Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Giai thoại anh hùng áo vải Nguyễn Huệ Thanh Tùng ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.8 KB, 13 trang )

Giai thoại anh hùng áo vải Nguyễn Huệ -
Thanh Tùng
THỜI NIÊN THIẾU
Tại một làng quê có tên phú lạc (thuộc xã Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh
Bình Định ngày nay), có một gia đình họ Nguyễn có ba người con trai tên:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1752 - tuy là
em út, nhưng vóc dáng cao lớn, luôn sẵn lòng giúp gia đình, các anh làm được
nhiều việc. Nguyễn Huệ đã sớm tỏ ra là một con người thông minh, mưu trí,
nhân từ
Tuổi thơ, Huệ giúp gia đình thả bò đi ăn ở mạn Nam sông Côn; thường
hay bày trò "đánh giặc giả" với đám chăn bò trong các làng lân cận. Phe của
Huệ luôn giành phần thắng, nên lũ trẻ rất thích theo phe Huệ!
Theo truyền thuyết dân làng kể lại, một lần nọ, có một người lạ mặt tìm
đến đám chăn bò, có ý thuê một đứa giúp ông một việc: Lặn xuống đáy một hồ
nước cạnh chân núi, bỏ một chiếc hộp vào miệng một khe đá là miệng của một
con rồng. Ông sẽ thưởng cho mười lạng bạc! Nguyễn Huệ sớm biết mưu đồ,
thâm ý của ông, nên tuy không có đứa nào dám nhận lời - Huệ cương quyết
lãnh nhận. Nguyễn Huệ lặng sâu xuống đáy vực, theo lời dặn dò, Huệ tìm thấy
miệng hang của một con rồng. Ông không bỏ chiếc hộp vào, mà tìm một khe đá
khác nhét hộp vào. Nguyễn Huệ trồi lên mặt nước, lên bờ - người đàn ông vui
mừng trao cho Nguyễn Huệ mười lạng bạc! Người đàn ông lạ một ấy là một
thầy địa lý nổi tiếng, ông muốn tìm long huyệt, để chôn hài cốt của cha mình,
sau này ông và con cháu sẽ có mạng Đế Vương, quan to, hay giàu có. Ông đã
không ngờ được một cậu bé chăn bò đã hiểu thâm ý, đánh lừa ông dễ như chơi.
Người anh cả của Nguyễn Huệ ngoài việc đồng áng, trồng trọt, còn có
nghề đi buôn. Ông chèo thuyền lên mạn ngược, tìm mua trầu lá của các làng
người dân tộc Bana, Rađê; rồi xuống thuyền về An Thái (xã Nhơn Phúc) để bán.
Nguyễn Huệ cũng được anh nhờ theo hộ tống ghe thuyền, vì dọc đường có thể
bị cướp.
Ba anh em theo học chữ với thầy Nguyễn Văn Hiến - thường gọi là thầy
giáo Hiến - ở An Thái. Thầy giáo Hiến là người rất giỏi văn chương, lại rất đạo


đức; được dân chúng ca ngợi. Chính ông đã đặt vào tâm hồn Nguyễn Huệ lòng
yêu quý văn thơ; đặt nền móng cho những ước mơ xây dựng nền văn học chữ
Nôm sau này của Nguyễn Huệ.
Người thầy dạy võ đầu tiên cho ba anh em Nguyễn Nhạc, là ông Đinh
Văn Nhưng - tục gọi ông Chãng. Cả ba anh em phải khăn gói, mang gạo thóc
xuống tận Phương Danh (xã Đập Đá - huyện An Nhơn) để tầm sư học võ. Ông
Chãng có tướng người to con, thô kệch, rất giỏi võ nghệ, tính tình cương trực,
nóng nảy. Ông cũng là một trong số rất ít gia đình có công khai hoang, lập ấp,
xây dựng làng ấp; mở rộng bờ cõi cho An Nhơn
Trong ba người học trò này, ông thường ngợi khen Nguyễn Huệ là người
rất mưu trí, không những thông thuộc các thế hệ võ ông đã dạy, mà còn có
nhiều sáng kiến, biến hoá riêng. Ông cũng thường để Nguyễn Huệ ra thử đấu
với ông, để thử tài cao thấp. Lần nào Nguyễn Huệ cũng được ông nể phục.

