Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Giáo trình-Truyền giống nhân tạo vật nuôi - chương 5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.23 KB, 23 trang )


125
Chương V

KỸ THUẬT DẪN TINIH

1. Xác định thời điểm phối giống ở gia súc cái .
1.1. Ý nghĩ của việc xác định thời điểm phối giống thích hợp

Trong truyền giống nhân tạo gia súc, việc xác định thời điểm phối giống thích
hợp có ý nghĩa rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và tỉ lệ thụ thai.
Việc xác định hai thời điểm phối gồng thích hợp sẽ dẫn đến không thụ thai hoặc thụ
thai với số lượng con/ lứa thấp (đối với động vật đa thai). T
ỷ lệ thụ thai có quan hệ
trực tiếp với thời điểm dẫn tinh.

1.2. Cơ sở khoa học của việc xác định thời điểm phối giống thích hợp
Việc xác định thời điểm phối giống thích hợp có liên quan đến nhiều yếu tố như
vị trí phóng tinh, sự di chuyển của tinh trùng và trứng trong đường sinh dục cái, thời
gian sống của tinh trùng và trứng trong đường sinh dục cái. Hiểu biết được các yếu tố
trên là cơ sở xác định thời đ
iểm dẫn tinh để trứng và tinh trùng có thể gặp nhau ở vị trí
và thời gian thích hợp khi còn khả năng thụ tinh.
1.2.1 Vị trí phóng tinh

Trong tự nhiên, các loài động vật khác nhau có vị trí phóng tinh khác nhau trong
đường sinh dục cái. Người ta chia ra hai phương thức phóng tinh, đó là:
- Phóng tinh âm đạo: Tinh dịch được phóng vào rìa giáp giữa âm đạo và cổ tử
cung. Trường hợp này tinh dịch có đặc điểm là đặc dính (người, thỏ) hoặc tinh dịch
đặc lại ngay lúc xuất tinh (khỉ), lượng tinh ít do có ít dịch tiết của các tuyến sinh dục
phụ và nồng độ tinh trùng cao (bò, cừu, trâu ).


- Phóng tinh tử cung: Tinh dịch được phóng vào cổ hoặc sâu bên trong t
ử cung.
Trường hợp này tinh dịch có đặc điểm là lượng tinh nhiều, cổ tử cung mở rộng để
nhận tinh dịch (ngựa) hoặc đương vật được giữ lại trong cổ tử cung trong quá trình
giao phối (lợn, chó). Có sự hình thành nút âm đạo do tinh thanh đông lại thành một cái

126
nút bịt âm đạo lại (lợn, gặm nhấm).
Qua nghiên cứu các điều kiện lý, hoá, sinh học ở trong tử cung - đặc biệt ở thời
kỳ gia súc cái động dục, người ta nhận thấy tử cung là môi trường rất thuận lợn cho
tinh trùng sống và hoạt động. Vì vậy, để tiết kiệm tinh dịch và nâng cao khả năng thụ
thai, trong thụ tinh nhân tạo, người ta chỉ dẫn tinh vào tử cung (kể cả đố
i với động vật
phóng tinh tự nhiên trong âm đạo, như: trâu, bò ).
1.2.2. Sự di chuyển của tinh trùng trong đường sinh dục cái
Ngay sau khi xuất tinh, tinh trùng nhanh chóng xuyên nhập vào niêm dịch lỏng
của cổ tử cung. Sự xuyên nhập này chủ yếu dựa vào sức hoạt động của tinh trùng và
đặc điểm của niêm dịch đường sinh đục gia súc cái. Tốc độ xuyên nhập của tinh trùng
trong niêm dịch có sự khác nhau ở các giai đoạn của chu kỳ động d
ục.
Trong quá trình xuyên nhập tinh trùng được định hướng một cách máy móc về
phía trong cổ tử cung và đầu tinh trùng được đẩy tới trong các rãnh cổ tử cung với lực
ma sát thấp nhất. Tần số đập của đuôi tạo nên sự cộng hưởng cơ giới giữa nó với tần
số dao động của lưới phân tử niêm dịch.
Những khoang chứa dịch có chứa các chuỗi phân tử mà ở giữa các chu
ỗi này có
rãnh cho phép tinh trùng đi qua và cho khuếch tán những chất hoà tan. Các enzym
phân giải protein (proteinase trong tinh thanh) có thể phân giải gốc protein hoặc một
số liên kết chéo của mu xin làm cho lưới niêm dịch giảm ma sát, mở ra nhiều rãnh hơn
để thúc đẩy tinh trùng di chuyển. Sự phóng thích tinh trùng từ các hốc của cổ tử cung

phụ thuộc vào sự thủy phân các chuỗi glycoprotein (do proteinase trong đầu tinh trùng
thực hiện). Sự di chuyển của tinh trùng trong các đoạn của đường sinh dục cái diễn ra
như sau:
* Di chuyển của tinh trùng trong tử cung
Sự di chuyển của tỉnh trùng trong tử cung chủ yếu nhờ vào hoạt động co rút của
âm đạo và cơ tử cung. Phần lớn tinh trùng, sau khi được đưa vào tử cung, xâm nhập
vào các tuyến nội mạc tử cung. Sự có mặt của tinh trùng trong tử cung đã kích thích
phản ứng bạch cầu ở niêm thạc tử cung, làm thúc đẩy sự thực bào phần lớn tinh trùng
yếu và chết. Từ
các tuyến nội mạc tử cung, tinh trùng có thể di chuyển được là nhờ sự
co bóp của hệ thống cơ tử cung, làm thay đổi hình dạng, thể tích cực ô, ngăn chứa tinh
trùng và sự vận động nội tại của tinh trùng, giúp cho tinh trùng tiến về phía ống dẫn
trứng .
* Di chuyển của tinh trùng trong ông dẫn trứng
Ống dẫn trứng có chức năng giúp cho tinh trùng và trứng đồng thời di chuyển
theo hướng ng
ược chiều nhau. Kiểu di chuyển và tốc độ di chuyển tinh trùng trong ống
dẫn trứng được kiểm soát bằng những cơ chế nhu động và phản nhu động của hệ cơ
ống dẫn trứng, những co rút phức hợp của các nếp nhầy và màng treo ống dẫn trứng,
dòng niêm dịch chảy xuôi và dòng chất dịch chảy ngược đo hoạt động tiên mao, ngoài
ra còn có thể do sự mở và đóng của các vị trí trong vách c
ơ.

