Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Lý sinh học phần 9 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.54 KB, 17 trang )

Cũng như thuyết đông tụ, thuyết phá hủy cấu trúc đưa ra chỉ là để giải thích về sự thay
đổi tính chất hóa lý của nguyên sinh chất, mới giải thích hiện tượng của quá trình hưng
phấn mà chưa giải thích được bản chất của quá trình hưng phấn.

IV. Lý thuyết hưng phấn của Nernst (1899)
Năm 1887, Arenius công bố các chất khi hòa tan trong nước sẽ phân ly thành các ion
dương và ion âm, dưới tác dụng của dòng điện ngoài, các ion sẽ chạy về điện cực mang
điện tích trái dấu với điện tích ion. Các ion có kích thước và bản chất điện tích khác nhau
nên có vận tốc chuyển động về hai cực cũng khác nhau. Sau khoảng thời gian nhất định
sẽ tạo nên những lớp có mật độ ion khác nhau, tức sẽ xuất hiện một hiệu điện thế. Nếu
ngắt nguồn điện bên ngoài, thay vào đó cắm 2 điện cực vào dung dịch điện phân, nối với
một bóng điện thì đèn sẽ sáng. Đó là dòng điện xuất hiện trong dung dịch điện phân. Năm
1899, Nernst dựa trên kết quả nghiên cứu của Arenius cũng xem tế bào như một dung
dịch chất điện phân được bao bọc bởi màng tế bào. Dưới tác dụng của dòng điện kích
thích, các ion âm và dương trong tế bào chất sẽ chạy về hướng điện cực kích thích có
điện tích trái dấu với điện tích ion. Sau một thời gian các ion âm và dương chuyển động
theo hai hướng khác nhau sẽ tập trung ở hai phía của màng tế bào. Ở ngoại bào cũng có
các ion dương và âm, do lực hút tĩnh điện, nếu ở một phía tế bào, mặt trong tích điện âm
thì mặt ngoài màng tích điện dương còn ở phía kia của tế bào ở mặt trong sẽ tích điện
dương và mặt ngoài màng tích điện âm. Kết quả là giữa bên trong và bên ngoài màng tế
bào đã hình thành nên một hiệu điện thế và khi điện thế này đạt giá trị ngưỡng thì tạo ra
sự hưng phấn. Sự chênh lệch về nồng độ ion liên quan đến cường độ và thời gian kích
thích và để tạo ra hưng phấn phải thỏa mãn công thức:

k
t
.i.CC
o
γ=−
(7.3)
C: Nồng độ ion tự do khi tế bào hưng phấn


C
o
: Nồng độ ion tự do khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi
γ: Số lượng ion được dịch chuyển do một đơn vị cường độ dòng điện
i: Cường độ dòng điện; t: Thời gian kích thích
k: Hệ số khuyếch tán của ion
Nếu kích thích bằng dòng điện một chiều thì mối liên quan giữa cường độ dòng điện và
thời gian kích thích phải thỏa mãn công thức:

ti
= hằng số (7.4)
Trong giới hạn về cường độ dòng điện kích thích thì nếu cường độ dòng điện tăng thì
thời gian kích thích giảm và ngược lại, để duy trì tích số của cường độ dòng điện với thời
gian luôn là một hằng số.
Nếu kích thích bằng dòng điện xoay chiều thì mối liên quan giữa cường độ và tần số
dòng điện phải thỏa mãn công thức:

ω
i
= hằng số (7.5)
Trong giới hạn về cường độ dòng điện kích thích, nếu tần số cao thì cường độ dòng điện
phải lớn còn tần số thấp thì cường độ dòng điện nhỏ, để duy trì tỷ số giữa cường độ và
tần số luôn là một hằng số. Các công thức trên do Nernst đưa ra chỉ đúng trong phạm vi
tần số 100 Hz đến 3 kHz.
Kết quả thực nghiệm cho thấy nếu kích thích cường độ dưới ngưỡng và kích thích lâu
hoặc kích thích cường độ lớn với thời gian kích thích ngắn thì đều không gây ra hưng
phấn. Ở mỗi đối tượng nghiên cứu khi kích thích cường độ dòng điện là 1 reobaz thì có
một thời gian kích thích cần thiết (thời gian hữu ích).
Bảng 7.1: Thời gian hữu ích của một số đối tượng nghiên cứu


TT

Đối tượng nghiên cứu Thời gian hữu ích
1 Cơ trơn dạ dày ếch 1 giây
2 Cơ trơn của nhuyễn thể 10
-1
giây
3 Cơ chân của nhuyễn thể 10
-2
giây
4 Thần kinh ếch 10
-3
giây
5 Thần kinh động vật máu nóng 10
-4
giây

Lý thuyết hưng phấn của Nernst không nêu ra cụ thể sự thay đổi nồng độ của những ion
nào và giới hạn ngưỡng nồng độ là bao nhiêu để có thể tạo ra hưng phấn.

V. Lý thuyết hưng phấn của Bernstein (1906)
Năm 1906, Bernstein đưa ra lý thuyết hưng phấn để giải thích cơ chế hình thành điện
thế tĩnh khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi và cơ chế hình thành điện thế hoạt động khi tế
bào ở trạng thái hưng phấn. Bernstein cho rằng tế bào khi ở trạng thái nghỉ ngơi do màng
có tính bán thấm tức là thấm K
+
dễ dàng còn Na
+
thấm ít, trong khi đó hoàn toàn không
thấm các phân tử hữu cơ mang điện tích âm (gọi là các amion hữu cơ). Do vậy, tế bào ở

trạng thái tĩnh, bên trong có điện tích âm còn ngoài màng có điện tích dương nên tồn tại
điện thế tĩnh và chiều điện trường hướng từ ngoài vào trong tế bào. Bernstein đơn thuần
chỉ xét sự chênh lệch nồng độ K
+
ở bên trong và bên ngoài tế bào, áp dụng công thức của
Nernst tính được giá trị điện thế tĩnh phù hợp với giá trị đo trực tiếp bằng phương pháp vi
điện cực. Sau này có nhiều số liệu thực nghiệm làm sáng tỏ thêm lý thuyết của Bernstein.
Xegan đã chứng minh các ion hóa trị hai (như Ca
++
, Mg
++
, ) hút phân tử nước (H
2
O)
mạnh hơn so với ion hóa trị một (như Na
+
, K
+
, Cl
-
). Vì thế lớp vỏ hidrat hóa của ion
hóa trị hai dày hơn so với ion hóa trị một, nên ion hóa trị hai khó lọt qua siêu lỗ ở trên
màng so với ion hóa trị một. Mặt khác, cùng một loại ion, nếu ion nào có kích thước nhỏ
(hay nguyên tử lượng bé) sẽ có điện trường lớn so với ion có kích thước lớn (hay nguyên
tử lượng lớn). Vì thế ion có kích thước bé hút nước mạnh hơn so với ion có kích thước
lớn nên xảy ra hiện tượng, trong dung dịch ion có kích nhỏ lại khó thấm qua siêu lỗ trên
màng so với ion có kích thước lớn hơn. Ví dụ Na
+
có đường kính 1,9A
0