CHIÊU MỘ BINH SĨ VÀ KHỞI NGHĨA
Theo sách Liệt Truyện ghi lại, Nguyễn Huệ có sức khoẻ tuyệt trần, lại có
mưu trí quyền biến, mưu lược như thần. Nguyễn Huệ còn có "giọng nói vang
như chuông, cái nhìn sắc như chớp".
Ba anh em Nguyễn Huệ ngày đêm chiêu mộ binh sĩ, quy tụ từng đoàn,
cho luyện tập võ nghệ, thuần phục. Nguyễn Huệ còn đích thân đi cầu người
hiền tài, thông hiểu binh pháp, về giúp sức cùng nghĩa binh. Vì vậy, có nhiều
tướng giỏi, trung thành, trở về cùng ba anh em ông mưu tính việc khởi nghĩa
Trong đoàn quân tinh nhuệ của ông, có cả nhóm người dân tộc Bana, Radhê
cũng quyết lòng theo ông, chống lại loạn thần Trương Phúc Loan đang cùng
bọn quan lại thối nát, nhiễu hại dân lành, vơ vét của cải
Nước Nam lúc bấy giờ đã bị phân chia làm hai miền, lấy Sông Gianh làm
giới tuyến: Họ Nguyễn hùng cứ phương Nam - gọi là Đàng trong (hay Nam Hà).
Họ Trịnh tự xưng chúa phương Bắc - Đang ngoài (Bắc Hà). Trên tuy còn có
Vua Lê, nhưng quyền hành thuộc cả vào tay hai chúa Trịnh - Nguyễn. Trong
nước đã có Vua, lại có chúa, nên Vua chẳng phải là Vua, tôi không phải là tôi:

Nước Nam đang ở vào thời nhiễu loạn, phân hoá trầm trọng.
Về sau, Đàng Trong có đại thần Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm
bậy Đàng Ngoài, có kiêu binh chúa Trịnh làm loạn, giết hại các quan đại thần
trung tín với nhà lê. Vua phải hạ mình, nhún nhường chịu phục; còn đình thần
phải khoanh tay im lặng: Nước Nam đang ở vào thời đại loạn.
Trước tình cảnh ấy, ba anh em Nguyễn Huệ quyết định khởi binh, phát
xuất từ ấp Phú Lạc (Tây Sơn) vào năm 1771 - tiến đánh các huyện An Khê, An
Nhơn, Tuy Viễn Đoàn quân tấn công ở đâu, đều được dân chúng ủng hộ, giúp
đỡ, xin gia nhập vào nghĩa binh ngày một đông. Đến năm 1773 - đội quân hùng
mạnh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Qui
Nhơn - làm căn cứ địa vững chắc cho cuộc khởi nghĩa

NGUYỄN HUỆ ĐÁNH NAM - DẸP BẮC
Sau một thời gian cũng cố thế lực, chuẩn bị quân lương - đội quân Tây
Sơn đã tạo được nhiều thanh thế lừng lẫy qua các trận đánh đều thắng lợi, quần
chúng tin theo rất đông. Nhận thấy ở Đàng Trong loạn thần Trương Phúc Loan
chuyên quyền hà hiếp, cướp bóc, giết hại dân lành, chế độ nhà Nguyễn thối nát,
dân tình rất cực khổ. Nguyễn Huệ đã cùng các anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
tiến quân vào Nam, Nguyễn Huệ đã dốc sức giúp anh chiến thắng vẻ vang,
nhưng sau đó đều rút quân về Qui Nhơn, chỉ lưu lại một võ tướng và vài đạo
binh để trấn giữ thành Vì vậy, tàn quân của Chúa Nguyễn - các con cháu lưu
lạc, có cơ hội tập hợp binh mã, nổi lên chống cứ lại quân Tây Sơn hòng chiếm
lấy thành Gia Định, dựng lại nghiệp chúa như xưa.
Lần thứ tư, Nguyễn Huệ thống lãnh đại binh, thẳng đường vào Nam tiến
đánh tàn quân nổi loạn của Chúa Nguyễn. Lần này, Chúa Nguyễn đã cầu xinh
được viện binh của Xiêm La, gần hai vạn quân - gọi là đội quân "hùm beo" - rất
hung dữ để chống lạ Tây Sơn. Với tài điều binh thần tốc, mưu trí hơn người, chỉ
trong vong một ngày giáp chiến ác liệt, đội quân "hùm beo" của Xiêm La chỉ
còn lại vài trăm tên, lủi thủi chạy về nước
Nguyễn Nhạc phong cho em là Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở lại