127
Sự co rút của ống dẫn trứng tạm thời làm thay đổi hình dạng của các ngăn của
ống dẫn trứng, do đó các dịch thể và tinh trùng có thể được chuyển vận từ ngăn này
sang ngăn khác đế tiến sâu vào ống dẫn trứng.
Người ta ghi nhận có 3 giai đoạn di chuyển của tinh trùng trong đường sinh dục
cái, đó là:
- Di chuyển nhanh: Ngay sau khi tinh dịch được phóng ra, một bộ phận nhỏ tinh

trùng xuyên qua các chu
ỗi phân tử niêm dịch cổ. tử cung và tại đây, một số tinh trùng
di chuyển nhanh chóng đi qua rãnh cổ tử cung giai đoạn này diễn ra trong khoảng thời
gian từ 2-10 phút. Nhờ sự vận động nội tại của tinh trùng và hoạt động co rút tăng lên
của cơ tử cung và màng treo ống dẫn trứng được kích thích bằng phản xạ giao cấu, chỉ
trong thời gian 1,5 - 3 phút sau khi giao phối, một số tinh trùng đã đến được mi
ệng
trong cổ tử cung và nhanh chóng đi' sâu vào ống dẫn trứng để có mặt tại vị trí thụ tinh.
- Thiết lập các ổ chứa tinh trùng: Phần lớn tinh trùng bị giữ lại trong các nếp
màng nhầy phức tạp của cổ tử cung, tạo thành các tổ chứa. Quá trình này được thực
hiện do các chuỗi phân tử ở cổ tử cung lái tinh trùn đi vào các hốc cổ từ cung, tạo
thành các ố chứa. Do chất ti
ết của cổ tử cung có ít bạch cầu hơn so với âm đạo hoặc tử
cung, nên cổ tử cung ít xảy ra sự thực bào tinh trùng.
Tinh trùng có thể ra khỏi cổ tử cung nhờ năng lực vận động nội tại của tinh trùng
hoặc nhờ sự co rút của cố tử cung và tử cung hoặc là kết quả của cả hai yếu tố này.
Đối với loài xuất tinh tại tử cung' và sừng t
ử cung, ổ chứa tinh trùng khu trú tại
tuyến nội mạc tử cung (như ở chó) hoặc đoạn nối tử cung-ống dẫn trứng (như ở lợn).
- Phóng thích chậm và di chuyển của tinh trùng đến ống dẫn trứng:
Sau khi đã thiết lập các ổ chứa trong đường sinh dục cái, tinh trùng được phóng
thích liên tục trong một thời gian dài và di chuyển theo từng đợt (phụ thuộc khá nhiều
vào tần số co rút củ
a cơ tử cung và màng treo ống dẫn t ứng). Sự phóng thích này là
chậm chạp, đảm bảo cho tinh trùng có khả năng liên tục đi vào ống dẫn trứng để thụ
tinh. Vì vậy, càng có nhiều tinh trùng đi vào các ổ chứa thì thời gian tinh trùng có mặt
ở ống dẫn trứng càng dài và khả năng thụ tinh càng cao. Tuy nhiên, để đến được ống
dẫn trứng, tinh trùng phải vượt qua những rào chắn về giải phẫu và sinh lý. Các rào
chắn này có ý nghĩa quan tr
ọng trong việc sàng lọc, ngăn cản số đông tinh trùng không

thể tiến ồ ạt vào ống dẫn trứng là cơ chế tránh hiện tượng thụ tinh nhiều tinh trùng
trong một trứng, gây chết. trứng đã thụ tinh.

128

1.2.3. Di chuyển của trứng trong ống dẫn trứng
Thời gian di chuyển của trứng trong ống dẫn trứng là khá dài và thay đổi tuỳ loài.
Ví dụ: bò: 90 giờ; ngựa: 98 giờ; cừu: 72 giờ; lợn: 50-90 giờ, mèo: 148 giờ; chó: 168
giờ; khỉ Rhesus: 96 giờ; thú có túi: 24 giờ; phụ nữ: 48-72 giờ (Hafez, 1987).
Tuy nhiên, thời gian sống của trứng thì rất ngắn, bò: 20-24 giờ; cừu: 16-24 giờ;
lợn: 8-10 giờ; ngựa: 6-8 giờ; người: 12-24 giờ (Bazer và CS, l987).

Các kết quả nghiên cứu cho thấy: ở lợn, trong nửa phần đầu của ống dẫn trứng,
các noãn bào di chuyển nhanh, chúng lưu lại trong đoạn nối phồng - eo vào lúc 60 -75
giờ tính từ khi bắt đầu chịu đực. Trứng đi vào tử cung trong khoảng thời gian từ 66 -
90 giờ tính từ khi chịu đực; ở ngựa, trứng không được thụ tinh sẽ lưu lại trong ống dẫn
trứng mộ
t số tháng. Những trứng đã thụ tinh xuống đến tử cung vào giai đoạn "dưỡng
thai" thích hợp của chu kỳ động dục.
1.2.4. Sự thụ tinh
Trong hệ thống sinh sản hữu tính, thụ tinh là quá trình trong đó các giao tử đực
và cái (tức tinh trùng và trứng) đã hợp nhất lại thành một hợp tử. Nó được xem như là
sự tập hợp những biến đổi xảy ra trong trứng sau khi có tác động qua lạ
i và có sự hợp
nhất của các giao tử dẫn đến việc kết hợp hai nhóm nhiễm sắc thể đơn bội có nguồn
gốc từ con mẹ và con bố.
Trong tự nhiên, ở loài có vú, sự thụ tinh xảy ra tại phần trên của ống dẫn trứng, là
nơi mà tinh trùng tiến vào tiếp xúc với những noãn bào đã rụng. Vào lúc thụ tinh, số
lượng tinh trùng đến được xung quanh noãn bào là rất hạn chế.
Chang và Austin (1951) l

ần đấu tiên nhận thấy tinh trùng cần phải lưu trú lại
nhiều giờ trong đường sinh dục của con cái trước khi tiếp cận và thâm nhập vào tế bào
trứng. Quá trình này được gọi là sự kiện toàn năng lực thụ tinh của tinh trùng và được
xảy ra trong tử cung.
Vì khoảng thời gian hữu thụ của tinh trùng và trứng là có hạn (bảng 5.1), nên bắt
buộc việc phối giống và quá trình rụng trứng phải đồ
ng bộ thì mới đạt được tỉ lệ thụ

129
thai cao.
Súc vật cái rụng trứng ở nhiều thời điểm khác nhau sau khi bắt đầu chịu đực.
Tuổi thọ của tinh trùng trong đường sinh dục cái có liên quan đến độ dài thời
gian chịu đực ( lợn cái và ngựa cái, tinh trùng có tuổi thọ lâu hơn nhiều so với ở bò và
cừu) Tuy vậy, phối giống sớm quá hoặc muộn quá đều làm giảm khả năng thụ thai.
Bảng 5.1. Thời gian sống c
ủa tinh trùng và trứng trong đường sinh dục cái ở một số
loài gia súc