bị 8 phân tử H
2
O
bao quanh còn K
+
có đường kính 2,6A
0
chỉ có 4 phân tử H
2
O bao quanh nên K
+
thấm qua
siêu lỗ trên màng dễ hơn so với Na
+
. Năm 1955, Hodgkin và Katz bằng phương pháp
đồng vị phóng xạ đánh dấu xác định được khi tế bào ở trạng thái tĩnh, dòng Na
+
đi ra
bằng dòng Na
+
đi vào còn dòng K
+
đi ra lớn gấp xấp xỉ 1,63 lần so với dòng K
+
đi vào.
Hơn nữa khi tế bào ở trạng thái tĩnh, nồng độ Na
+
ở bên ngoài lớn hơn so với bên trong
nên chiều gradien nồng độ Na
+

hướng từ ngoài vào trong còn nồng độ K
+
bên trong lại
cao hơn bên ngoài nên chiều gradien nồng độ K
+
lại hướng từ trong ra ngoài . Song do
tính bán thấm của màng, theo tính toán của Goldman cho thấy K
+
đi ra theo gradien
nồng độ K
+
nhanh gấp 76 lần so với Na
+
đi vào cùng chiều gradien nồng độ Na
+
. Kết quả
thực nghiệm khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết Bernstein, tính bán thấm của màng
là nguyên nhân dẫn đến sự phân bố không đồng đều của các ion giữa bên trong và bên
ngoài màng tế bào nên đã tạo thành điện thế tĩnh. Sau này, năm 1942, Cuatite và Cole lại
chứng minh rằng K
+
đóng vai trò chính trong việc duy trì điện thế tĩnh. Hai ông đã tăng
nồng độ K
+
ở ngoại bào lên (tức làm giảm sự chênh lệch nồng độ K
+
giữa bên trong và
bên ngoài màng tế bào) thì giá trị điện thế tĩnh cũng giảm dần. Khi nồng độ K
+
ở bên

ngoài bằng nồng độ K
+
ở bên trong tế bào thì điện thế tĩnh sẽ bằng không. Khi giảm dần
nồng độ K
+
ở bên ngoài về giá trị như lúc ban đầu thì điện thế tĩnh lại được khôi phục.
Song nếu tăng nồng độ Na
+
ở trong tế bào lên thì điện thế tĩnh vẫn không thay đổi. Khi bị
kích thích, tế bào đã chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái hưng phấn và tế bào bị đổi
cực, tức là bên trong tế bào có điện tích dương còn bên ngoài có điện tích âm. Khi tế bào
hưng phấn, Bernstein cho rằng màng tế bào đã mất tính bán thấm nên không còn phân
biệt tính thấm giữa K
+
với Na
+
và cho cả các anion hữu cơ thấm ra bên ngoài. Chính do
các anion hữu cơ thấm ra ngoài và các Na
+
thấm vào trong dễ dàng hơn so với K
+
thấm ra
ngoài đã làm cho tế bào bị đổi cực. Sau này thực nghiệm đo được giá trị tuyệt đối của
điện thế hoạt động lớn hơn giá trị tuyệt đối của điện thế tĩnh nhưng theo giả thuyết của
Bernstein thì không giải thích được bản chất của hiện tượng này. Ví dụ noron thần kinh
lúc nghỉ ngơi có điện thế tĩnh là -90mV còn khi hưng phấn có điện thế hoạt động từ 120
đến 130mV. Năm 1949, Hodgkin và Katz đã làm thí nghiệm chứng minh rằng khi noron
hưng phấn tính thấm của màng đối với Na
+
vào trong tế bào tăng lên 500 lần so với khi

noron nghỉ ngơi. Ngược lại, khi noron nghỉ ngơi màng tế bào cho K
+
thấm ra ngoài lại
nhanh gấp 76 lần so với Na
+
thấm vào trong tế bào.
Sau này Goldman đưa ra công thức để tính điện thế tĩnh và điện thế hoạt động. Mỗi ion
có một hệ số thấm đặc trưng. Khi noron nghỉ ngơi, nếu lấy tính thấm của màng đối với
K
+
làm đơn vị so sánh và qui ước P
K+
=1 thì tính thấm của màng đối với Na
+
là P
Na+
=
0,013 còn tính thấm của màng đối với Cl
-
là P
Cl-_
= 0,045. Cùng với việc xác định nồng độ
K
+
, Na
+
, Cl
-
ở bên ngoài và bên trong noron lúc nghỉ ngơi, thay các giá trị đã biết vào
công thức Gondman sẽ tính được điện thế tĩnh bằng -89mV. Khi noron hưng phấn nếu

vẫn lấy P
K+
= 1 làm đơn vị để so sánh thì P
Na+
= 20, P
Cl-
= 0,045. Cũng xác định nồng độ
K
+
, Na
+
, Cl
-
ở bên trong và bên ngoài noron lúc hưng phấn, thay các giá trị đã biết vào
công thức Goldman sẽ tính được điện thế hoạt động bằng 38mV. Khi noron hưng phấn,
điện màng đã chuyển từ -89mV lên 38mV, do vậy giá trị tuyệt đối của điện thế hoạt động
phải là |-89mV|+38mV=127mV. Như vậy, bản chất của hiện tượng điện thế hoạt động có
giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị tuyệt đối của điện thế tĩnh. Khi ngừng kích thích, màng
noron sẽ khôi phục lại tính bán thấm để duy trì sự chênh lệch về nồng độ ion giống như
lúc ban đầu, tức là duy trì điện thế tĩnh.
Lý thuyết màng của Bernstein chưa đề cập đến vai trò của các ion hóa trị hai như Ca
++
,
Mg
++
Nhiều kết quả thực nghiệm đã xác định vai trò của Ca
++
trong quá trình hình
thành điện thế sinh vật. Một số nhà khoa học giả thiết rằng, ở trên màng tế bào có các
kênh dẫn "nhanh" và "chậm" đối với các ion. Khi tế bào hưng phấn, các kênh dẫn

"nhanh" cho dòng Na
+
vào trong tế bào để khử cực tế bào (tức đổi dấu điện tích âm sang
dương). Sau đó các kênh dẫn "chậm" tiếp tục cho Na
+
và Ca
++
vào trong tế bào để kết
thúc quá trình khử cực (tức là xuất hiện điện thế hoạt động).
Lý thuyết màng của Bernstein, mặc dù đã được các nhà khoa học bổ sung nhưng vẫn
chưa đầy đủ. Do vậy, vấn đề này vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
VI. Lý thuyết hưng phấn của Laxarev
Năm 1887, Ringer là người đầu tiên phát hiện dung dịch đẳng trương NaCl có cho thêm
KCl và CaCl
2
theo một tỷ lệ nhất định, giữ cho cơ ếch có phản xạ co cơ giống như trong
cơ thể còn nguyên vẹn trong thời gian lâu hơn nhiều so với cơ ếch chỉ ngâm trong dung
dịch đẳng trương NaCl. Sau này Zac và Lob tiến hành thí nghiệm trên trứng cá Fundulus
thấy rằng: Trứng không nở trong dung dịch chỉ có NaCl. Nếu dùng dung dịch CaSO
4

nồng độ xác định để thêm vào dung dịch NaCl với một tỷ lệ thích hợp, tạo ra sự tương
quan tối ưu giữa các ion thì trứng cá Fundulus sẽ đạt tỷ lệ tạo thành phôi cao nhất là 75%.
Sau này tiếp tục có nhiều số liệu thực nghiệm chứng minh rằng noron thần kinh chỉ có
thể hưng phấn khi trong bào tương của sợi trục có cả ion hóa trị một và ion hóa trị hai.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, Laxarev đã đưa ra lý thuyết ion về sự tương thích
hoặc đối kháng giữa một số ion. Ông cho rằng, khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi sẽ duy trì
tỷ lệ giữa ion hóa trị một và ion hóa trị hai ở một giá trị xác định và không thay đổi:

