Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quá trình hình thành giáo trình đọc và hiểu giá cổ phiếu trong quy tắc cho nhận của thị trường chứng khoán p9 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.16 KB, 10 trang )

91/8

77/8

May 99n

Feb 95 -
00

101 :
24

93 :
26

101 :
28

93 :
30

- 35

- 34

8,81

8,88

- Cột 1 chỉ lãi suất của trái phiếu. Ví dụ "91/8" có nghĩa là 9,125% của 1.000
USD, mỗi năm trái phiếu này cho lãi 91,25 USD.


- Cột 2 chỉ thời gian đáo hạn tháng và năm. Chữ "n" nằm kế 99 cho biết đó
là trái phiếu trung hạn "T- note". Theo ví dụ được trích trên đây "May 99n"
được hiểu là T- note đáo hạn vào tháng Năm năm 1999.
Một số T- bond trái phiếu dài hạn, trên 10 năm có mang đặc tính có thể được
thu hồi lại callable. Trường hợp này trên chào giá sẽ ghi hai niên hạn, niên
hạn để trước là năm khả năng thu hồi bắt đầu có hiệu lực và niên hạn ghi sau
là năm trái phiếu đáo hạn. Ta lưu ý vào dòng thứ hai của ví dụ trên, ở cột 2,
có ghi "Feb 95-00" có nghĩa là T- bonds đáo hạn vào năm 2000, loại có thể
thu hồi lại vào tháng Hai năm 1995 trở đi từ 1995 ~ 2000 có thể được thu
hồi hoặc không.
- Cột 3 chỉ giá thu vào "bid" và giá bán ra "asked" dựa trên căn bản điểm của
trái phiếu hay phần trăm của mệnh giả . Phần số bên phải của dấu hai chấm
đại diện cho các nấc giá 1/23 của một điểm trái phiếu 1/32 của 10 USD.
Chẳng hạn 101:24 nghĩa là 1.0124/32. Do đó mà giá thu vào của trái phiếu là
10124/32% của mệnh giá 1.000USD tức 1.017,50 USD một trái phiếu.
- Cột 4 chỉ sự thay đổi của giá thu vào của ngày hiện tại so với ngày báo giá
kế trước, các số ghi là số nấc 1/32 của một điểm trái phiếu. Ví dụ "- 35" như
trên có nghĩa là giá đã giảm đi 35/2 hay 13/32 so với giá thu vào ngày trước
đó.
- Cột 5 Asked Yield chỉ lợi suất tương đương mà trái phiếu thực tế nhận
được so với tiền mà người đầu tư phải bỏ ra mua tính đến ngày đáo hạn gọi
là Yield- to- maturity- YTM. Trong ví dụ trên ta thấy lãi suất tương đương
"ask yield" là 8,81 nhỏ hơn lãi suất ghi trên mặt của trái phiếu "rate" 91/8, lý
do là vì T- note đã có giá cao hơn mệnh giá người đầu tư phải trả 101:28 hay
1018,75 chứ không phải với 1.000. Người đầu tư đã bỏ ra một số tiền cao
hơn nhưng mỗi năm cũng chỉ nhận được tiền lãi y như cũ, do đó trong thực
tế tiền lãi họ nhận được có một lợi suất thấp hơn.
Việc chẻ nhỏ các điểm trái phiếu 1/32 trong thị trường chứng khoán và 1/64
trong thị trường futures và options có một ý nghĩa đặc biệt trong khoa học
chứng khoán. Nó vừa có công dụng chuẩn hoá theo yêu cầu thông tin, vừa

