Vua Quang Trung với chiến thuật nghi
binh - Hữu Vinh
Nghi binh là một chiến thuật lợi hại trong chiến tranh, với thiên tài quân
sự Nguyễn Huệ, thuật nghi binh được ông nghiên cứu ứng dụng và đem lại hiệu
quả chiến thắng cao. Một đặc điểm tiến hành quân sự của Quang Trung-Nguyễn
Huệ là luôn nắm vững mặt yếu, mặt mạnh của đối phương trước khi quyết định
cách đánh, nhất là trong chiến tranh chống ngoại xâm như trận Rạch Gầm-Xoài
Mút, hoặc trận đại phá 29 vạn quân Thanh ở Thăng Long.
Với trận Rạch Gầm-Xoài Mút, sau khi Nguyễn Phúc Ánh cầu viện, mùa
hạ năm Giáp Thìn (1784) vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương
thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc
Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia Định. Mặt khác, vua Xiêm còn phái hai
tướng Lục Côn và Sa Uyển đem ba vạn quân theo đường bộ qua Chân Lạp đến
Gia Định phối hợp cùng với quân của Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Quân Xiêm
kéo vào Gia Định một cách rầm rộ. Quân Tây Sơn do tướng Trương Văn Đa chỉ
huy vừa đánh chặn, vừa rút để bảo toàn lực lượng và ứng phó với các trận đánh
nhỏ của quân Nguyễn Ánh. Nhờ đó, Trương Văn Đa đã chặn được sức tiến của
quân giặc và sai Đô Úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình Gia
Định. Vua Thái Đức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu,
Bùi Thị Xuân cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Khoảng đầu năm 1785,
hai vạn quân Tây Sơn thiện chiến xuống thuyền vào nam và đổ bộ đóng quân ở
Mỹ Tho. Nguyễn Huệ sai Trương Văn Đa giữ thành Gia Định và tự mình đi
xem xét địa hình, địa thế và cho người do thám tình hình của địch. Sau khi nắm
rõ địa hình địa thế, tình hình quân Xiêm, Nguyễn Huệ chọn khúc sông Rạch
Gầm và Xoài Mút là điểm quyết chiến.
Trong trận đánh này, ngoài lợi dụng thủy triều, Nguyễn Huệ còn áp dụng
nghệ thuật nghi binh khá linh hoạt. Các tướng Xiêm biết quân Tây Sơn ít hơn,
thế nào Nguyễn Huệ cũng dùng chiến thuật nghi binh. Tuy vậy, khi trận đánh
xảy ra chúng lại hoàn toàn bất ngờ. Quân Tây Sơn không chỉ mai phục sẵn ở
hai bên bờ sông, mà trong đêm trăng mờ mờ quân của Võ Văn Dũng vừa đánh
vừa lui. Một bộ phận quân Tây Sơn hai bên bờ cùng hợp lực với Dũng chặn
giặc. Quân Xiêm nhận định: toàn bộ quân Tây Sơn đã lộ diện. Vì vậy, không
còn gì chần chờ nữa, tướng Xiêm đốc thúc ba quân đuổi theo thủy quân Võ Văn
Dũng. Thuyền Giặc cứ theo ánh sáng đèn của thủy quân Tây Sơn mà đuổi,
chúng không biết rằng trên đường rút lui để dụ địch, thủy quân của Võ Văn
Dũng đã dần dần tắt đèn tấp sang hai bên bờ chui vào các ngách sông. Quân
Xiêm đuổi tới nơi thì thấy chỉ có mấy chiếc, biết là đã trúng kế Tây Sơn. Khi
quân Xiêm lọt vào trận địa bày sẵn, Nguyễn Huệ đốc thúc thủy quân từ các
nhánh sông đổ ra đánh. Đồng thời, súng đại bác trên cù lao Thới và hai bên bờ
sông nã liên hồi vào thuyền giặc. Tướng Xiêm Chiêu Sương hoảng hốt cho
dừng thuyền lại, nhưng bị thủy quân Tây Sơn từ các nhánh sông nhỏ đổ ra vây
chặt. Như vậy, phía trước, phía sau, hai bên, ngay cả trên đầu quân Xiêm đều bị
đánh. Thuyền trước thuyền sau của quân Xiêm dồn cục, rối loạn hàng ngũ,
chiếc bị đánh đắm, chiếc va chạm nhau vỡ nát, quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị
chết chìm, lớp bị giáo đâm, gươm chém thất bại nặng nề. Còn đạo quân bộ
cũng bị quân Tây Sơn phục đánh tan, tướng Xiêm là Lục Côn bị Bùi Thị Xuân
chém rơi đầu. Trong trận đánh này, với lực lượng khoảng ba vạn quân thủy bộ,
Nguyễn Huệ đã tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến. Tướng Xiêm
Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng Sạ Uyển kéo tàn quân chạy về Xiêm, còn
Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn ra Hà Tiên.