Loài gia súc Loại giao tử Đơn vị
Bò Ngựa Cừu Lợn
Tinh trùng
Trứng
Giờ
Giờ
30-48
20-24
72-120
6-8
30-48
16-24

34-72
8-10

1.2.5 . Một số phương pháp xác định thời điểm phối giống thích hợp

Cho đến nay, có nhiều phương pháp có thể xác định được thời điểm phối giống
thích hợp ở gia súc cái. Tùy vào đối tượng gia súc, điều kiện cụ thể của cơ sở sản xuất
trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật để lựa chọn một trong các phương pháp sau đây
hoặc kết hợp giữa các phương để xác định chính xác thời điểm phố
i giống thích hợp.
* Phương pháp mổ khám
Là phương pháp phẫu thuật nhằm bộc lộ buồng trứng để kiểm tra sự rụng trứng.
Phương pháp này cho biết mối quan hệ giữa thời điểm rụng trứng và các biểu hiện
động dục được quan sát thấy ở bên ngoài. Đây là phương pháp chính xác nhất để xác
định để xác định thời điểm phối giống thích hợp, nh
ưng chỉ được dùng trong nghiên
cứu không áp dụng trong sản xuất.
* Phương pháp quan sát triệu chứng lâm sàng
Đây là phương pháp đơn giản, dễ làm, có kết quả khá tin cậy và thường được áp
dụng nhiều trong thực tiễn sản xuất. Phương pháp này chủ yếu dựa vào quan sát, kiểm
tra các biểu hiện bên ngoài của con vật và bằng kinh nghiệm để xác định thời điểm
phối giống thích hợp. Các biểu hiệ
n toàn thân và cục bộ ở thời điểm phối giống thích
hợp, gồm :
- Trạng thái toàn thân: Con vật có phản xạ "mê ỳ", thích gần con đực hoặc con
cái khác (hoặc với người chăn nuôi nó), đứng yên cho con khác nhảy lên lưng, hoặc
cho người chăn nuôi đè, ấn, ngồi lên lưng nó. Hai chân sau có tư thế đứng trụ, đuôi hơi
ngỏng lên để lộ âm hộ ra và sẵn sàng tiếp nhận giao phối.

- Biểu hiện ở quan sinh dục

+ Bộ phận sinh dục ngoài: âm hộ bớt sưng, giảm độ hồng bóng, hơi có vết nhăn.
Khi vạch mép âm hộ ra thấy tiền đình và niêm mạc âm đạo bớt hồng và mức độ bóng

130
nhẫy (ướt) ít hơn giai đoạn trước chịu đực. Mép âm hộ có thể dính các lá cỏ hoặc rác
khô nhẹ.
+ Cổ tử cung: Nếu dùng mỏ vịt hoặc ống soi âm đạo sẽ thấy cổ tử cung mở rộng
có nước nhờn đặc chảy ra.
+ Dịch nhờn: dịch nhờn tiết ra ở âm hộ có màu nửa trong nửa đục, độ keo dính
cao, có thể kéo dài 2,5 - 3,0 cm (đối với lợ
n) và 7-10 chỉ (đối với trâu, bò). Do dịch âm
hộ tiết ra dính nên ở mặt dưới khấu đuôi và hai u xương ngồi có vệt bẩn dính thành
vảy mỏng. Nếu chăn nuôi trong môi trường có cỏ, rác thì dễ dàng quan sát cỏ, rác khô
bám vào u ngồi hoặc mông. Nếu lấy dịch âm hộ phiết kính, soi lên ánh sáng mặt trời sẽ
thấy các sợi dịch xếp theo hình cây dương xỉ.
* Phương pháp dùng đực thí tình
Phương pháp này thường áp dụng cho các cơ sở
chăn nuôi tập trung có số lượng
gia súc cái lớn
Đực thí tình là những con đực không có khả năng giao phối trực tiếp vì đã được
phẫu thuật bao dương vật chệch so với vị trí tự nhiên ban đầu một góc 450 hoặc tách
bao dương vật ra khỏi da bụng (hình 5.3), hoặc đã bị thắt ống dẫn tinh. Nếu không
phẫu thuật có thể dùng loại bao đai chắc che bịt vùng bao dương vật buộc chặ
t lên
lưng (kiểu đóng khố), vì vậy, khi đực thí tình nhảy sẽ không đưa được dương vật vào
âm hộ con cái. Mỗi ngày cho đực thí tình đi kiểm tra, phát hiện các con cái động dục
và chịu đực 2 lần vào buổi sáng và chiều. Thông qua phản xạ nhẩy của con đực thí tình
và phản xạ chịu đực của con cái giúp ta xác định được chính xác thời điểm phối giống
thích hợp.




131
* Phương pháp kiểm tra buồng trứng qua trực tràng
Phương pháp này dựa trên việc kiểm tra buồng trứng qua trực tràng bằng tay
trong thời gian động dục. Qua kiểm tra người ta phát hiện được vết lõm của buồng
trứng (nếu trứng đã rụng) hoặc độ căng của noãn bao. Bằng kinh nghiệm, người ta có
thể để chẩn đoán thời gian rụng trứng và dẫn tinh. Phương pháp này chỉ áp dụng đối
với đại gia súc (trâu, bò, ngựa).
* Phương pháp dùng điện trở kết c định điện trở âm đạo
Dựa trên quy luật biến đổi điện trở âm đạo là: điện trở âm đạo sẽ giảm thấp nhất
tại thời điểm rụng trứng sau đó lại tăng lên sau khi trứng rụng. Theo quy luật này,
người ta dùng điện trở kế đư
a vào tiền đình âm đạo, theo dõi sự biến đổi điện trở âm
đạo của con vật, khi nào từ số điện trở đạt giá trị thấp nhất chính là thời điểm trứng
rụng, lúc này dẫn tinh cho kết quả cao nhất. Theo Lê Xuân Cương và Lưu Kỷ, tại thời
điểm rụng trứng trị số điện trở âm đạo lợn nái đạt từ 200-300 Ohm
* Ph
ương pháp kiểm tra thân nhiệt
Dùng nhiệt kế theo dõi sự thay đổi thân nhiệt của gia súc cái trong thời gian động
dục. Quy luật của sự biến đổi là: Trong thời gian động dục, thân nhiệt cơ thể tăng cao
hơn bình thường, đạt giá trị cao nhất tại thời điểm rụng trứng, sau đó nhanh chóng trở
lại bình thường. Căn cứ vào quy luật biến đổi đó, khi thân nhiệt gia súc giảm đột ng
ột
là thời điểm rụng trứng, lúc này phối giống sẽ cho kết quả thụ thai cao.
* Phương pháp dùng âm thanh
Phương pháp này được áp dụng đối với cơ sở chăn nuôi lợn cái tập trung. Người
ta dùng băng ghi âm tiếng lợn đực khi gần lợn cái động dục và chỉ có lợn cái mới hiểu
được âm thanh ấy mà biểu hiện hành vi, tâm tính của nó. Khi âm thanh lợn đực được
phát ra, những con cái nào động dục s