tạo một phần giá trị lẻ thực dụng và hợp lý trong giao dịch, nhất là các giao
dịch số lượng lớn. Ngoài ra, phần lẻ như vậy cũng tạo điều kiện cho sự mặc
cả, làm cho mua bán dễ xảy ra hơn. Mua bán nhiều hơn cũng có nghĩa là thị
trường càng có khả năng thanh khoản: đây là mục đích gần của TTCK.
Để giúp người quan tâm có thêm thông tin, ta cũng nên lưu ý quy ước về số
ngày trong năm khi tính toán tiền lời đối với trái phiếu của Mỹ, nhất là khi
tính các giá trị lãi tích được accrued interest giữa hai kỳ trả lãi. Các trái
phiếu công ty, trái phiếu đô thị T- bills được tính theo năm tròn 360 ngày
hay 30 ngày một tháng. Các T- notes và T- bonds được tính theo ngày thực
tế theo dương lịch và một năm có cơ sở là 365 ngày. Đây là căn cứ xác định
rất hữu ích khi tính toán phần lãi bằng tiền mà người mua trái phiếu phải trả
cho người bán trái phiếu cho tới ngày chuyển quyền sở hữu.
Một thực tế có tính truyền thống là thị trường trái phiếu luôn luôn lớn hơn và
lớn hơn nhiều lần thị trường cổ phiếu. Đặc biệt tại các thị trường chứng
khoán mới hình thành, lượng mua bán chứng khoán nợ chiếm một tỷ trọng
rất cao. Tuy nhiên điều đó chỉ hiện thực khi nào thị trường đã có một cơ chế
các lãi suất được hiệu chỉnh theo cung cầu, gọi là các lãi suất thị trường
interest rates. Lãi suất thị trường sẽ cảm biến khi thị trường tiền tệ đã hoạt
động nhịp nhàng, nhà nước có khả năng can thiệp hiệu quả bằng lãi suất hoạt
động phát hành trái phiếu chính phủ được thực hiện theo những kỹ thuật và
thông lệ có tính cạnh tranh…
Các trái phiếu chính phủ còn được xem là "vật liệu hạ tầng" rất quan trọng
đối với các tổ chức, các nhà quản lý tài chính, huy động vốn đầu tư, nhất là
các nhà điều hành quỹ đầu tư và ngân hàng. Bằng các nghiệp vụ giao dịch,
mua bán trong các thị trường, họ sử dụng các sản phẩm này để phòng ngừa
rủi ro hoặc bảo tồn giá trị. Chẳng hạn, một đợt huy động vốn kéo dài nếu
không tính tới việc bù đắp nghĩa vụ trả lãi phát sinh, trong thời gian chưa
đưa được tiền đó vào vòng quay, có thể đưa đến thiệt hại nghiêm trọng, làm
cụt vốn theo kế hoạch, đó là chưa nói tác hại của lạm phát.
Những năm gần đây, do sự biến động về lãi suất thị trường, người ta có

khuynh hướng phát hành các trái phiếu ngắn hạn hơn. Ở Mỹ chẳng hạn,
lượng T- bills tăng lên và T- bonds giảm xuống. Về tỷ trọng sở hữu của
người nước ngoài đối với trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng lên. Một thống kê
thị trường Mỹ vào khoảng năm 1990 cho thấy cơ cấu sở hữu chứng khoán
kho bạc "T" như sau: có 75% là các tổ chức, khoảng 12% là các cá nhân và
13% sở hữu thuộc các nước khác nằm ngoài nước Mỹ. Bách phân sau cùng
này nay chắc đã lớn hơn nhiều và biết đâu sắp tới sẽ có cả Việt Nam. Cũng
trong thời gian đó, lượng trái phiếu trung hạn T- notes đang lưu hành chiếm
khoảng 56% tổng lượng chứng khoán kho bạc của chính phủ. Điều này có
thể giúp khẳng định thêm rằng khuynh hướng tiếp thị các loại trái phiếu
trung hạn tại Việt Nam sẽ có tính hợp thời và khả thi hơn.
Chứng khoán trung gian chính phủ
Phát xuất từ kinh nghiệm hoạch định vĩ mô và yêu cầu về điều hoà hoạt
động kinh tế xã hội, ngoài các chính sách "co dãn" tiền tệ thông qua một số
can thiệp truyền thống và việc điều hành nợ của chính phủ với các hình thức
T- bills, T- notes, T- bonds,… chính phủ Mỹ còn sử dụng một công cụ đệm
rất hiệu quả và nổi tiếng bằng cách sử dụng lợi thế về uy tín của nhà nước để
tạo ra dòng luân chuyển tài chính linh động và tích cực đó là các chứng
khoán nợ do các tổ chức trung gian của chính phủ Govemment agencies phát
hành và quản lý.
Các tổ chức trung gian, về mặt kỹ thuật, không phải là các cơ quan chính
phủ, nhưng đó là những cánh tay đắc lực thay mặt chính phủ thực hiện
những đường lối điều tiết hoặc bảo trợ xã hội cần thiết cho từng giai đoạn và
yêu cầu của từng lãnh vực với độ đậm nhạt khác nhau. Quá trình đó hoàn
toàn dựa trên các tác nghiệp kinh tế, chứ không phải là hoạt động nhân đạo
hay nghĩa vụ thuần tuý. Nói chung, các tổ chức này là những công cụ gắn
chặt vào chính phủ, hoạt động và tồn tại độc lập nhưng với sự bọc lót của
chính phủ để loại trừ rủi ro, và đây chính là ân huệ then chốt của vấn đề. Có
thể phân ra hai loại tổ chức như vậy.
Loại thứ nhất là tổ chức trung gian được chính phủ bảo trợ Federally