cai quản đất Gia Định kéo dài ra đến Bình Thuận
Mặt trận Đàng Trong đã tạm yên, Nguyễn Huệ tức tốc đem binh ra Bắc
Hà "hỏi tội lộng quyền, bức hiếp đình thần, truất quyền của Vua Lê, lại xâm hại
dân chúng" của chúa Trịnh. Với lá cờ thêu bốn chữ vàng "Phù Lê, diệt Trịnh";
Nguyễn Huệ đã được đông đảo quan quân, dân chúng nhiệt tình ủng hộ.
Chỉ trong một tháng, quân Tây Sơn đã đánh chiếm đến thành Phú Xuân -
các đội quân thuỷ bộ thẳng đường tiến ra Bắc Hà. Quân của Chúa Trịnh chống
cự lại quyết liệt. Nguyễn Huệ luôn đi đầu hàng quân, tiến đánh như vũ bảo;
quân sĩ một lòng trung kiên dưới cờ "Phù Lê, diệt Trịnh" của Nguyễn Huệ; tấn
công quân Trịnh, chiếm giữ nhiều cứ điểm quan trọng.
Quân Tây Sơn lần lượt tiến chiếm Thuận Hoá, đến tận sông Gianh, rồi
chiếm Nghệ An, Thanh Hoá khiến cho họ Trịnh hốt hoảng, cố ngăn giữ đoạn
sông chảy qua Sơn Nam. Nguyễn Huệ đã dùng mưu, lợi dụng đêm tối, ông cho
năm chiếc thuyền chở đầy rơm, người nộm bằng rơm, tiến về phía địch. Quân
Trịnh bắn ra tới tấp. Đạn hết. Nguyễn Huệ mới bắt đầu mở cuộc tấn công thực
sự. Ông toàn thắng. "Đường đến kinh đô đã mở "
Chúa Trịnh chạy lên Tây Sơn, giữa đường ông ta bị dân chúng vây bắt,
và lúc sắp bị nộp cho quân Tây Sơn thì ông tự tử chết. Chế độ Chúa Trịnh đã bị
tiêu diệt, sau 240 năm trời tồn tại (1545 - 1786). Nguyễn Huệ tiến vào thành
Thăng Long giữa tiếng reo hò, chúc mừng vang dậy. Tấm chiến bào ông đang
mặc đã xám đen thuốc súng, đất bụi của cuộc chiến chinh.
Làm chủ được kinh thành, Nguyễn Huệ thực hiện một kỷ luật nghiêm
minh trong quân và lập lại trật tự bằng một sự công bằng nhanh gọn. Đúng vào
hôm sau kéo quân vào thành Thăng Long, Nguyễn Huệ đến yết kiến Vua Lê
Hiển Tông - vị vua lên ngôi từ năm 1740 dưới lòng họ Trịnh, bây giờ đã gần 70
tuổi. Nhà Vua tiếp Nguyễn Huệ ở cung Vạn Thọ. Ông ta đã cho Nguyễn Huệ
đến ngồi bên cạnh mình. Nguyễn Huệ biểu hiện lòng trung thực với nhà Vua:
Ông đến đây nhằm bảo vệ triều đại nhà Lê, muốn nhìn thấy nhà Lê hưng thịnh
mà thôi
Ngày 7 tháng 7 âm lịch, ngày lành - giữa rừng cờ tung bay trước gió, và