ẽ vểnh hai tai hướng về phía có âm thanh và
quanh quẩn bên máy phát, tỏ vẻ muốn giao phối. Để tăng độ chính xác của phương
pháp, nên kết hợp việc sử dụng âm thanh với thử phản ứng mê ì của lợn.
* Phương pháp dùng feromon
Phương pháp này được dùng để xác định thời điểm phối giống ở lợn. Feromon là
chất có mùi giống như mùi lợn đực. Lợi dụng tính chất của feromon, ngườ
i ta đã điều
chế chất quyến rũ sinh học ở dạng khí dung (aerosol) để thử phản ứng chịu đực của lợn
cái trong thời kỳ động dục bằng cách bơm một ít chất này vào mũi lợn cái. Nếu lợn cái
chịu đực sẽ có biểu hiện "mê ì" muốn giao phối. Nếu chưa chịu đực, lợn cái sẽ tránh
hoặc chạy ra nơi khác. Dựa vào đó
để xác định thời điểm dẫn tinh thích hợp.
2. Dẫn tinh cho một số loài gia súc
2.1. Dẫn tinh cho lợn

2.1.1. Đặc điểm chu kỳ động dục của lợn cái
Chu kỳ động dục của lợn cái trung bình là 21 ngày, dao động từ 19-22 ngày tuỳ
theo giống, tuổi và cá thể. Thời gian động dục trung bình là 3-4 ngày (đối với lợn nội),

132
4-5 ngày (đối với lợn ngoại và lợn lai), 1-2 ngày (đối với lợn nái hậu bị).
Thời gian động dục cũng như chịu đực nhìn chung càng dài khi con vật động dục
càng sớm sau cai sữa.
2.1.2. Biểu hiện động dục và cách phát hiện
Biểu hiện động dục ở lợn cái thể hiện rất rõ: Giai đoạn đầu lợn kêu rít, phá
chuồng, thích nhảy lên lưng con khác nhưng không cho con khác nhảy lên lưng mình.
Nếu người sờ mó vào lợn, nó sẽ né tránh hoặc bỏ chạy. Cuối giai đoạn, các biểu hiện
hưng phấn giảm dần. Ở cuối ngày thứ hai sang đầu ngày thứ ba, lợn cái thường không
chạy nhảy nữa, đứng hoặc nằm một chỗ, mắt có vệt quầng thâm, dáng mệt mỏi, buồn
bã.

Biểu hiện cục bộ ở cơ quan sinh dục: âm hộ sung huyết, sư
ng to và mọng đỏ, sau
chuyển dần sang bớt sưng, se, hơi thâm và có các vết nhăn mờ. Dịch chảy từ âm hộ
giảm, hơi đặc và keo dính (âm hộ lợn cái thường thấy dính rơm, cỏ rác).
2.1.3. Cách xác định thời điểm phối giống thích hợp
Người ta có nhiều phương pháp xác định thời điểm phối giống thích hợp cho lợn
cái Các phương pháp thường được dùng nhiều trong sản xuấ
t là: phương pháp quan sát
triệu trứng lâm sàng, dùng đực thí tình, dùng feromon và dùng âm thanh. Sau đây,
chúng tôi xin giới thiệu phương pháp quan sát triệu trứng lâm sàng - phương pháp
dùng phổ biến trong chăn nuôi lợn ở Việt Nam
- Giai đoạn trước chịu đực: lợn nái thường có biểu hiện bị kích thích, hay đi lại,
kêu rít, muốn nhảy chuồng ra ngoài. Kém ăn hoặc bỏ ăn. Gặp lợn khác thích nhảy lên
bao ôm, nhưng không chịu cho con khác nhảy lên (kể cả lợn đự
c). Nếu người sờ mó
thì nó có phản xạ tránh né hoặc bỏ chạy.
Âm hộ sưng mọng, đỏ hồng, có nước nhờn chảy ra ngoài âm hộ nhưng còn lỏng,
trong suất, độ keo dính kém. Nếu lấy một ít nước nhờn này đặt vào giữa 2 đầu ngón
tay để kéo dài ra thì dễ đứt, không kẻo thành sợi được.
- Giai đoạn chịu đực: lợn bắt đầu yên tĩnh .hơn, ít kêu rít, biểu hiệ
n trầm lặng,
thỉnh thoảng thích nhảy lên lưng con khác nhưng vẫn chưa chịu để con khác bao ôm.
Đến cuối ngày thứ 2, âm hộ đã giảm độ sưng, ít căng bóng, màu hơi thâm tái, có các
nếp nhăn mờ xuất hiện. Trong âm đạo có màu hồng nhạt và ít trơn bóng như ngày đầu
Nước nhờn đã bắt đầu keo dính, có thể kẻo thành sợi dài 2-3 cm, có mầu vấn đục Do
vậy, ở hai bên mông, ở tròng khấu đuôi và mép ngoài âm h
ộ có vết dính, có thể dính
với cỏ, rác. Lúc này, nếu có lợn đực đến gần, lợn cái sẽ quay phần mông về phía lợn
đực, sẵn sàng cho giao phối. Khi lợn đực (hoặc lợn khác) nhảy lên lưng thì đứng yên,
lợn cái chụm 2 chân sau, né đuôi về một bên để lộ âm hộ. Hai mép âm hộ có những co

rút nhẹ, hé mở, thỉnh thoảng đái dắt.
Người ta có thể dùng tay ấn hoặc cưỡi lên lợn nái, nó vẫn
đứng yên. Dùng que
kích thích ngoài vùng âm hộ, lợn nái cong đuôi lên và xoay mông về phía que kích
thích. Các biểu hiện như vậy gọi là triệu trứng "mê ì" của lợn nái, là biểu hiện đặc

133
trưng dễ nhận biết và chuẩn xác để cho phối giống hoặc dẫn tinh thích hợp.
- Giai đoạn sau chịu đực: tính tình lợn nái trở lại bình thường và đã ăn chút ít.
âm hộ khô và teo lại, nước nhờn màu vẩn sữa, bã đậu và không dính. Trạng thái
"mê ì” giảm dần, càng về cuối giai đoạn này lợn nái không thích gần lợn đực nữa, đuôi
không chếch về một bên mà luôn luôn cụp vào âm hộ.