sponsored agencies. Loại này có đặc tính là các tổ chức có nguồn vốn sở hữu
tư và được thuê phục vụ cho công ích. Chính phủ Mỹ tạo ra các thực thể này
nhằm giúp một số thành phần dân cư quan trọng nào đó trong nền kinh tế có
nhu cầu muốn giảm khó khăn về chi phí vay mượn để cải thiện cuộc sống
hoặc giải quyết bức xúc về giáo dục của họ. Những người hưởng lợi từ các
tổ chức này cụ thể tập trung vào ba khu vực chính là sinh viên, chủ trang
trại, và những người muốn làm chủ một căn nhà cho mình.
Tổ chức trung gian phát hành chứng khoán của mình thông qua một nhóm
bán selling group gồm các công ty kinh doanh chứng khoán. Tiền thu được
của đợt phát hành sẽ được cho một ngân hàng hoặc một định chế có chức
năng khác vay. Sau đó, ngân hàng cho các cá nhân đang tìm tài trợ thành
phần đã kể trên vay lại.
Những chứng khoán của tổ chức trung gian được chính phủ bảo trợ là loại
không được chính phủ bảo đảm. Tuy vậy, bản chất bảo trợ của chính phủ đối
với các tổ chức cho ta giả định rằng lẽ nào chính phủ lại để các tổ chức làm
"nhiệm vụ chính trị" đó lâm vào bế tắc!? Những tổ chức được bảo trợ hiện
nay ở Mỹ điển hình như:
Các Ngân Hàng Tín Dụng Nông Nghiệp Liên Bang
FFCB
Hiệp Hội Để Đương Nhà Nước Liên Bang FNMA
Các Ngân Hàng Cho Vay Mua Nhà FHLB
Chức Để Đương Cho Vay Mua Nhà FHLMC
Hiệp Hội Tài Trợ Sinh Viên SLMA
Loại thứ hai là loại tổ chức trung gian trực thuộc liên bang Federal agencies.
Tổ chức trung gian trực thuộc liên bang có liên hệ ràng buộc trực tiếp với
chính phủ Mỹ. Các trung gian này thông thường được bọc lót với sự bảo
đảm bằng quyền năng về tài chánh của chính phủ full faith & credit - gồm
quyền hành xử tiền thuế và vay mượn cộng với nguồn huy động khác ngoài
thuế trong việc trả vốn gốc và tiền lãi đối với trái phiếu đã phát hành. Trái
phiếu của các tổ chức trung gian loại này điển hình có Ngân Hàng Xuất

Nhập Khẩu Mỹ EXIMBANK và Hiệp hội Để đương Quốc gia trực thuộc
Chính phủ GNMA. Các chứng khoán loại GNMA ở Mỹ được gọi phổ biến
theo ngữ âm đọc tắt là Ginnie Mae.
Ginnie Mae là loại chứng khoán trung gian có độ an toàn cao nhất và rất
được ưa chuộng. Tại Mỹ, đây là loại chứng khoán điển hình đáp ứng tốt nhất
yêu cầu đầu tư dài hạn. Những người muốn có một khoản thu nhập đều đặn
trong tương lai thì đây là kênh đầu tư hấp dẫn. Những khoản thu nhập đó có
thể trang trải chi dùng hoặc được sử dụng uyển chuyển để tái đầu tư. Đó là
tập hợp của một chuỗi giá trị trong tương lai đối với một khoản đầu tư hiện
tại. Khoản đầu tư sẽ tích lãi kép và cho đến thời điểm "thu hoạch" theo thoả
thuận, mỗi tháng, người đầu tư nhận được một đợt tiền mặt gồm cả vốn lẫn
lãi, và đều đều như vậy cho đến khoản trả cuối cùng, tiền gốc principal lúc
đó cũng bằng zéro - ở những khoản trả cuối cùng, tiền gốc tiệm cận đến zéro
- Do đó ta dễ thấy cách đầu tư này khác biệt rất cơ bản so với T- notes hoặc
T- bonds. Các Ginnie Mae cũng có thể mua đi bán lại tại các thị trường thứ
cấp. GNMA trả lãi cao hơn các chứng khoán kho bạc "T" tương ứng về thời
gian đáo hạn. Việc trả lãi và gốc cũng được bảo đảm đúng hạn vì được bảo
kê bởi chính phủ liên bang. Mệnh giá nhỏ nhất của một Ginnie Mae hiện nay
là 25.000 USD.
Một cách tổng quát, các chứng khoán trung gian có lãi suất tương đương cao
hơn các trái phiếu trực tiếp của chính phủ T- bill, T- note, T- bong nhưng lại
thấp hơn lãi nhận được từ các chứng khoán nợ của công ty. Thời gian đáo
hạn của các chứng khoán trung gian thay đổi từ rất ngắn hạn cho đến tương
đối dài hạn. Việc chào bán áp dụng theo một bách phân trên mệnh giá và
được mua đi bán lại trước ngày đáo hạn.
Chứng khoán trung gian được bảo kê theo một số cách như: 1 bằng thế chấp
tiền mặt, trái phiếu của chính phủ và các chứng khoán nợ; 2 bằng sự bảo
đảm của Kho bạc Nhà nước; 3 bằng đặc quyền được vay tiền kho bạc dành
cho tổ chức trung gian, hoặc trong một số ít trường hợp 4 bằng quyền năng
về tài chính của chính phủ full faith & credit.