những tiếng trống cồng vang động, Nguyễn Huệ cùng một số tướng lĩnh đến
điện Kinh Thiên, có đủ bá quan văn võ nhà Lê tham dự Lạy xong năm lạy,
Nguyễn Huệ dâng lên Vua Lê những sổ binh và sổ hộ, với ý nghĩa triều Lê đã
nắm lại thực quyền. Hiển Tông phong cho ông chức tướng, tước Uy Quốc Công
và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ kéo quân về đóng ở Phú Xuân, chỉ giao cho Nguyễn Hữu
Chỉnh ở lại Bắc Hà, trợ giúp Vua Lê xây dựng lại triều chính, đất nước. Vua Lê
Hiển Tông băng hà, cháu là Lê Chiêu Thống lên nối ngôi. Sự yếu đuối, bất tài
của Lê Chiêu Thống không vực dậy được một triều đại đã tan rã, kiệt quệ
Ngay tháng sau đó, họ Trịnh đã quay trở lại dùng vũ lực thiết lập lại những đặc
quyền, đặc lợi của mình. Sự lấn át quyền hành của họ Trịnh nặng nề đến mức
nhà Vua phải mất công sai người đến cầu cứu với Nguyễn Hữu Chỉnh.
Gặp dịp thuận lợi cho ý đồ mưu phản, mong chiếm trọn Bắc Hà, Nguyễn
Hữu Chỉnh vội vã kéo một vạn quân về Thăng Long đánh bại quân của Trịnh
Bồng, rồi nắm lấy mọi quyền hành, tự xem mình là chủ đất Bắc.
Theo lời khuyên đầy thâm ý của Chỉnh, Vua Chiêu Thống đã nhẹ dạ,
khiếp nhược cử phái đoàn vào Nam xin lại đất Nghệ An; mà sẽ đem lại mối lợi
lớn cho Chỉnh sau này. Nguyễn Huệ được tin Nguyễn Hữu Chỉnh tạo phản,
đang nổ lực xây dựng thanh thế ở Bắc Hà, hòng tiến đánh Tây Sơn, chiếm ngôi
nhà Lê; liền sai Võ Văn Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh
Viên tướng Tây Sơn đã đánh tan quân Bắc Hà, tiến vào kinh thành và nhà
Vua đã bỏ chạy Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, và bị hành hình; Lê Chiêu Thống
phải phiêu bạt, lẫn trốn nhiều nơi. Về sau, Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu
phải chạy sang Tàu, cầu cứu nhà Thanh Trong lúc đó, Võ Văn Nhậm say men
chiến thắng, lại được triều thần nhà Lê sũng ái, có nhiều quyền lực trong tay,
nên bắt đầu chuyên quyền và lại muốn tạo phản. Lần này, chính Nguyễn Huệ
cầm quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Quân Võ Văn Nhậm thua trận.Võ Văn Nhậm bị
bắt và hành hình vì tội phản nghịch. Nguyễn Huệ triệu tập các viên chức nhà Lê,
cho phục hồi chức vị; ông không nỡ diệt nhà Lê, nên sau khi lập lại trật tự, ông
giao việc cai quản Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, rồi trở về Phú Xuân Từ đất

Quảng Ngãi trở ra đến Sông Gianh, thuộc quyền cai quản của Nguyễn Huệ -
Nguyễn Nhạc đã phong cho ông là Bắc Bình Vương. Ông hùng cứ ở Phú Xuân,
ngày đêm lo việc quân binh, chăm lo đời sống của dân chúng về mọi mặt

VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH
Vua Lê Chiêu Thống đã mấy lần toan khôi phục lại nhà Lê nhưng không
được, phải nương náu ở Lạng Giang. Bà Hoàng Thái Hậu thì đem Hoàng tử
sang Long Châu kêu van với quan Tàu xin binh cứu viện. Quan Tổng Đốc
Lưỡng Quãng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên Vua Càn Long nhà Thanh rằng: "
Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang
cầu cứu, tình cũng nên thương. Và nước Nam vốn là đất cũ của Tàu, nếu sau
khi cứu được nhà Lê và lấy được đất An Nam, thật là lợi cả đôi đường”. Vua
Càn Long nghe lời tấu ấy, sai Tôn Sĩ Nghị khởi binh bốn tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây, Quí Châu, Vân Nam đem sang đánh Tây Sơn
Tướng Tây Sơn giữ Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin quân Tàu đã
sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thuỷ bộ về đóng giữ từ núi Tam
Điệp ra đến bờ biển, rồi sai người về Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Tôn
Sĩ Nghị Kéo đại binh vừa đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Lê Chiêu Thống vội ra
chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi về
mé nam sông Nhị Hà, cho bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân
ra đóng giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của Vua
nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Vua Chiêu
Thống tuy được thụ phong nhưng các tờ văn thư đều phải để “niên hiệu Càn
Long”. Mỗi khi buổi chầu xong lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật,
quân quốc. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, xử với vua rất khinh bạc. Người
bấy giờ bàn với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế Vương đến giờ, không
thấy Vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm Vua, mà phải theo niên hiệu Vua
Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc Sĩ Nghị, thế là có khác gì đã là
nội thuộc, nô lệ rồi không?". Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông vào
Tôn Sĩ Nghị, ngày đêm lo việc báo ân, báo oán, giết hại những người trước đã

theo Tây Sơn. Sĩ Nghị thì ngày càng kêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường,
lại thả binh ra cướp phá dân làng, làm lắm sự nhũng nhiễu
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở
Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh; các tướng
đều xin Nguyễn Huệ hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.
Nguyễn Huệ bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, phía nam thành Phú Xuân, ngày 25
tháng 1 năm Mậu Thân (1778), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là
Quang Trung. Sắc phong cho Công chúa Ngọc Hân làm Hoàng Hậu; con trai là
Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Hoàng đế Quang Trung tự mình thống lĩnh thuỷ bộ đại binh lên đường
tiến ra Bắc Hà. Đến Nghệ An, cho quân nghỉ dưỡng 10 ngày, để chọn lấy thêm
binh. Cả thảy được 10 vạn quân, và hơn 100 con voi.
Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ thủ bảo mọi người phải
cố gắn đánh giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Để cuộc hành quân được
nhanh chóng, đúng như dự tính. Vua sai bảo đem theo võng: Hai người khiên
một, sau đó lại đổi chỗ nghỉ cho nhau để bảo vệ sức khoẻ. Ngày 20 tháng chạp,
Mậu Thân - 1788, đoàn quân đã đến núi Tam Điệp: Các tướng Ngô Văn Sở,
Ngô Thì Nhậm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi,
cho nên phải lui về, giữ chỗ hiểm yếu chờ lệnh nhà Vua.
Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này làm vua
cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này, đích thân coi việc quân đánh giữ, đã định
sách lược mưu kế rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng
chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất
chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi,
dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế! Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhậm
dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa, nước ta
dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa!"
Hoàng Đế Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước,
để đến hôm trừ tịch (tối 30 tháng chạp) thì hành quân đi. Nhà Vua quyết định
ngày Mồng Bảy Tết sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Vua Quang Trung

tuyên bố trước tướng sĩ: "Trước hết, ta hãy ăn tết cho thoả thuê, rồi ta sẽ ra
Thăng Long vào ngày Mồng Bảy - tiếp tục vui xuân. Các khanh hãy nhớ lấy lời
ta!". Nói rồi vua Quang Trung truyền lệnh: "Đại tư mã Sở, Nội hầu Lân đem
tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc,
Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thuỷ quân vượt qua bể vào sông Lục Đầu.
Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé sông; Lộc thì kéo
về vùng Lạng Giang, Phương Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tướng mã đi đường núi ra
đánh phía tây. Mưu thì xuyên qua huyện Chương Đức (nay là Chương mỹ) tiện
đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì; đánh quân Điều Châu;
Bảo thì thống xuất quân thượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại
Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả ".
Năm cánh quân được lệnh truyền của Hoàng Đế, đều thu xếp, chuẩn bị
thật chu đáo, chờ đến hôm 30 tháng chạp đều xuất phát lên đường Sáng sớm
ngày 30, các đoàn quân đều khua trống chiêng vang động, náo nức tiến ra Bắc.
Năm đoàn quân cờ xí rợp trời, mỗi đoàn một hướng, rầm rộ hành quân theo
lệnh đã truyền như một ngày Hội lớn Khi đoàn quân tiến sang sông Giảng
Thuỷ (giáp giới tỉnh Ninh Bình và Hà Nam), cánh quân của nhà Lê tan vỡ, bỏ
chạy cả. Vua Quang Trung đích thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú
Xuyên, bắt sống được hết toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào
chạy thoát được. Vì thế nên không có tin báo về, đám quân Tàu đóng ở làng Hà
Nội và làng Ngọc Hồi không biết được tin tức gì cả.
Nửa đêm mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu (1789) quân Vua Quang Trung đến
làng Hà Nội vây kín đồn giặc, rồi bắt loa lên gọi, các cánh quân dạ rầm cả lên
có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi, hoang mang, đều
xin hàng. Bởi thế lấy được hết cả quân lương và khí giới. Sáng tinh sương ngày
mồng Năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra
như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại
làm một, lấy rơm cỏ thấm nước quấn ở ngoài, rồi truyền sai quân kiêu dũng, cứ
20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt theo một con dao nhọn, lại có 20