Như vậy, bằng quan sát lâm sàng cho thấy, thời điểm phối giống hoặc dẫn tinh
thích hợp nhất đối với lợn nái thường vào cuối ngày thứ 2 đến đầu ngày thứ 3 sau khi
động dục. Biểu hiện đặc trưng lâm sàng của thời kỳ động dục là trạng thái “mê ì" thời
kỳ chịu đực cao độ.
Tuy nhiên, thời gian chịu đực khá biến động (từ 24-48 giờ sau động dụ
c), phụ
thuộc vào lứa đẻ (nái tơ hay nái rạ), chế độ dinh dưỡng, phẩm giống. Thường lợn nái
nội thời gian chịu đực sớm hơn nái lai (ngoại x nội) và nái ngoại 1 ngày; nái tơ sớm
hơn nái rạ khoảng 1 ngày.


Hình 5.4. Quá trình động dục và thời điểm dẫn tinh thích hợp ở lợn

2.1.3. Kỹ thuật dẫn tinh
* Dụng cụ dẫn tinh
Gồm dẫn tinh quản (loại ống cao su trơn hoặc loại ống plastic có đầu xoắn hoặc
không xoắn) và bộ phận chứa tinh dịch (bằng lọ thủy tinh hoặc plastic). Xi lanh dùng

để dựng và bơm tinh dịch (trong trường hợp lọ đựng tinh bằng thủy tinh). Những dụng
cụ này được làm bằng các chất liệu không độc cho tinh trùng.

134

* Thao tác dẫn tinh
Bước 1 : Trước khi dẫn tinh cho lợn nái, cần quan sát triệu chứng động dục, xác
định thời điểm dẫn tinh thích hợp. Thời điểm dẫn tinh, xác định từ lúc bắt đầu động
dục, được coi là thích hợp như sau:
Lợn nái nội: cuối ngày thứ hai sang đầu ngày thứ ba.
Lợn nái lai (ngoại x nội) và lợn ngoại: cuối ngày thứ ba sang đầu ngày thứ tư.
Bước 2: Chuẩn bị dụng cụ:
- Vô trùng dụng cụ dẫn tinh: Dụng cụ dẫn tinh được luộc trong nước sạch, sôi
trong 15 phút. Sau đó vẩy ráo nước. Dùng 5-l0ml dung dịch nước sinh lý NaCl 0,85%,
hoặc 3-5 ml tinh dịch đã pha loãng, hoặc môi trường pha loãng để' tráng lại lòng dẫn
tinh quản. Dùng vazơlin hoặc glyxerin bôi 2/3 mặt ngoài phía đầu dẫn tinh quản.
Bước 3 : Chuẩn bị tinh dịch đảm bảo về thể tích và số lượng tinh trùng tiến thẳ
ng
trong 1 liều dẫn, như sau:
- Nâng dần nhiệt độ lọ tinh bằng cách cầm nắm trong lòng bàn tay (đến khi lọ
tinh không còn lạnh là được). Nếu có kính hiển vi, nên kiểm tra lại hoạt lực của tinh
trùng trước khi dẫn tinh.
- Quy định về thể tích và số tinh trùng có hoạt động tiến thẳng cần thiết cho một
liều dẫn tinh như sau:
- Đối với lợn nái nội: 30ml tinh pha, trong đổ đảm bảo 0,5 - 1,0 tỷ tinh trùng ti
ến
thẳng.
- Đối với lợn nái lai (ngoại x nội) : 60ml tinh pha, trong đó đảm bảo 1,0- 1,5ml tỷ
tinh trùng tiến thẳng.
- Lợn nái ngoại: 90ml tinh pha trong đó đảm bảo 1,5-2,0 tỷ tinh trùng tiến thẳng

(Nếu sử dụng xi lanh thì rót tinh dịch từ từ vào xi lanh theo thành ống, tuyệt đối không
lắp xi lanh vào dẫn tinh quản rồi hút tinh dịch, làm sục tinh dịch, ảnh hưởng đến chất
lượng tinh trùng).

135
Bước 4: Vệ sinh lợn nái: Rửa sạch vùng sinh dục lợn nái bằng nước sạch, nếu có
điều kiện dùng thuốc tím 0,1% để rửa. Sau khi rửa xong, lau khô bằng vải sạch, sau đó
bôi một ít vazơlin vào mép âm đạo.
- Dẫn tinh: Giữ cho lợn cái đứng yên bằng cách gãi nhẹ vùng mông hoặc kích
thích âm hộ lợn cái. Có thể dùng bàn chân đè nhẹ lên lưng hoặc bơm một ít tinh dịch
vào phán mũi lợn cái để gây hưng phấn. Dùng ngón cái và ngón tr
ỏ vạch hai mép âm
hộ ra và nhẹ nhàng đưa dẫn tinh quản về phía trước hơi chếch lên phía trên. Vừa đưa
vừa xoay nhẹ đầu dẫn tinh quản cho đến khi vào sâu trong âm đạo lợn cái khoảng 15-
20cm. Tiếp tục đẩy dẫn tinh quản vào sâu trong cổ tử cung (hình 5.5): Khi dẫn tinh
viên cảm thấy đầu dẫn tinh quản không thể vào sâu được nữa thì từ từ bơm tinh. Tốt
nhất nâng lọ đựng tinh hoặc xi lanh dẫn tinh lên cao để tinh d
ịch tự động từ từ chảy
vào tử cung.
Khi đưa dẫn tinh quản vào âm đạo nên làm động tác rút ra, đút vào nhè nhẹ để
kích thích lợn. Động tác kích thích rất quan trọng bởi vì nó hỗ trợ tử cung thúc đẩy
tinh trùng tiến về phía ống dẫn trứng. Sau khi bơm tinh xong, rút dẫn tinh quản ra một
cách từ từ sao cho phần tiếp xúc của ống dẫn tinh với âm hộ luôn cao hơn so với âm
hộ con lợn.
Chú ý:
Có một số lợn cái, nhất là lợn cái tơ không chịu đứng yên khi dẫn tinh.
Trong trường hợp này cần dồn lợn vào một góc để nó không chạy được. Nếu lợn cái
nằm bẹp xuống và dí âm hộ sát mặt đất, lúc đó để có thể dẫn tinh, người dẫn tinh phải
dùng một tay kẻo đuôi nâng mông lợn lên.
Sau khi dẫn tinh, nếu kỹ thuật viên "cảm thấy" hài lòng thì chỉ cần dẫn tinh một

l
ần. Nếu ngược lại, nên lặp lại lần dẫn tinh thứ hai sau lần 1 từ 10- 12 giờ. Riêng nái
ngoại cán phối hai lần trong một chu kỳ động dục.
Bước 5 : Sau khi dẫn tinh xong, phải vệ sinh dụng cụ sạch sẽ bằng nước xà
phòng, nước nóng bằng cách bơm thụt nhiều lần. Cuối cùng rửa lại bằng nước sạch và
lau khô bằng khăn sạch.
Bước 6: Sau khi dẫn tinh 21-25 ngày, phải kiể
m tra kết quả thụ thai, phát hiện
những lợn cái động dục lại để kịp thời dẫn tinh. Những lợn cái thụ thai ở kỳ động dục
nào ghi vào kết quả thụ thai của kỳ động dục ấy.
2.2. Dẫn tinh cho bò cái