Bí mật, nghi binh, dụ địch vào chỗ hiểm yếu để tiêu diệt là chiến thuật
quan trọng của Nguyễn Huệ. Trong trận Đống Đa đại phá 29 vạn quân nhà
Thanh là một ví dụ. Ngày 20 tháng chạp, khi đại binh Tây Sơn do Quang
Trung-Nguyễn Huệ chỉ huy hành quân đến núi Tam Điệp, các tướng Ngô Văn
Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân đến chịu tội (vì đã lui binh cho quân
Thanh tràn đến Thăng Long). Tưởng đắc tội, không ngờ nhà vua cười: "Lui
quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích tướng sĩ, ngoài làm cho giặc phấn
khích, kiêu ngạo, dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta như thế là phải. Các khanh
không có tội chi cả. Chúng nó sang đây là mua lấy cái chết đó thôi, ta đã định
mẹo cả rồi". Không những thế, để trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch,
nhà vua còn sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ tám người mang lễ vật và thư
đến tha thiết xin Tôn Sĩ Nghị dừng quân để tra xét rõ: vì sao Tây Sơn phải thay
quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn 40 người Trung Hoa do tướng cướp
Đắc Thiện Tống bắt và sau đó quân Tây Sơn bắt được Tống. Quả thật, Tôn Sĩ
Nghị kiêu căng sai chém đầu Trần Danh Bình, luôn cả Đắc Thiện Tống và cầm
tù đoàn sứ giả. Trong lúc đó, vua Quang Trung bí mật chỉnh đốn quân tướng,
chuẩn bị chiến trận, quyết một trận đuổi giặc Thanh ra khỏi bờ cõi. Vào sáng 30
tháng chạp, trước khi truyền lệnh ba quân xuất quân, nhà vua nói: "Ta đến mà
địch không biết là địch ngủ ta thức, ta đánh mà địch không đề phòng là ta chém
kẻ tay không. Ta nhất định thắng ". Chính yếu tố bí mật, địch quân không nắm
được lực lượng của ta lại thêm thói khinh thường, đến khi ta bất ngờ tấn công
thì không còn kịp chống đỡ, đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử của vua
Quang Trung.
Bằng chiến thuật nghi binh, trong lần kéo quân ra bắc đầu tiên với danh
nghĩa phò Lê diệt Trịnh, thủy quân Tây Sơn bị quân của chúa Trịnh Khải vây
phục trên sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy tượng
gỗ để trên mấy chiếc thuyền, rồi cho đánh trống, kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi.
Tướng của Trịnh Khải là Đinh Tích Nhưỡng, tưởng quân Tây Sơn tới đánh bèn
dàn thuyền chiến, rồi truyền quân sĩ lấy súng bắn cho đến khi hết đạn mới biết
người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc này, quân Nguyễn Huệ ùa tới đánh, quân
Nhưỡng không chống cự nổi phải bỏ thuyền mà trốn. Các cánh quân khác của
chúa Trịnh cũng bị đánh tan, thành Sơn Nam bị hạ.
Cái tài của Quang Trung-Nguyễn Huệ là luôn tìm hiểu kỹ đặc điểm của
tướng giặc, tình hình quân lính địch để có chiến thuật dẫn dụ, nghi binh phù
hợp đưa đối phương vào thế bị động, bất ngờ bị tấn công, không chống đỡ kịp
với quân Tây Sơn vốn gan dạ và dũng mãnh.