2

1
C
C
= hằng số (7.6)
C
1
: Nồng độ ion hóa trị 1
C
2
: Nồng độ ion hóa trị 2
Khi kích thích, tỷ số này bị thay đổi dẫn đến sự hưng phấn nếu tỷ số này tăng hoặc dẫn
tới sự ức chế hưng phấn nếu tỷ số này giảm.
Lý thuyết hưng phấn của Laxarev giải thích được kết quả thí nghiệm của Flygn. Đó là
hiện tượng kích thích bằng dòng điện một chiều, khi đóng mạch thì hưng phấn xuất hiện
ở cực âm còn cực dương thì bị ức chế. Ngược lại khi ngắt mạch, hưng phấn lại xuất hiện
ở cực dương còn cực âm lại bị ức chế. Laxarev giải thích như sau: Khi đóng mạch, các
ion dương sẽ rời khỏi cực dương về phía cực âm theo hướng của điện trường. Ion dương
hóa trị một linh động hơn so với ion dương hóa trị hai cho nên tập trung ở cực âm nhiều
hơn. Do vậy, ở cực âm tỷ lệ giữa ion hóa trị một trên ion hóa trị hai tăng lên, dẫn đến
hưng phấn xuất hiện ở cực âm. Ngược lại ở cực dương, các ion dương hóa trị hai rời
chậm nên có nồng độ cao hơn so với ion dương hóa trị một đã rời nhanh làm cho tỷ lệ ion
hóa trị một trên ion hóa trị hai giảm xuống gây ra sự ức chế hưng phấn ở cực dương. Khi
ngắt mạch, không còn dòng điện kích thích, các ion sẽ trở về trạng thái phân bố như lúc
ban đầu (lúc chưa kích thích). Các ion dương lại di chuyển từ cực âm về phía cực dương.
Ion dương hóa trị một bị ít phân tử nước bao quanh so với ion dương hóa trị hai nên ion
dương hóa trị một dễ dàng thoát ra khỏi các phân tử nước bao quanh hơn ion hóa trị hai.
Tại cực dương, tỷ lệ ion dương hóa trị một trên ion dương hóa trị hai tăng lên, dẫn đến
hưng phấn lại xuất hiện ở cực dương. Ngược lại, ở cực âm, các ion dương hóa trị hai rời
chậm nên lại có nồng độ cao hơn so với ion dương hóa trị một đã rời nhanh làm cho tỷ lệ
ion hóa trị một trên ion hóa trị hai giảm xuống, gây ra sự ức chế hưng phấn tại cực âm.

Lý thuyết hưng phấn của Laxarev chưa đưa ra cụ thể ngưỡng về tỷ lệ giữa ion hóa trị một
và ion hóa trị hai khi tế bào ở trạng thái nghỉ ngơi bằng bao nhiêu? Để từ đó biết được khi
có kích thích dẫn đến tỷ lệ ion hóa trị một trên ion hóa trị hai đạt giá trị vượt ngưỡng sẽ
gây ra hưng phấn còn bằng hoặc nhỏ hơn ngưỡng sẽ không gây ra sự hưng phấn. Vấn đề
này các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu nhất là về vai trò cụ thể của ion hóa trị hai
để bổ sung cho quan điểm của Laxarev.

VII. Cơ chế dẫn truyền sóng hưng phấn trong dây thần kinh
Thí nghiệm của Hodgkin và Katz đã chứng minh dòng điện hưng phấn xuất hiện trong
dây thần kinh khi bị kích thích có bản chất ion. Hodgkin và Katz cũng chỉ rõ K
+
có vai
trò chính trong việc duy trì điện thế tĩnh còn Na
+
lại có vai trò chính trong việc hình
thành nên điện thế hoạt động (tức sóng hưng phấn). Tùy thuộc vào bản chất của dây thần
kinh như có mielin bao bọc hay không, đường kính sợi trục, chức năng của noron mà có
tốc độ dẫn truyền sóng hưng phấn khác nhau (xem bảng 7.2).
Bảng 7. 2: Kiểu sợi thần kinh và tốc độ dẫn truyền sóng hưng phấn trong dây thần kinh
Tốc độ truyền (m/s)
Kiểu sợi
Đường
kính sợi
(μ)
Biến nhiệt
(20
oC
)
Đồng nhiệt
(37

oC
)

Chức năng
Anpha 10-20 20-40 60-120 Sợi vận động cơ
Beta 7 - 15 15-30 40 - 90 Sợi thụ cảm (sờ mó)
Gamma 4 - 8 8 - 15 30 - 45 Sợi hướng tâm từ cơ
Denta 2,5-5 5 - 9 15 - 25 Sợi thụ cảm da (nóng, lạnh)
B 1 - 3 2 - 6 3 - 5 Sợi tiền hạch dinh dưỡng
C 0,3-1,5 0,3 - 0,8 0,5 - 2 Sợi hậu hạch giao cảm

Kết quả ở bảng 7.2 cho thấy động vật đồng nhiệt (chim, thú, người) có tốc độ dẫn truyền
sóng hưng phấn trong dây thần kinh nhanh hơn so với động vật biến nhiệt (ếch, cá, lưỡng
thê). Các sợi thần kinh dẫn truyền cảm giác đau đớn có tốc độ dẫn truyền chậm nhất (0,7-
1,3m/s), các sợi hướng tâm dẫn truyền cảm giác sờ mó, có tốc độ cao hơn đạt 50m/s còn
các sợi vận động có tốc độ dẫn truyền nhanh nhất đạt tới 160m/s.
Sợi trục thần kinh cũng là một dây dẫn điện và nếu là sợi trần (không có mielin bao bọc)
thì dịch bào tương bên trong sợi trục có điện trở là R
t
còn màng noron có điện trở là R
m
.
Đối với dây thần kinh có mielin bao bọc và do mielin là một chất cách điện rất tốt nên
noron chỉ tiếp xúc với môi trường ngoài qua eo Ranvie. Khi đó noron chỉ tiếp nhận kích
thích qua eo Ranvie và dòng điện hưng phấn cũng chỉ bị suy giảm do truyền điện ra bên
ngoài qua eo Ranvie. Khi bị kích thích sẽ xuất hiện xung điện thế hoạt động tại điện cực
kích thích (cực âm) và được ký hiệu là V
o
. Do bị tiêu hao một phần năng lượng điện để
thắng điện trở trong của bào tương sợi trục và bị rò điện qua màng noron nên giá trị của