2.2.1. Đặc điểm chu kỳ động dục của bò cái
Chu kỳ động dục của bò cái trung bình 21 ngày, dao động trong khoảng từ 17-24
ngày. Thời gian động dục 30 giờ, dao động trong khoảng từ 18-36 giờ. Thời gian chịu
đực trung bình 15 giờ sau động dục , dao động trong khoảng 12- 1 8 giờ. Thời gian
rụng trứng trung bình từ 12- 14 giờ sau khi kết thúc chịu đực , dao động từ 6- 18 giờ
sau khi kết thúc chịu đực. Tuy nhiên, các đặc đi
ểm về chu kỳ động dục của bò cái cũng
phụ thuộc vào các yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng, phẩm giống, lứa đẻ và các yếu tố
ngoại cảnh khác.

136
2.2.2. Biểu hiện động dục ở bò cái
Để phát hiện bò cái động dục người ta căn cứ vào các triệu trứng lâm sàng được
biểu hiện ra bên ngoài và các biến đổi bên trong cơ quan sinh dục của bò cái. Các biểu
hiện của cò cái động dục được trình bày ở bảng 5.2
Bảng 5.2. Biểu hiện bên ngoài và bên trong của bò cái động dục
qua các giai đoạn của chu kỳ
Các biểu

hiện
Trước chịu đực Chịu đực Sau chịu đực Cân bằng
Biểu hiện
bên ngoài,
dáng vẻ

Băn khoăn. ngơ ngác,
không yên, đi lại, đái
dắt, kêu rống (hoặc
không), nhảy con khác,
không cho con khác
nhảy, bỏ đi rông

Tìm đực hoặc đến
gần con khác. Chịu
cho nhảy - mê ì

Còn chịu cho nhảy
và phối giống (một
thời gian ngắn)

Bình thường
Ăn, uống Kém ăn, gặm cỏ lơ là Ăn ít hoặc không ăn Ăn ít Ăn uống bình
th
ư
ờn
g
Âm hộ Aưng, sung huyết, đỏ.
hơi phù, bóng ướt. Mép
âm hộ hé mở


Bớt sưng, hơi thâm,
se, dính cỏ rác

Hết sưng Bình thường
Biến đổi ở
buồng
trứng

Nang trứng phát triển Nang trứng nhô
căng

Rụng trứng quãng
12-14 giở sau khi
kết thúc chịu đực

Có thể vàng
nhô lên

Tử cung Màng nhầy tử cung dày
lên, tụ huyết

Màng nhầy tử cung
dày, trương lực tử
cung tối đa

Trương lực tử cung
bớt căng

Bình thường

Cổ tử
cung

Hé mở, đỏ hồng, ướt.
Niêm dịch lỏng. nhiều,
trong suất, dễ đứt (kéo
dài 1-2 cm)

Mở leng. Niêm dịch
đặc, dính, màu nửa
trong nhà đục, kéo
dài 7-10 cm
.
Hẹp dần. Niêm
dịch đặc, giảm độ
keo dính, màu đục
bã đậu, dễ ướt

Khép kín binh
thường, không
có niêm dịch

Âm đạo Đỏ hồng, ướt bóng Bớt đỏ Dần dần trở về bình
thường

Bình thường

2.2.3. Thời điểm động dục ở bò cái
Thời điểm động dục của bò cái được trình bày tại bảng 5.3


Bảng 5.3. Thời điểm xuất hiện động dục ở bò cái
Thời điểm xuất hiện động dục (giờ) Tỷ lệ bò cái động dục (%)
Từ 6 - 12 giờ
Từ 12 - 18 giờ
Từ 18-24 giờ (nửa đêm)
Từ 0 - 6 giờ
22
10
25
43


137
Như vậy, có tới 68% số bò cái xuất hiện động dục vào ban đêm, từ 18 giờ ngày
hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Đặc biệt có tới 43% số bò cái xuất hiện động
dục vào nửa đêm tới sáng sớm. Do đó, để phát hiện được bò cái động dục người ta
phải tăng tần số quan sát đàn bò, kể cả sau khi bò đã về chuồng nghỉ ngơi qua đêm. Tỷ
lệ bò
động dục được phát hiện trong đàn phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm của
người theo dõi và tần số theo dõi trong ngày.
Bảng 5.4. Quan hệ giữa số lần quan sát và tỷ lệ bò động dục được phát hiện
Tổng số quan sát (lần/ngày) Tỷ lệ bò động dục được phát hiện
1 lần
2 lẩn
3 lần
4 lần
50%
65%
85%
95%


Hai lần theo dõi quan trọng trong ngày là: buổi sáng ( từ7- 9h ) khi thả bò đi chăn
và buổi chiều (từ 17 - 19 h) khi dồn bò về chuồng . Mỗi lần theo dõi cần khoảng 25-35
phút.
2 .2 .4 . Các phương pháp xác định thời điểm phối giống thích hợp ở bò cái
Để xác định thời điểm phối giống thích hợp ở bò cái người ta thường sử dụng
các phương pháp sau:
* Phương pháp lâm sàng: Tiến hành theo dõi, quan sát đàn bò nhiều l
ần trong
ngày. Căn cứ vào các biểu hiện toàn thân và cục bộ của cơ quan sinh dục, kết hợp với
kiểm tra niêm dịch và theo dõi qua sổ sách để xác định chính xác bò cái có động dục
thật sự hay không và xác định thời điểm phối giống thích hợp. Ở thời điểm chịu đực,
bò cái có biểu hiện thích gần con đực hoặc con khác, cho con khác nhảy lên lưng, có
biểu hiện mê ì, sẵn sàng cho giao phối; âm hộ bớt s
ưng, hơi thâm, se, có vết nhăn nhỏ,
dính cỏ, rác; niêm dịch đặc, keo dính, màu nửa đục nửa trong và có thể kéo dài tới 7-
10 cái; khi phiết kính niêm dịch soi lên ánh nắng mặt trời thấy có hình cây dương xỉ .
Thời điểm này thường nằm trong khoảng thời gian từ 18- 19 giờ sau động đục, nghĩa
là sau 2/3 thời gian động dục.
* Phương pháp dùng đực thí tình
Phương pháp này thường áp dụng cho các cơ sở chăn nuôi tập trung. Trong đ
iều
kiện chăn nuôi nông hộ, quy mô nhỏ thì phương pháp này không kinh tế. Có thể thả
đực thí tình tự do trong đàn hoặc một ngày thả đực hai lần . Đực thí tình có vai trò phát
hiện và nhanh chóng và chính xác kể cả những bò cái động dục thầm lặng. Tuy nhiên,
phương pháp này cũng có nhược điểm là bò đực thí tình không phát hiện hết được tất
cả các bò cái động dục trong cùng ngày, ngoài ra, một số bò đực thí tình chỉ bám theo
một số con cái nhất định mà b
ỏ qua những con khác.