người cầm khí giới đi theo sau. Vua Quang Trung cỡi voi đi đầu đốc chiến,
quân ta vào đến gần nửa đồng, bỏ ván xuống đất rút dao ra, xông vào chém.
Quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán
loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Tây Sơn thừa thế đánh tràn đi như vũ bão,
lấy được hết các đồn bót, giết quân nhà Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng,
máu chảy như tháo nước.
Các đạo quân khác cũng báo tin về được toàn thắng: Quan nhà Thanh là
Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy
Thăng đều bị tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống ở Đống Đa (ở
cạnh Thái Hà ấp, gần Hà Nội) bị quân Tây Sơn vây đánh, cũng thắc cổ tự vẫn
Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hốt hoảng không kịp thắng yên
ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên kỵ mã chạy qua sông sang Bắc, trốn về nước.
Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu,
một lát sau cầu gãy đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những
thây người chết
Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng
Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân Vân Nam và Quý
Chân đang ở miền Sơn Tây (trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc địa hạt tỉnh
Sơn Tây) nghe tin quân Sĩ Nghị đã thua to, cũng rút quân trốn chạy về nước
Ngày hôm ấy, Vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, xông pha trận mạc,
áo ngự bào bị thuốc súng bắng vào đen như mực. Đến trưa, thì vào thành Thăng
Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa ải Nam Quan mới
dừng lại. Hoàng Đế Quang Trung vào thành Thăng Long hạ lệnh chiêu an, vãn
hồi trật tự; những người lính Tàu thú tội đều được cấp cho quần áo và lương ăn.
Vua Quang Trung còn bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong các giấy
tờ thu được có cả tờ mật dụ của Vua Càn Long gửi cho Sĩ Nghị. Vua Quang
Trung xem trong tờ mật dụ bảo với Ngô Thì Nhiệm: "Ta xem tờ chiếu của Vua
nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị
ta đánh thua một trận dữ dội, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu để yên. Hai
nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho

khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà ngươi chủ trương thực hiện cho mới được".
Công cuộc đánh dẹp, bình định ở Bắc Hà xong; Vua Quang Trung đem
quân về Nam; lưu lại Ngô Văn Sở và Phan Văn Long trông coi các việc quốc
quân. Còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì uỷ thác cho Ngô Thì
Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự do sử lý, thực hiện. Nếu không có việc hệ
trọng, thì cũng không cần tâu báo lại làm gì.
Đời sống, sinh hoạt của người dân ở Bắc Hà đã trở lại an bình, hưng phấn.
Nhất là dân chúng ở kinh thành Thăng Long thì rất đỗi vui mừng, vì từ nay sẽ
không còn bị lệ thuộc, áp bức, lầm than. Nước nhà đã thống nhất, đã được độc
lập; sống thời thái bình, hạnh phúc