Tại Mỹ, người ta gọi loại chứng khoán này bằng vài cách tương tự nhau:
agencies, agency issues, agency securities. Ta có thể tạm dùng là "chứng
khoán tổ chức trung gian" hoặc "chứng khoán trung gian".
Ngoài các ý nghĩa về kinh tế xã hội thuộc phạm vi điều tiết vĩ mô của nhà
nước, về phương diện kỹ thuật, nó loại bỏ cách cho vay tài trợ đơn điệu, loại
bỏ sự ỷ lại có thể có của đối tượng mục tiêu được hưởng lợi, đồng thời tạo ra
một không gian kinh tế tương tác thể hiện trong cách thu xếp để các nghiệp
vụ chuyển hoá theo một logic cộng sinh.
Trong quá trình thực hiện các chính sách xã hội như vậy, nhà nước đóng vai
trò là tác nhân bảo kê cao nhất, những người đi vay là diện hưởng lợi từ
chính sách. Nhưng không đơn thuần chỉ có hai nhân vật chính này. Nhà
nước, chỉ với uy tín của mình đã có thể tạo ra một trung gian thu hút vốn và
hình thành thêm một kênh đầu tư hấp dẫn, thuận tiện và an toàn cao, lại hợp
khẩu vị của thị trường.
Chính những thứ này làm cho những người có tiền sẽ thực hiện đầu tư theo
đường lối bảo thủ với lãi suất không cần cao lắm vào các chứng khoán diện
nhà nước. Điều đó mặc nhiên nuôi dưỡng và phục vụ cho chính sách của nhà
nước, cụ thể hoá các chính sách thành một hiện thực đầy tính thuyết phục.
Nhà nước không cần trực tiếp bỏ tiền hoặc nhảy vào sự vụ. Quá trình đó còn
có sự tham gia của nhiều công ty hoặc định chế công ích, tài chính, ngân
hàng, và tạo được sự tương tác loang rộng, tồn tại theo nhịp độ của thị
trường.
Trái phiếu đô thị
Có thể đã hơn một lần ta được nghe nhắc đến trái phiếu đô thị, hoặc đâu đó
người ta đề cập đến loại trái phiếu công trình, Điều này cho thấy rằng đây
là một công cụ huy động tài chính không xa lạ lắm, hoặc có thể nói sẽ không
còn xa lạ nữa đối với đời sống kinh tế Việt Nam. Để có một sự hiểu biết đầy
đủ và không bị sai lệch, làm cơ sở tham khảo về trái phiếu đô thị, ta sẽ chọn
nguồn tiếp cận có gốc gác khai sinh và đã phát triển hiệu quả thành khuôn
mẫu chuyên nghiệp, được khái quát và đúc kết thành những quy chuẩn