điện thế hoạt động bị giảm dần. Điện trở trong của bào tương càng nhỏ thì điện thế hoạt
động bị giảm càng ít và điện trở màng noron càng lớn thì điện thế hoạt động cũng bị giảm
càng ít. Ngược lại điện trở trong của bào tương lớn thì điện thế hoạt động bị giảm nhiều
và điện trở màng noron nhỏ thì điện thế hoạt động bị giảm càng nhiều. Các nhà khoa học
đã xác định được giá trị điện thế hoạt động sau khi phát sinh là V
o
, truyền theo sợi trục
thần kinh quãng đường là x có giá trị là V
x
được tính theo công thức:
V
x
=V
o
.
t
m
R
R
x
e

(7.7)
R
m
: Điện trở màng noron tỷ lệ thuận với điện trở riêng của 1cm
2
màng (kí hiệu là r
m
) và

tỷ lệ nghịch với bán kính sợi trục thần kinh (kí hiệu là r).

r2
r
R
m
m
π
=
(7.8)
R
t
: Điện trở trong của bào tương cũng tỷ lệ thuận với điện trở riêng của 1cm
3
bào tương
(kì hiệu là r
t
) và tỷ lệ nghịch với bình phương bán kính sợi trục (r).

2
t
t
r
r
R
π
=
(7.9)
Các nhà khoa học đã tính được ở động vật thuộc lớp thú, sợi trục dây thần kinh có
mielin bao bọc có bán kính r =15μm, r

m
= 5000Ω/cm
2
và r
t
=50Ω/cm
3
, điện thế
hoạt động V
o
truyền được 1mm (là khoảng cách giữa 2 eo Ranvie) còn lại giá trị V
x
được
tính theo công thức:
V
x
= V
o
.0,5 (7.10)
Nếu điện cực kích thích đặt ở eo Ranvie thứ nhất (gọi là Ranvie 1) làm phát sinh điện thế
hoạt động là V
o
=100mV khi truyền đến eo Ranvie thứ hai (gọi là Ranvie 2) theo công
thức (7.10) sẽ còn 50mV. Thực nghiệm xác định eo Ranvie có ngưỡng kích thích điện là
20mV. Do đó, dòng điện hưng phấn, tức điện thế hoạt động phát sinh ở eo Ranvie 1 có
giá trị là 100mV khi truyền đến eo Ranvie 2 còn 50mV đã kích thích eo Ranvie 2 phát
sinh điện thế hoạt động cũng có giá trị 100mV. Cứ lặp lại như vậy, dòng điện hưng phấn
hay các xung điện thế hoạt động có độ lớn 100mV được truyền đi theo noron cảm giác về
hệ thần kinh trung ương để phát tín hiệu truyền theo noron vận động đến mô hay cơ quan
thực hiện phản ứng trả lời.

Đối với dây thần kinh không có mielin bao bọc, khi kích thích một vùng nào đó thì tại
vùng đó màng mất phân cực rồi đảo cực nên có điện tích trái dấu với vùng xung quanh
còn đang ở trạng thái tĩnh (xem hình 7.1). Tại vùng hưng phấn xuất hiện dòng điện hưng
phấn nó lại kích thích vùng lân cận và lại tạo ra dòng điện hưng phấn mới giống như
dòng điện hưng phấn phát sinh tại vùng bị kích thích. Sự xuất hiện của dòng điện hưng
phấn sau khi bị kích thích cứ lan truyền như vậy trên suốt chiều dài của dây thần kinh
một cách liên tục. Vì vậy, tốc độ dẫn truyền của dòng điện hưng phấn trong dây thần kinh
không có mielin bao bọc thường chậm và tiêu hao nhiều năng lượng.









A
B
C
+
-
+
1
3
-
+ 2
-
-
Hình 7.1: Dẫn truyền hưng phấn trong dây thần kinh không có mielin bao bọc


A và C: Vùng noron ở trạng thái tĩnh (trong âm, ngoài dương)
B: Vùng noron ở trạng thái hưng phấn (trong dương, ngoài âm)
c: Sợi trục noron
2 : Dòng điện hưng phấn
3 : Hướng truyền của dòng điện hưng phấn về hệ thần kinh trung ương
Đối với dây thần kinh có mielin bao bọc, do mielin là một chất cách điện tốt nên màng
noron chỉ tiếp nhận kích thích ở eo Ranvie và màng noron cũng chỉ mất phân cực và đảo
cực (tức phát sinh điện thế hoạt động) ở tại eo Ranvie (xem hình 7.2).









R
1

R
2
R
3


+
- 3 +
- -

+ 3 -
+ -
+ -
tĩnh + hưng phấn + tĩnh
1 4
2
2
Hình 7.2: Dẫn truyền hưng phấn trong dây thần kinh có mielin bao bọc

R
1
và R
3
: Eo Ranvie 1 và eo Ranvie 3 ở trạng thái tĩnh
R
2
: Eo Ranvie 2 ở trạng thái hưng phấn khi bị kích thích
c : Sợi trục noron; 2: Bao mielin
3 : Dòng điện hưng phấn
4 : Hướng truyền của dòng điện hưng phấn về hệ thần kinh trung ương

Theo hình 7.2, khi kích thích ở eo Ranvie 2 thì màng noron hưng phấn dẫn tới bị đảo cực
(trong có điện tích dương (+), ngoài có điện tích âm (-)), có điện tích trái dấu với eo
Ranvie 1 và eo Ranvie 3 đang ở trạng thái tĩnh (trong có điện tích âm (-), ngoài có điện
tích dương (+)). Tại eo Ranvie 2 sẽ xuất hiện điện thế hoạt động (tức dòng điện hưng
phấn) và dòng điện hưng phấn này khi truyền đến eo Ranvie 3 tuy đã giảm đi khoảng một
nửa nhưng vẫn lớn hơn ngưỡng gây kích thích nên đã tạo ra hưng phấn ở eo Ranvie 3, tức
là lại tạo ra điện thế hoạt động mới có độ lớn giống như điện thế hoạt động phát sinh lúc
ban đầu ở eo Ranvie 2. Dòng điện hưng phấn cứ lan truyền theo kiểu "nhảy" từ eo Ranvie
này đến eo Ranvie lân cận với khoảng cách bước nhảy là 1 milimét, theo hướng về hệ