138
* Phương pháp dùng dùng đực thí tình kết hợp với chất chỉ thị màu
Một số cơ sở chăn nuôi tập trung với số lượng gia súc lớn, người ta có thể phát
hiện bò động dục bằng cách gắn vào vùng xương sống đuôi những bò cái chưa có chửa
một túi chỉ thị. Túi chỉ thị là một túi làm bằng polyetylen mỏng, dễ vỡ, bên trong có
chứa khoảng 50 - 100 ml chất chỉ thị màu
đỏ hoặc màu xanh. Khi phát hiện bò cái
động dục, bò đực thí tình nhảy lên lưng, đè vỡ túi làm cho phần mông con vật có màu
của chất chỉ thị, giúp dẫn tinh viên dễ dàng phát hiện những con động dục. Nhược
điểm của phương pháp này là nhiều khi thiếu chính xác vì túi chỉ thị có thể vỡ ra do
những va chạm khác.
* Phương pháp kiểm tra buồng trứng qua trực tràng: Kỹ thuật viên có thể dùng
tay đưa qua trực tràng khám bộ phận sinh d
ục và buồng trứng của bò cái, xác định bò
cái có động dục thật không. Nếu tử cung to hơn bình thường, sừng tử cung cong và
cứng hơn bình thường, cổ tử cung mở, có niêm dịch chảy ra, buồng trứng có nang
trứng phát triển. Căn cứ vào mức độ căng của noãn bao, hoặc vết lõm trên buồng trứng
mà người ta xác định thời điểm dẫn tinh thích hợp
Tuy nhiên, trong thực tế người ta có thể kế
t hợp các phương pháp trên để xác
định thời điểm dẫn tinh thích hợp cho bò.



139

Trong thực tiễn chăn nuôi của Việt Nam hiện nay, rất khó xác định chính xác
thời điểm bắt đầu động dục của bò cái, ít có điều kiện để kiểm tra bò cái đã chịu đực
hay chưa. Vì vậy, người ta thường áp dụng quy tắc dẫn tinh "sáng - chiều” như sau:

Bảng 5.6. Thời gian phối giống thích hợp theo quy tắc "Sáng - Chiều”
Thời gian phát hiện
động dục
Thời gian phối giống tốt nhất
Thời gian phối giống
quá muộn
Trước 8 giờ sáng Buổi chiều cùng ngày Sáng hôm sau
Từ 8 - 1 2 giờ Cùng ngày vào lúc rất muộn hoặc
sán
g
sớm hôm sau
8 giờ sáng ngày hôm sau trở
đi
Buổi chiều và tối Sáng và trưa ngày hôm sau Chiều hôm sau

2.2.5. Kỹ thuật dẫn tinh cho bò
* Các khâu chuẩn bị trước khi dẫn tinh
Để dẫn tinh được thuận lợi, công việc đầu tiên là cố định chắc chắn con vật trong
giá dẫn tinh. Đối với một số bò cái đã dẫn tinh nhiều lần hoặc với những con bò hiền
lành, hoặc với những con dẫn tinh viên đã quen biết thì có thể cố định bằng cách thít
một vòng dây thừng qua hông và bụng của con v
ật. Đối với bò tơ thì cách này không
có hiệu quả. Việc cố định bò vào giông không những bảo đảm an toàn cho dẫn tinh
viên và con vật mà còn làm cho quá trình dẫn tinh được thuận lợi hơn. Gióng dẫn tinh
nên đặt nơi sạch sẽ, rộng rãi, tốt nhất là nên có mái che mưa nắng.
Những dụng cụ cần thiết trong khi dẫn tinh như bình đựng tinh, găng tay, súng
bắn tinh, kẻo, bình đựng nước nâng nhiệt độ, giấy vệ sinh đều đượ
c để ở vị trí thuận
lợi cho việc sử dụng, bảo đảm an toàn và tránh sự chiếu sáng trực tiếp của ánh sáng
mặt trời.

Chuẩn bị dẫn tinh quản hoặc súng bắn tinh: Nếu là tinh đông lạnh dạng viên thì
trước khi giải đông bằng nước sinh lý, nên nắm lọ đựng dung dịch này chừng 15-20

140
giây trong lòng bàn tay (trước khi đưa tinh dịch vào dẫn tinh quản). Nếu là tinh đông
lạnh dạng cọng rạ thì nên ngâm cọng tinh vào nước ấm 34-35
o
C trong vòng 30 giây.
Trong trường hợp không có nước nóng có thể xoa cọng tinh trong lòng bàn tay khoảng
15-20 giây trước khi lắp cọng rạ vào súng bắn tinh. Khi lấy cọng tinh ra khỏi bình nhơ
không được nâng cóng đựng tinh quá khỏi miệng bình và quá trình thao tác không quá
7 giây. Khi đặt cọng rạ vào bình nước để nâng nhiệt độ cần lưu ý để đầu kẹp của cọng
rạ lên trên mực nước khoảng lem để đề phòng khi đầu kẹp hở, nước có thể tràn vào
cọng rạ. Dùng tranh kẹp ho
ặc tay lấy cọng tinh ra và dùng giấy vệ sinh lau khô cọng
tinh. Sau khi lau khô lắp cọng tinh vào súng bắn tinh. Công việc này được tiến hành
như sau:
Tay trái dẫn tinh viên cầm súng bắn tinh theo tư thế thẳng đứng. Điều chỉnh sao
cho piston của súng cách đầu trên của súng một vài centimet. Tay phải cầm đầu kẹp
của cọng tinh từ từ đưa cọng tinh vào ruột piston theo tư thế thẳng đứng. Khi cọng tinh
nằm gần hết trong ruột piston thì dùng k
ẻo cắt đầu kẹp cọng tinh tới hết phần chứa
không khí. Khi cắt nên lưu ý cắt đúng tiết điện của cọng tinh chứ không cắt vát. Tiếp
theo là lắp vỏ nhựa của súng dẫn tinh và cuối cùng là khoá lại.
* Thao tác dẫn tinh cho bò
Hiện nay, có 2 phương pháp dẫn tinh cho bò là: Phương pháp dùng mỏ vịt bộc lộ
cổ tử cung và phương pháp cố định cổ tử cung qua trực tràng (phương pháp trự
c tràng
tử cung)
+ Phương pháp dùng mỏ vịt bộc lộ cổ tử cung (áp dụng với tinh dịch bảo tồn ở