chung có ý nghĩa ngành, chứ không còn là của riêng nước Mỹ.
Về mặt chất lượng, trái phiếu đô thị municipal bonds thuộc loại có niềm tin
cao nhất. Ở Mỹ, chứng chỉ đứng sau trái phiếu chính phủ và trái phiếu trung
gian chính phủ các agencies. Chứng khoán đô thị chủ yếu được các cấp
chính quyền trực thuộc chính phủ phát hành và quản lý với sự cho phép bằng
những khung quy định cụ thể của chính phủ. Ở Mỹ, đó là các lãnh thổ, tiểu
bang và các cơ quan thuế được phân quyền hợp pháp. Những nội dung phải
làm rõ trong một đợt phát hành gồm có:
- Xác định các điều kiện về món nợ của trái phiếu và lịch hoàn trả.
- Chứng minh năng lực phát hành hợp pháp của cấp chính quyền phát hành
trái phiếu.
- Liệt kê những đặc điểm cụ thể của đợt phát hành.
- Trình bày dự trù sử dụng tiền vay.
- Cung cấp thông tin tài chính về tình hình sức khoẻ kinh tế đối với địa
phương và cộng đồng.
CÁC THỦ TỤC ĐĂNG KÝ CHỨNG KHOÁN ĐÔ THỊ
 Hợp đồng trái phiếu bond contract:
Đây là hợp đồng mà một địa phương phát hành sẽ tham gia ký kết với những
người bảo lãnh bao tiêu hoặc những người đầu tư vào trái phiếu đó thường là
những nhà đầu tư lớn thương lượng mua trực tiếp.
 Nghị quyết phát hành trái phiếu bond resolution:
Các chính quyền địa phương phát hành và bán trái phiếu đô thị dựa trên cơ
sở một quyết định thừa nhận công khai đợt phát hành của mình. Nghị quyết
phát hành trái phiếu thể hiện ý chí và trách nhiệm của địa phương đối với
nghĩa vụ vay nợ thông qua hình thức trái phiếu đô thị.
 Hợp đồng trách nhiệm:
Tất cả các đợt phát hành trái phiếu nói chung đều phải có một đại diện đứng
ra bảo vệ quyền lợi cho người mua trái phiếu. Các đại diện được uỷ nhiệm
đó, được gọi là các "trustee", sẽ thay mặt người đầu tư trái phiếu ký với chủ
thể phát hành issuer một giao ước trách nhiệm trust indenture để theo dõi

một đợt trái phiếu trong suốt thời gian chúng còn hiệu lực.
 Báo cáo phát hành OS - Offlcial Statement:
Báo cáo phát hành được sử dụng trong hoạt động chứng khoán đô thị để
thông tin công khai một cách chính thức và đầy đủ các chi tiết liên quan đến
một đợt phát hành trái phiếu mà chính quyền địa
phương đang muốn huy động và sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp. Một báo cáo
phát hành như vậy có giá trị tương đương với một bản cáo bạch prospectus
dùng trong phát hành chứng khoán doanh nghiệp.
 Báo cáo phát hành thăm dò preliminary OS:
Giống như một cáo bạch thăm dò preliminary prospectus, báo cáo phát hành
thăm dò cũng công khai nội dung các thông tin về đợt phát hành giống như
trong báo cáo phát hành chính thức để đo
lường mức độ đón nhận của quần chúng và thị trường đối với đợt phát hành
đó, ngoại trừ yếu tố lãi suất và giá của trái phiếu được chào bán là chưa có.
 Ý kiến về pháp lý legal opinion:
Ý kiến này xác định trái phiếu phát hành là phù hợp với các luật lệ hiệu lực
hiện hành, quy định về quyền hạn của địa phương và các thủ tục nền tảng. Ý
kiến về pháp lý được một hãng tư vấn pháp luật có chuyên môn về trái phiếu
xác nhận và có giá trị tương tự như một xác nhận về kiểm toán đối với
doanh nghiệp.
CÁC LOẠI TRÁI PHIẾU ĐÔ THỊ
 Trái phiếu công ích general obligation bonds - GOs:
Là loại trái phiếu đô thị được bảo đảm cả tiền gốc và tiền lãi bằng toàn bộ
các nguồn thu tài chính và quyền lực thu thuế của chủ thể phát hành chính
quyền địa phương. Sự hứa hẹn bọc lót rộng rãi này làm cho trái phiếu công
ích có chất lượng cao hơn những loại có một đảm bảo đặc thù hoặc giới hạn
hơn. Tuy nhiên, theo lẽ thường thì thu nhập của người mua trái phiếu lợi
suất dạng này sẽ ở mức thấp. Do đặc tính bảo đảm cao dựa vào năng lực
thanh toán của chính quyền địa phương, ở Mỹ loại trái phiếu GO được xếp
loại cao nhất, gọi là "full- faith- and- credit bond". Một số điểm đáng lưu ý

tham khảo đối với loại trái phiếu công ích này gồm có:

×