thần kinh trung ương nên có tốc độ truyền nhanh hơn và ít tiêu hao năng lượng hơn so
với dây thần kinh không có mielin bao bọc. Như ở hình (7.1) dòng điện hưng phấn truyền
theo hướng từ vùng B đến vùng C còn ở hình 7.2, dòng điện hưng phấn "nhảy" từ eo
Ranvie 2 sang eo Ranvie 3 theo hướng về hệ thần kinh trung ương (hoặc tủy sống) đối
với dây thần kinh hướng tâm còn theo hướng từ tủy sống hay hệ thần kinh trung ương tới
mô hay cơ quan để thực hiện phản ứng trả lời với dây thần kinh ly tâm. Mặc dù vậy, với
dây thần kinh trần, phía ngoài màng noron có dòng điện truyền từ vùng C về vùng B
(hình 7.1), từ eo Ranvie 3 về eo Ranvie 2 (hình 7.2) nhưng đều không gây ra hưng phấn
vì khi đó màng noron trơ tuyệt đối nếu đang ở pha mất phân cực và đảo cực (khoảng 1
miligiây (ms)) hoặc trơ tương đối nếu đang ở pha tái phân cực (khoảng 3 ms) nên không
tiếp nhận kích thích. Như vậy, khi kích thích vùng B xuất hiện dòng điện hưng phấn
truyền đến kích thích vùng phía trước là C thì hưng phấn lại xuất hiện dễ dàng còn nếu đã
truyền đến vùng C lại quay về vùng B thì màng noron không tiếp nhận sự kích thích. Đối
với dây thần kinh động vật máu nóng, thời gian trơ tuyệt đối kéo dài khoảng 0,002 giây -
0,0004 giây. Từ bảng 7.1, nếu ta lấy vận tốc dẫn truyền trung bình của dây thần kinh
nhóm A là 60m/s, khi truyền từ eo Ranvie 2 sang eo Ranvie 3 rồi quay trở về eo Ranvie
2, quãng đường là 2mm, tính ra thời gian chỉ mất có 0,3ms, nhỏ hơn 1ms nên eo Ranvie 2
đang trơ tuyệt đối nên không tiếp nhận bất kỳ kích thích nào. Do vậy, dòng điện hưng
phấn truyền trong dây thần kinh chỉ theo một chiều xác định.
Do màng noron có tính trơ nên màng noron không thể phát sinh các xung điện thế hoạt
động một cách liên tục được. Thời gian trơ càng dài thì số lượng tối đa các xung điện thế
hoạt động được màng noron phát sinh trong một đơn vị thời gian càng ít và ngược lại.
Vedenski đã đưa ra khái niệm tính linh hoạt chức năng để biểu thị khả năng hưng phấn
của các tổ chức sống. Noron có tính linh hoạt chức năng càng cao khi có khả năng truyền
được số lượng tối đa các xung điện thế hoạt động trong một đơn vị thời gian càng nhiều.
Ngược lại, số lượng tối đa các xung điện thế hoạt động được truyền đi trong một đơn vị
thời gian càng ít thì tính linh hoạt chức năng của noron càng thấp. Ví dụ, các noron vận
động có thời gian trơ là 2%
o
giây thì tối đa chúng chỉ truyền được 500 xung điện thế hoạt

động trong một giây. Các noron trung gian có thời gian trơ nhỏ hơn 1%
o
giây nên chúng
có thể truyền tối đa 1000 xung điện thế hoạt động trong một giây. Rõ ràng các noron
trung gian có tính linh hoạt chức năng cao hơn so với các noron vận động.
VIII. Cơ chế bàn giao hưng phấn qua xinap
1. Cấu tạo xinap


Hình 7.3: Cấu trúc một xinap

Các vị trí tận cùng sợi trục của một noron tiếp xúc với các noron khác và với các tế bào
cơ được gọi là các xinap. Cấu trúc một xinap thể hiện trên hình 7.3 gồm màng trước
xinap, khe xinap và màng sau xinap. Cúc xinap là phần phình to của mút các nhánh của
sợi trục noron trước. Trong cúc xinap chứa thành phần quan trọng nhất, đó là các bóng
xinap. Bên trong các bóng xinap chứa chất môi giới. Giữa màng trước xinap và màng sau
xinap là khe xinap, rộng khoảng 150A
0
đối với xinap noron - noron, còn rộng khoảng
500A
0
ở xinap noron - cơ. Màng sau xinap có những thụ quan (receptor) chuyên biệt để
nhận biết chất môi giới.
2. Bàn giao hưng phấn qua xinap theo cơ chế vật lý
Dòng điện hưng phấn muốn truyền từ noron trước sang noron sau phải vượt qua màng
trước xinap, khe xinap và màng sau xinap. Cả ba thành phần này đều có điện trở. Theo
Katz, sau khi dòng điện hưng phấn vượt qua ba điện trở thuộc cấu trúc của xinap thì điện
thế hoạt động từ giá trị ban đầu khoảng 120mV, khi đến màng sau xinap chỉ còn khoảng
0,01mV . Thực nghiệm đã xác định, ngưỡng kích thích màng sau xinap để gây ra hưng
phấn là từ 20mV đến 40mV. Số liệu do Katz đưa ra là không phù hợp với thực nghiệm.

Để giải thích cơ chế truyền xung điện thế hoạt động qua xinap theo cơ chế vật lý, các nhà
khoa học cho rằng màng trước, màng sau và khe xinap có cấu trúc đặc biệt nên có điện
trở rất bé. Do vậy, xung điện thế hoạt động dễ dàng vượt qua ba thành phần điện trở trên
nên khi đến màng sau xinap giá trị điện thế hoạt động tuy có bị giảm nhưng vẫn lớn hơn
40mV. Với giá trị vượt ngưỡng gây hưng phấn, nó đã kích thích màng sau xinap làm cho
màng sau xinap mất phân cực rồi đảo cực nên lại phát sinh xung điện thế hoạt động cũng
có giá trị 120mV và tiếp tục được truyền đi theo sợi trục của noron sau.
Tuy nhiên, giả thiết về ba thành phần cấu trúc của xinap có điện trở nhỏ, thực nghiệm
còn chưa xác định được.
3. Bàn giao hưng phấn qua xinap theo cơ chế hoá học
Năm 1912 và 1921, Levi tiến hành thí nghiệm buộc hai tim cô lập vào ống thông tim
trong có chứa dung dịch sinh lý để hai tim thông với nhau. Khi kích thích dây mê tẩu của
tim một thì tim một đập chậm và yếu, có khi ngừng đập. Đồng thời tim hai cũng đập
chậm và yếu, có khi ngừng đập giống như tim một. Nếu kích thích dây giao cảm của tim
một thì làm cho cả tim một và tim hai đều đập nhanh và đập mạnh. Levi đã xác định dây
mê tẩu khi bị kích thích đã phát sinh chất axetincolin có tác dụng kìm hãm còn dây giao
cảm khi kích thích sẽ phát sinh chất adrenalin ở ếch còn noradrenalin ở người có tác dụng
thúc đẩy tăng nhịp đập của tim. Thí nghiệm của Levi khẳng định khi kích thích, hưng
phấn xuất hiện với sự tham gia của chất môi giới, đã truyền từ tim một sang tim hai. Cúc
xinap, khi noron ở trạng thái tĩnh, có sự tổng hợp axetincolin từ axetat và colin. Lúc đầu
axetat kết hợp với coenzym A, tạo thành axetin KoA. Nhờ xúc tác của enzyme
colinaxetilase, xảy ra phản ứng giữa axetin KoA với colin tạo thành axetincolin và
coenzymA (KoA). Axetincolin sau khi tổng hợp sẽ được tích lũy lại trong các bóng xinap
có đường kính 0,02 - 0,03μm, nằm rải rác ở bào chất của cúc xinap. Khi dòng điện hưng
phấn truyền đến cúc xinap đã gây tác dụng kích thích làm cho các bóng xinap phóng
thích axetincolin vào khe hở xinap. Ở chuột, mỗi xung điện thế hoạt động khi truyền đến
cúc xinap noron - cơ đã kích thích bóng xinap giải phóng vài triệu phân tử axetincolin
vào khe hở xinap. Các phân tử axetincolin vượt qua khe hở xinap mất khoảng 0,5ms.
Axetincolin làm thay đổi tính thấm của màng sau xinap vì màng sau xinap rất nhạy cảm
trước tác động của axetincolin. Từ sự thay đổi tính thấm của màng sau xinap đã dẫn đến