ANH HÙNG ÁO VẢI HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG NHỮNG NĂM
THÁNG CUỐI ĐỜI
Hoàng đế Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là một ông Vua anh dũng,
lấy võ lược xây dựng cơ đồ. Quang Trung dùng trái tim độ lượng xứ thế, am
hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài.
Lúc trấn nhậm đất Phú Xuân, tuy việc binh, việc nước bề bộn, nhưng
Quang Trung luôn có mặt đều ở các hội tao đàn, xiển dương thơ văn lễ nhạc.
Khi ra lấy Bắc Hà, những bậc hiền tài như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều
được Quang Trung trọng dụng. Với Nguyễn Thiệp (còn gọi là Lạc Niên Tiên
Sinh, hay La Sơn Phu Tử), tuy không ra trực tiếp giúp nhà Tây Sơn, nhưng
Quang Trung vẫn kính trọng và xem như bậc thầy, thường lui tới vấn an, lễ vật
và xin được chỉ bày việc nước
Vua Quang Trung đã được Vua Càn Long nhà Thanh sắc phong là An
Nam Quốc Vương; được Vua Càn Long mời sang yết kiến, lại tặng nhiều lễ vật,
được hoạ sĩ Tàu vẽ chân dung; tiếp đón trọng thể với nhiều nghi lễ đặc biệt.
Thật ra, để đề phòng thâm ý của nhà Thanh, Vua đã cử cháu mình là Phạm
Công Trị, giả làm "Vua Quang Trung" trong chiến đi lịch sử này. Tuy là đã thụ
phong nhà Thanh, Vua Quang Trung vẫn tự sử theo cách Hoàng Đế, lập bà
Ngọc Hân con Vua Hiển Tông làm Bắc Cung Hoàng hậu, lập con là Quang

Toản làm Thái tử cho xây Phượng Hoàng Trung đô tại Nghệ An.
Hoàng Đế Quang Trung thực hiện ngay công việc cải cách, xây dựng đất
nước, từ việc chính trị, quan chế, đinh điền, giáo dục, văn hoá, tôn giáo, cho
đến công cuộc chuẩn bị để đánh Tàu. Mọi việc đã tiến hành tốt đẹp, theo như
hoạch định đã soạn sẵn từ trước. Đến năm Nhâm Tý (1792) Vua Quang Trung
sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng.
Việc ấy tuy không phải là thực ý của Vua, nhưng muốn mượn chuyện để thử ý
Vua nhà Thanh?
Dự định chưa thành, thì Vua Quang Trung lâm trọng bệnh. Không bao
lâu sau, Hoàng Đế băng hà (ngày 16 tháng 9 năm 1792), lúc mới 39 tuổi, tại vị
Hoàng đế được 4 năm. Miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế. Thái tử Quang
Toản lúc bấy giờ chỉ lên 10 tuổi, được triều đình tôn lên làm Vua, lấy niên hiệu
là Cảnh Thịnh.
Đau thương trước sự ra đi quá đột ngột của Hoàng Đế Quang Trung, lúc
tuổi xuân đang phơi phới, sự nghiệp đang phát triển rực rỡ, đất nước đang hồi
hưng thịnh, thái bình, và tình yêu đang nồng thắm. Hoàng Hậu Ngọc Hân đã
viết nên bài "Ai Tư Vãn" để khóc thương chồng. Bài thơ là áng văn tuyệt tác
trong dùng văn học chữ Nôm thời Tây Sơn. Bài thơ dài đến 164 câu; xin trích
một đoạn để cùng chia xẻ tâm tình khổ đau của bà trước sự mất mát vô vùng:
"Những ao ước chập chùng tuổi học,
Nguyền trăm năm ngỡ được vầy vui
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
Từ rằng hạ mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cần!
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngàn thay, máy tạo bất bằng,

Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bầy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luồng đêm thân, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trông mong luống những mơ màng
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say!
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ôi vắng vẻ, giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa tòi toạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay?
Có ai chốn ấy về đây
Nguồn cơn xin ngỏ cho huy được đành?
Nẻo u minh khéo chịu đôi ngả
Nghĩ đòi phen nồng nỏ - đỏi phen,
Kiếp này chưa trọn chữ "duyên";
Ước xin kiếp khác ven tuyền lửa hương!

×