động của nhiều nhân tố sinh thái lên một cơ thể sinh vật
không phải là sự cộng đơn giản tác động của từng nhân tố sinh thái mà là sự
tác động tổng hợp của cả phức hệ nhân tố sinh thái ấy.

D. Ảnh hưởng của nhân tố con người
Con người cùng với quá trình lao động và hoạt động sống của mình đã
thường xuyên tác động mạnh mẽ trực tiếp hay gián tiếp tới sinh vật và môi
trường sống của chúng.
Tác động trực tiếp của nhân tố con người tới sinh vật thường qua nuôi

trồng, chăm sóc, chặt tỉa, săn bắn, đốt rẫy, phá rừng. Bất kỳ hoạt động nào
của con người như khai thác rừng, mỏ, xây đập chắn nước, khai hoang, làm
đường, ngăn sông, lấp biển, trồng cây gây rừng đều làm biến đổi mạnh mẽ
môi trường sống của nhiều sinh vật và do đó ảnh hưởng tới sự sống của
chúng.
Do vậy, mỗi người chúng ta phải có ý thức bảo vệ sinh vật, bảo vệ môi
trường sống của sinh vật (trong đó có cả con người) và tạo lại cân bằng sinh
thái cho các môi trường đã bị huỷ hoại ngay tại trường, làng xóm, phường,
xã, quê hương mình.

×