sự mất phân cực và đảo cực, phát sinh điện thế hoạt động có độ lớn giống như xung điện
thế hoạt động đã truyền đến màng trước xinap. Nếu là xinap noron - noron thì xung điện
thế hoạt động phát sinh ở màng sau xinap, tiếp tục được truyền đi theo sợi trục của noron
sau. Đồng thời màng sau xinap cũng giải phóng enzyme axetincolinesterase để xúc tác
cho phản ứng:
Axetincolin + H
2
O → Axetat + colin
Một phân tử enzyme axetincolinesterase ở 25
o
C, trong 1 giây, có thể thủy phân được 300
ngàn phân tử axetincolin. Như vậy, mỗi phân tử enzyme chỉ cần 1/300.000 giây là phân
hủy xong 1 phân tử axetincolin nên mới giải phóng toàn bộ chất axetincolin cũ ở khe
xinap, trước khi có một xung điện thế hoạt động mới truyền tới, lại có một đợt
axetincolin mới đi vào khe xinap. Ngưỡng gây kích thích màng sau xinap của axetincolin
chỉ cần ở nồng độ vô cùng nhỏ từ 10
-16
đến 10
-15
M. Các xinap giải phóng chất môi giới là
axetincolin là các xinap kích thích vì kích thích màng sau xinap làm phát sinh xung điện
thế hoạt động mới giống như xung điện thế hoạt động đã truyền đến màng trước ninap.
Trong cơ thể sống còn tồn tại các xinap ức chế giải phóng chất môi giới ức chế vì làm ức
chế màng sau xinap, không làm phát sinh xung điện thế hoạt động mới ở màng sau xinap
(tức không tạo ra sự hưng phấn ở màng sau xinap). Trường hợp này xảy ra ở xinap noron
- cơ tim của ếch đã được Levi phát hiện khi kích thích dây mê tẩu đã dẫn đến giải phóng
chất ức chế là axetincolin có tác dụng ức chế nhịp đập của tim làm cho tim đập chậm và
yếu.
Kết quả nghiên cứu khẳng định hiệu ứng hưng phấn hoặc ức chế ở màng sau xinap không
phải do chất môi giới quyết định mà do bản chất của các thụ quan (receptor) ở màng sau

xinap quyết định. Do vậy, axetincolin kích thích ở xinap noron - cơ nhưng lại ức chế ở
xinap noron - cơ tim. Hiện nay các nhà khoa học đã xác định được một số chất môi giới
và tác dụng của chúng (xem bảng 7.3).

Bảng 7.3: Các chất môi giới và tác dụng của chúng
Chất môi giới Tác dụng
Axetincolin Kích thích hoặc ức chế
Adrenalin Kích thích hoặc ức chế
Noradrenalin Kích thích hoặc ức chế
Dopamin Kích thích hoặc ức chế
Serotonin Kích thích hoặc ức chế
Axit gamma - aminobutylic Ức chế
Glixin Ức chế
Axit glutamic Ức chế
Enxephalin Ức chế
v.v

Chương 8
QUANG SINH HỌC

I. Bản chất của ánh sáng
Ánh sáng là bức xạ điện từ trường lan truyền trong không gian với vận tốc vô cùng lớn
(trong chân không vận tốc ánh sáng đạt 300.000km/s). Ánh sáng được chia thành 3 vùng
cơ bản:
• Vùng nhìn thấy (vùng khả kiến) có bước sóng (λ) từ 400 → 700nm
• Vùng tử ngoại có λ = 200nm → 400nm
• Vùng hồng ngoại có λ = 700nm → 1000nm
Trong hệ sinh vật, các loài có vùng khả kiến không giống nhau. Ví dụ với người vùng
khả kiến có λ = 400nm → 700nm nhưng với côn trùng, vùng khả kiến lại có λ = 320nm
→ 500nm.

Ánh sáng vừa có tính sóng (đặc trưng bởi bước sóng và tần số ) vừa có tính chất hạt
(đặc trưng bởi các lượng tử ánh sáng hay còn gọi là photon). Photon có khối lượng nhỏ
hơn khối lượng của điện tử khoảng 1 triệu lần (khối lượng photon bằng 1,785.10
-27
gam).
Mỗi photon có mang một giá trị năng lượng được tính theo công thức:

γ= .hE
Hoặc
λ
=
v
.hE
(8.1)
E: Năng lượng của photon
γ
: Tần số ánh sáng bằng số dao động ánh sáng trong 1 giây
v: Vận tốc ánh sáng bằng 300.000km/s
λ: Bước sóng ánh sáng
h: Hằng số Planck bằng 6,62.10
-27
erg.s

Đơn vị dùng xác định năng lượng photon là electron vôn (hay điện tử vôn), ký hiệu là eV
hoặc Kcal. Một điện tử vôn là năng lượng cần thiết cung cấp cho 1 điện tử đi qua thế hiệu
một vôn với khoảng cách giữa hai điện cực là 1Cm. Công thức chuyển đổi giữa các đơn
vị đo năng lượng:
1eV=1,602.10
-12
erg và 1 Kcal=4,2.10

10
erg
Thay giá trị hằng số Planck và vận tốc ánh sáng vào công thức (8.1) sẽ tính được năng
lượng của photon có bước sóng tính theo:

)eV(
)nm(
1244
E
λ
=
(8.2)
Nếu quan niệm một photon tương tác với một phân tử thì để chuyển một phân tử gam vật
chất (1M) chứa 6,023.10
23
phân tử lên trạng thái kích thích cần có 6,023.10
23
photon, gọi
là cần cung cấp một mol lượng tử (hay một Einstein). Năng lượng của một mol lượng tử
tính theo đơn vị Kcal được tính theo công thức:

)nm(
650.28
E
λ
=
(Kcal/M) (8.3)
Từ các công thức trên thấy rằng năng lượng của ánh sáng tỷ lệ thuận với tần số ánh sáng
(
γ