Vua Quang Trung với Hoàng Sa & Trường Sa
Mô tả trong nhiều tài liệu lịch sử khẳng định lực lượng hải quân Tây Sơn
trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của
các vùng đảo, quần đảo giữa Biển Đông.
Di tích miếu Hoàng Sa ngày nay vẫn tồn tại ở đình làng Lý Hải thuộc đảo
Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên
nắm quyền và đặt ra các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đặc trách công việc khai thác và
bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài. Đây là một phương thức thực thi chủ quyền độc
đáo của Nhà nước Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông mà không có
bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được…
Thành tựu vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn là đã bước đầu thống
nhất được đất nước sau nhiều thế kỷ bị chia cắt thành hai khu vực Đàng Trong và
Đàng Ngoài. Đây cũng là lần đầu tiên sự thống nhất được thực hiện trên phạm vi
rộng lớn tương đương với nước Việt Nam ngày nay và cũng là lần đầu tiên, toàn
bộ đường bờ biển chạy dài từ Vịnh Bắc Bộ đến Vịnh Thái Lan với hàng nghìn hòn
đảo ven bờ cùng các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài Biển Đông đã thuộc về
quyền kiểm soát của Việt Nam.
Giống như các chúa Nguyễn trước đây, triều đại Tây Sơn của Quang Trung
- Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng
chủ yếu là bảo vệ và khai thác vùng quần đảo xa giữa Biển Đông. Đội Hoàng Sa
thời kỳ chúa Nguyễn được ấn định số lượng 70 suất và hoàn toàn chỉ chọn người
xã An Vĩnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Hằng năm, cứ vào tháng Hai, đội xuất hành
gồm 5 chiến thuyền ra Hoàng Sa, Trường Sa thu nhặt hoá vật của tàu bị nạn, tìm
kiếm hải vật và ở lại đây đến tháng tám mới trở về nộp cho triều đình Phú Xuân.
Đội Bắc Hải tuyển người ở thôn Tứ Chính và xã Cảnh Dương thuộc tỉnh Bình
Thuận và không cố định số suất thuỷ thủ như đội Hoàng Sa.
Phong trào nông dân Tây Sơn khi bùng nổ đã phát triển rất nhanh và đến
cuối năm 1773, đã giải phóng được một vùng rộng lớn từ Quảng Nam ở phía Bắc
cho đến tận Bình Thuận ở phía Nam. Như thế là toàn bộ các vùng quê hương của
hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải, từ rất sớm đã nằm trong khu vực kiểm soát của quân
Tây Sơn.
Vào ngày 15 tháng Giêng năm 1776, Cai hợp phường Cù Lao Ré (đảo Lý
Sơn) là Hà Liễu đã làm đơn trình bày rõ: “Bây giờ chúng tôi lập hai đội Trường Sa
và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng
nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt vật hạng đồng thiếc, hải
ba, đồi mồi dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo, xảy chinh chiến, chúng tôi xin
vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi xin tờ sai ra tìm
báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp”. Tờ đơn đã được chính quyền Tây Sơn
(vua Thái Đức) xem xét, chuẩn cho và hiện vẫn còn lưu giữ lại nhà thờ họ Võ,
phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).
Cũng tại nhà thờ họ Võ, đến nay vẫn còn giữ được chỉ thị ngày 14 tháng
Hai năm thứ 9 hiệu Thái Đức (1786) của Thái Phó Tổng Lý Quản binh dân chư vụ
Thượng tướng công “Sai Hội Đức hầu Cai đội Hoàng Sa luôn xem xét đốc suất
trong đội cắm biển hiệu thuỷ quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu, vượt biển thẳng
tiến Hoàng Sa cùng các sứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các
thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, đá quý… đều chở về kinh tập trung nộp
theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc
sinh sự với dân làm muối, làm cá đều sẽ bị trị tội”.