) còn tỷ lệ nghịch với bước sóng ánh sáng (λ). Năng lượng ánh sáng có bước sóng
ngắn lớn hơn năng lượng ánh sáng có bước sóng dài. Ví dụ năng lượng tia tử ngoại có
bước sóng λ=200nm, có giá trị 143,25Kcal/M còn ánh sáng khả kiến có λ=750nm chỉ đạt
38,2Kcal/M.
II. Qui luật hấp thụ ánh sáng
Sự hấp thụ ánh sáng của vật chất được biểu hiện ở chỗ cường độ ánh sáng bị yếu đi sau
khi xuyên qua lớp vật chất nghiên cứu. Năm 1760, Lambert và sau đó năm 1852, Beer đã
tìm ra qui luật hấp thụ ánh sáng bởi vật chất.
Sự biến đổi cường độ ánh sáng (ký hiệu là
dI) khi đi qua lớp mỏng vật chất (ký hiệu là
dl) sẽ tỷ lệ với cường độ ánh sáng chiếu (ký
hiệu là I) và nồng độ (ký hiệu là C) cũng
như hệ số k, đặc trưng cho khả năng hấp thụ
của vật chất. Biểu thức toán học của định
luật Lambert - Beer có thể viết như sau:
Chùm sáng tới Chùm sáng ló
I
o
C

l

I

Hình 8.1: Ánh sáng truyền qua dung dịch
có nồng độ C và chiều dày l.

dl
dI


= k.I.C (8.4)
Dấu trừ biểu thị sự hấp thụ ánh sáng bởi vật chất. Phương trình (8.4) có thể viết dưới
dạng:

I
dI
= -k.C.dl (8.5)
Lấy tích phân vế trái theo cường độ ánh sáng từ I
o
đến I và vế phải theo chiều dày từ O
đến l ta được:

∫∫
−=
I
I
l
O
o
dl.C.k
I
dI


l.C.kIln
I
I
o
−=


lnI - lnI
o
= -k.C.l (8.6)

l.C.k
Io
I
ln −=
(8.7)
I = I
o
kCl
e

(8.8)
I
o
: Cường độ ánh sáng tới I: Cường độ ánh sáng ló
C: Nồng độ vật chất k: Hệ số hấp thụ
l: Chiều dày vật chất (tính theo Centimet)
Công thức (8.6) có thể viết dưới dạng:
lnI
o
- lnI = k.C.l

I
I
ln
o
= k.C.l (8.9)

Đặt
I
I
lnD
o
=
, gọi là mật độ quang học của dung dịch. Khi đó công thức (8.9) có thể viết
như sau:
D = k.C.l (8.10)
Từ công thức (8.10) suy ra rằng: mật độ quang học của dung dịch tỷ lệ thuận với nồng
độ dung dịch và chiều dày của lớp vật chất mà ánh sáng truyền qua. Khi l = 1Cm thì mật
độ quang học (D) tỷ lệ thuận với nồng độ dung dịch (C), thể hiện trên hình 8.2.
D

D
3

D
2

D
1
O C
1
C
2
C
3
C
Khi nồng độ dung dịch C = 1M và l = 1Cm

thì từ (8.10) suy ra D = k. Như vậy, hệ số
hấp thụ chính bằng mật độ quang học của
dung dịch có chiều dày 1Cm và nồng độ
1M.




Hình 8.2: Sự phụ thuộc của D vào C
Công thức (8.10) được áp dụng để tính mật độ quang học của hệ đồng nhất (là hệ không
có ranh giới phân chia ra các phần có nồng độ khác nhau). Đối với hệ dị thể như hệ sinh
vật, có nhiều phần có nồng độ chất khác nhau thì mật độ quang học của toàn hệ sẽ bằng
tổng mật độ quang học của từng thành phần riêng rẽ theo công thức sau:
D = D
1
+ D
2
+ D
3
+ D
n
(8.11)
D: Mật độ quang học của hệ
D
1
, D
2
, D
3
D

n
: Mật độ quang học của lớp 1, 2, 3 lớp n.
Để đánh giá phần trăm lượng ánh sáng mà mẫu vật đã hấp thụ, người ta đưa vào khái
niệm độ truyền qua, ký hiệu là T, được tính theo công thức:

o
I
I
T =
(8.12)
T: Độ truyền qua (đơn vị là %)
I
o
: Cường độ ánh sáng tới
I: Cường độ ánh sáng ló
Khi mẫu vật hấp thụ ánh sáng hoàn toàn, tức I=0 thì T=0. Nếu mẫu vật hoàn toàn không
hấp thụ ánh sáng, tức I=I
o
thì T=1 (hay 100%).
Lượng ánh sáng hệ hấp thụ được tính theo công thức:
I
h
= I
o
- I (8.13)
I
h
: Cường độ ánh sáng đã bị hệ hấp thụ
I
o

: Cường độ ánh sáng tới
I: Cường độ ánh sáng ló
Từ (8.12) có I = I
o
.T và thay I vào (8.13) ta được:
I
h
= I
o
- (I
o
.T) = I
o
(1-T) →
o
h
I
I
= 1 - T (8.14)
Tỷ số
o
h
I
I
gọi là độ hấp thụ. Khi mẫu vật hoàn toàn không hấp thụ ánh sáng, tức T=1 thì
độ hấp thụ bằng không. Nếu mẫu vật hấp thụ hoàn toàn ánh sáng, tức T=0 thì độ hấp thụ
bằng một. Các giá trị mật độ quang học (D), độ truyền qua (T), độ hấp thụ









o
h
I
I
được đo
trên máy quang phổ kế.
Trên thực tế, thường sử dụng phương pháp xác định quang phổ hấp thụ của vật chất.
Phương pháp này đo sự phụ thuộc của mật độ quang học (D) vào bước sóng (λ) hay tần
số (γ) của ánh sáng chiếu. Mỗi chất có một quang phổ hấp thụ đặc trưng riêng. Tức là,
mỗi chất chỉ hấp thụ cực đại ở một số bước sóng nhất định. Ví dụ quang phổ hấp thụ của
một số phân tử sinh học quan trọng:
- Quang phổ hấp thụ của protein đạt giá trị cực đại ở bước sóng λ=280nm.
- Quang phổ hấp thụ của carotin đạt giá trị cực đại ở bước sóng λ=480nm.
- Quang phổ hấp thụ của rodopxin đạt giá trị cực đại ở bước sóng λ=550nm.
- Quang phổ hấp thụ của diệp lục a đạt giá trị cực đại ở hai bước sóng λ
1
=440nm và
λ
2
=700nm.
- Mắt người có thể phân biệt được 300 màu sắc khác nhau nhưng chủ yếu hấp thụ ba màu
cơ bản là màu đỏ (có λ=600nm), màu xanh (có λ=550nm) và màu da cam (có λ=450nm).
III. Các giai đoạn cơ bản của quá trình quang sinh học
Các quá trình quang sinh học thường được đánh giá theo hai quan điểm sau:
- Quan điểm một là những phản ứng mà các sản phẩm cuối cùng của nó có dự trữ năng

lượng cao hơn so với năng lượng của các chất ban đầu tham gia vào phản ứng, được gọi
là những phản ứng tạo năng lượng. Ví dụ như quá trình quang hợp ở thực vật.
- Quan điểm hai là các phản ứng quang sinh học trong đó ánh sáng đóng vai trò là nguồn
năng lượng hoạt hóa các phân tử khi tham gia vào phản ứng hóa sinh hoặc là dưới tác
dụng của ánh sáng đã dẫn tới các phản ứng phá hủy biến tính ở mức độ phân tử, tế bào,
mô hay cơ thể. Xét theo quan điểm nào, quá trình quang sinh học cũng đều trải qua
những giai đoạn nối tiếp nhau như sau:
1. Hấp thụ lượng tử ánh sáng bởi các sắc tố hoặc tế bào (như tế bào que, tế bào nón) gây
nên trạng thái hưng phấn hay còn gọi là trạng thái kích thích.
2. Khử trạng thái kích thích điện tử của phân tử. Giai đoạn này xảy ra các quá trình sau:
- Thải hồi năng lượng qua các quá trình quang lý (như phát huỳnh quang hay lân quang).
- Thải hồi năng lượng qua các quá trình quang hóa dẫn tới hình thành nên những sản
phẩm quang hóa không bền vững đầu tiên. Đối với quá trình quang hợp đó là các sản
phẩm NADPH và ATP.
- Thải hồi năng lượng bằng cách tỏa nhiệt ra môi trường.
3. Diễn ra các phản ứng trung gian không cần tới sự chiếu sáng (gọi là phản ứng tối) với
sự tham gia của các sản phẩm quang hóa không bền vững nói trên để tạo thành sản phẩm
quang hóa bền vững (với quá trình quang hợp, đó là hydratcacbon).
4. Hiệu ứng sinh học cuối cùng như các biểu hiện sinh lý cảm nhận màu sắc, sự vật, sự
sinh trưởng và phát triển v.v
Giai đoạn hấp thụ lượng tử ánh sáng và giai đoạn khử trạng thái kích thích điện tử của
phân tử, đặc trưng chung cho tất cả các phản ứng quang sinh vật (xem hình 8.3).

S
2
(Singlet 2)
S
1
(Singlet 1)
T (Triplet)

S
o
(Singlet)
A a
4
1
3 2
c
b









Hình 8.3: Sơ đồ biểu diễn các mức năng lượng của phân tử
và các bước chuyển giữa các mức năng lượng đó.

- Đường a, A khi phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển từ mức năng lượng cơ
bản ban đầu là S
o
lên mức năng lượng cao hơn là S
1
hoặc S
2
.
- Theo cơ học lượng tử thì không có bước chuyển phát xạ (tức phát ra sóng ánh sáng) khi

phân tử chuyển từ mức S
2
về mức S
o
và cũng không có bước chuyển thẳng từ mức S
o
lên
mức triplet (gọi là bước cấm).
- Khi phân tử chuyển từ mức S
1
về mức cơ bản S
o
sẽ phát huỳnh quang (đường b) hoặc
chuyển từ mức triplet về mức cơ bản S
o
sẽ phát lân quang (đường c).
- Các đường 1, 2, 3, 4, là phân tử thải hồi năng lượng dưới dạng tỏa nhiệt ra môi trường.
Quá trình phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển lên trạng thái kích thích và sau
đó trở về trạng thái ban đầu, là một quá trình bất thuận nghịch.

IV. Sự phát quang
Phân tử sau khi hấp thụ năng lượng ánh sáng để chuyển lên trạng thái kích thích có mức
năng lượng là S
1
hoặc S
2
đều có giá trị lớn hơn mức năng lượng ban đầu của phân tử là
S
o
. Trong khoảng 10

-13
giây, phân tử ở mức năng lượng E
2
phải giải phóng một phần
năng lượng dư thừa qua con đường thải nhiệt ra môi trường để trở về trạng thái kích thích
có mức năng lượng thấp hơn là S
1
(con đường 1 ở hình 8.3). Khi phân tử ở mức năng
lượng S
1
nó sẽ trở về mức năng lượng cơ bản S
o
qua các con đường sau:
Quá trình tỏa nhiệt (đường 2, 3, 4 trên hình 8.3)
Phát huỳnh quang (đường b trên hình 8.3)
S
1
Phát lân quang (đường c trên hình 8.3)
Vận chuyển năng lượng
Cung cấp năng lượng cho các phản ứng quang hóa
1. Sự phát huỳnh quang
Khi các phân tử chuyển từ trạng thái kích thích có mức năng lượng thấp nhất là S
1
xuống
trạng thái cơ bản là S
o
thì sẽ phát ra ánh sáng huỳnh quang. Sự phát ra ánh sáng huỳnh
quang có thể biểu diễn dưới dạng:
S
1

→ S
o
+ hγ'
γ': Tần số ánh sáng huỳnh quang






λ

'
v
'

v: Vận tốc ánh sáng; λ': Bước sóng huỳnh quang
Thời gian phân tử dừng ở trạng thái singlet S
1
là từ 10
-9
đến 10
-8
giây, cho nên cũng được
xem là thời gian kéo dài của sự phát ra ánh sáng huỳnh quang. Do vậy, sự phát huỳnh
quang chỉ xảy ra trong thời gian chiếu sáng mẫu vật, còn khi ngừng chiếu sáng thì sự phát
huỳnh quang sẽ tắt.
Đặc trưng của ánh sáng huỳnh quang là phổ huỳnh quang. Phổ huỳnh quang là đường
cong phụ thuộc của cường độ huỳnh quang vào bước sóng ánh sáng huỳnh quang (λ'). Để
nghiên cứu phổ huỳnh quang, các nhà nghiên cứu dùng hệ thống các kính lọc, được bố trí

theo sơ đồ sau:

1

3

2

4
h
γ
'
,
h
γ






Hình 8.4: Sơ đồ ghi phổ huỳnh quang.
1) Kính lọc chỉ cho ánh sáng có λ mà dung dịch nghiên cứu hấp thụ (với dung dịch
protein thì λ = 280 nm) đi qua.
2) Dung dịch nghiên cứu phổ huỳnh quang (dung dịch protein).
3) Kính lọc chỉ cho ánh sáng huỳnh quang do phân tử chất nghiên cứu phát ra.
4) Máy ghi phổ huỳnh quang.
Sự phát huỳnh quang tuân theo các qui luật sau:
* Qui luật Stock: Phổ huỳnh quang luôn dịch chuyển về phía bước sóng dài hơn so với
điểm hấp thụ cực đại của phổ hấp thụ. Bởi vì phân tử hấp thụ năng lượng ánh sáng kích

thích có E = h.γ = h.
λ
v
(đường A trên hình 8.3) đã mất một phần năng lượng do thải nhiệt
(đường 1 trên hình 8.3) để trở về mức S
1
và khi chuyển về mức S
o
đã phát ra ánh sáng
huỳnh quang có năng lượng E' = hγ' = h.
'
v
λ
. Ở đây E > E' nên λ < λ', tức là năng lượng ánh
sáng kích thích lớn hơn năng lượng ánh sáng huỳnh quang nên bước sóng ánh sáng kích
thích ngắn hơn so với bước sóng ánh sáng huỳnh quang. Ví dụ chiếu dung dịch protein ánh
sáng kích thích có λ=280nm thì các phân tử protein sẽ phát ra ánh sáng huỳnh quang có
bước sóng dài hơn là λ=340nm.
* Qui luật Vavilốp: Sự phát ra ánh sáng huỳnh quang của một chất nào đó (chẳng hạn

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×