Ngoài ra còn có bản Ngự phê lời tâu của dân xã An Vĩnh về việc dâng nộp
các loại đồi mồi, hải ba, quế hương và xin miễn sưu dịch đã được thánh chỉ ban
thưởng vàng và phê “chuẩn cho”. Văn bản chép rõ: “Niên hiệu Thái Đức năm đầu
đến năm thứ 15 (1778-1792)” và “niên hiệu Cảnh Thịnh năm đầu đến năm thứ 9
(1793-1801). Khi ấy John Brrow là phái viên của phái bộ Macartney đi từ Anh
sang Trung Quốc có ghé qua khu vực Đà Nẵng vào tháng 6 năm 1793 (dưới triều
vua Quang Toản)”. Trong tập “A Voyage to Cochinchina, in the year 1792-1793”
(Một chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, vào những năm 1792-1793) mô tả: “Tàu
thuyền xứ Đàng Trong có nhiều kiểu dáng khác nhau, được dùng vào việc buôn
bán ven biển, chài lưới, thu lượm hải sản và tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là
Paracels (Hoàng Sa)”.
Từ những tư liệu hiện có, đã xác định được chủ quyền trên các quần đảo
ngoài Biển Đông dưới thời Tây Sơn. Thời ấy tình hình trước Trung Hoa rất phức
tạp, nhiều người chống đối chính quyền Mãn Thanh đã phải phiêu bạt trên Biển
Đông, triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực lượng này quy thuận.
Chiếu dụ Tàu Ô viết dưới thời Quang Trung từng vạch rõ: “Họ” (dân Tàu) ra vào
nơi bể nước (Biển Đông), tụ tập đồ đảng lấy việc cướp bóc làm kế sinh nhai, có lẽ
cũng là việc bất đắc dĩ, phần vì thiếu miếng ăn nên phải làm vậy, phần vì những
chính sách bạo ngược xua đẩy. Quang Trung kêu gọi họ sớm đầu hàng. Và chiều
theo sở nguyện của từng người thậm chí chấp thuận cho cả “những người có chí
lớn, muốn xông pha nơi ngọn sóng cùng hải đảo”.
Thu phục những người Trung Hoa phiêu bạt trên Biển Đông và sử dụng họ
tham gia vào công việc nhà nước là một chính sách quan trọng và có tính chiến
lược của vương triều Tây Sơn thời bấy giờ.
Sách Thánh Vũ Ký của Nguỵ Nguyên (1794-1857) cho biết: Có nhiều
người Trung Hoa làm nội ứng cho An Nam, được chúa An Nam Quang Toản
phong cho làm Tổng binh hoặc Đông Hải vương: “Triều đình đang bận việc dẹp
phía Tây, chưa lo xa đến vùng biển đảo, vì thế mà giặc hoạt động rất táo tợn. Năm
đầu niên hiệu Gia Khánh (1796) vị tướng ở Khúc Châu là Khôi Luận, Tổng đốc
lưỡng Quảng là Cát Khánh đã nhiều lần tâu vua rằng: bọn giặc biển Tàu Ô là
Trần Thiên Bảo đã được An Nam cho làm Tổng binh và cấp cho ấn”.
Cũng trong cuốn sách này Nguỵ Nguyên mô tả “Di thuyền” (thuyền của
quân Tây Sơn) cao, to hơn thuyền Trung Hoa, trên đặt nhiều súng, hoành hành lâu
năm trên mặt biển và nếu quân nhà Thanh gặp thì cũng khó có thể địch được. Đây
là một bằng chứng khẳng định lực lượng hải quân Tây Sơn trong thực tế đã kiểm
soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của các vùng đảo, quần
đảo giữa Biển Đông.
Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chính sách tiến ra
Biển Đông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên khu vực các quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Các triều: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị… đã thực thi chủ
quyền của mình bằng nhiều hình thức như vãn thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác
các vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ,
dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để
cho người qua lại dễ nhận biết. Những đóng góp quan trọng của triều Nguyễn thế
kỷ 19 vào lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông là sự tiếp nối chính
sách của vương triều Tây Sơn ngày ấy.