dạng lỏng):
Người dẫn tinh dùng mỏ vịt đưa qua âm đạo để bộc lộ cổ tử cung, dùng đèn soi
để kiểm tra độ mở của cửa tử cung. Nếu cổ tử cung đã mở hoàn toàn, người ta đưa dẫn
tinh quản qua mỏ vịt vào sâu trong c
ổ tử cung và bơm tinh.
+ Phương pháp cố định tử cung qua trực tràng (phương pháp trực tràng- tử
cung): (áp dụng với tinh đông lạnh)
Người dẫn tinh dùng bàn tay đã đeo găng ngon (hoặc cao su mỏng) đã được bôi
trơn bằng nước xà phòng hoặc vazơlin từ từ đưa vào trực tràng, móc hoặc kích thích
cho bò thải hết phân ra. Sau đó vệ sinh phần ngoài cơ quan sinh dục bằng nước muối
hoặc nước xà phòng. D
ẫn tinh viên đứng ở tư thế chân trái bước lên, hai vai thẳng với
đường cột sống bò, dùng một tay (thông thường là tay trái) đã nằm trong trực tràng cố
định cổ tử cung qua trực tràng. Tay kia từ từ đưa dẫn tinh quản hoặc súng bắn tinh vào
âm đạo qua âm hộ, chếch lên trên một hướng 30o so với phương nằm ngang.
Dùng ngón tay cắt qua trực tràng xác định lỗ cổ tử cung, kết hợp với tay phải
hướng đầu súng bắ
n tinh vào lỗ cổ tử cung. Khi đầu súng bắn tinh đã nằm trong lỗ cổ
tử cung thì lắc nhẹ lỗ cổ tử cung về bốn hướng. Lỗ cổ tử cung có nhiều nấc nên mỗi
lần đầu súng bắn tinh đi qua một nấc ta có cảm giác thấy một tiếng “sật". Trong khi lắc
có thể dùng ngón tay trỏ của bàn tay nằm trong trực tràng để kiểm tra đầu cuối cổ tử

141
cung xem đầu súng bắn tinh đã qua hết cổ tử cung hay chưa
Về vị trí bơm tinh, người ta thường đưa dẫn tinh quản đến tận gốc sừng tử cung
và bơm hết lượng tinh vào đó. Để xác định đầu súng bắn tinh đã đi đến gốc sừng tử
cung chưa, người ta đặt ngón tay trỏ của tay nằm trong trực tràng ở điểm giao nhau
giữa gốc 2 sừng tử
cung và thân tử cung. Khi đầu súng bắn tinh chạm vào đầu ngón
tay trỏ nằm trong trực tràng, tại vị trí đó tiến hành bơm tinh. Thời gian thao tác dẫn

tinh không quá 1 5 phút kể từ khi giải đông đến khi kết thúc .
Để đảm bảo kết quả thụ thai cao, nên tiến hành phối kép, lần sau cách lần trước
10 - 12 giờ.

* Những vấn đề cần lưu ý trong dẫn tinh cho bò cái
- Âm đạo bò cái có nhiều nếp nhăn nên đầu dẫn tinh quản hoặc súng bắn tinh
thường vướng vào thành mép âm đạo. Trong trường hợp này không nên cố đưa đầu
súng bắn tinh về phía trước mà nên đưa cổ tử cung về phía trước (bằng bàn tay đã cố
định cổ tử cung qua trực tràng) sao cho cổ tử cung và âm đạo nằm trên một đường
thẳng, rồ
i phối hợp với tay trong trực tràng lách dần đầu súng bắn tinh về phía trong cổ
tử cung. Đối với người mới vào học dẫn tinh cho bò, đây là việc đầu tiên cần làm và là
việc khó nhất.
- Sau khi bơm tinh và rút súng bắn tinh ra, nên bóp nhẹ âm hộ hoặc phát nhẹ vào
mông bò cái.
- Nên lấy một ít tinh dịch còn sót lại ở dẫn tinh quản hoặc vọng tinh để kiểm tra
xem tinh dịch vừa dẫn có bị hỏng hay không (chỉ tiêu A). Việc làm này giúp cho d
ẫn
tinh viên tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra như: phối tinh đã chết hết
tinh trùng, tinh chất lượng kém, qua đó biết được chất lượng tinh dịch vừa phối.

142

2.3. Dẫn tinh cho trâu cái

2.3.1. Đặc điểm chu kỳ động dục của trâu cái
Chu kỳ động dục của trâu cái trung bình 24 ngày, dao động từ 21-30 ngày. Thời
gian động dục trung bình là 29 giờ, dao động từ 12-72 giờ. Thời gian rụng trứng vào
20-22 giờ sau khi bắt đầu động dục, dao động từ 18 - 48 giờ. Các đặc điểm trên phụ
thuộc vào giống, cá thể, vùng sinh thái, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng

2.3.2. Triệu chứng động d
ục và cách phát hiện trâu cái động dục
Các kết quả điều tra cho thấy, phần lớn (trên 80%) trâu cái không có biểu hiện
động dục rõ ràng (động dục ẩn), chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (12- 15%) trâu cái có hành vi
ham muốn về tính dục (động dục). Vì thế, để phát hiện động dục của trâu cán chú ý:
Khi động dục, tất cả trâu cái đều có hiện tượng bài tiết niêm dịch ở đường sinh
dục. Tính chấ
t vật lý, màu sắc niêm dịch diễn biến theo các giai đoạn động dục: Trước
khi chịu đực niêm dịch lỏng, nhiều, trong suốt, dễ đứt (nếu lúc này khám qua trực
tràng sẽ cảm nhận được miệng lỗ tử cung hé mở, buồng trứng có nang trứng phát
triển); Trong giai đoạn chịu đực, niêm dịch đặc, màu nửa trong nửa đục, dính và kẻo
sợi được Lúc này miệng lỗ cổ tử cung m
ở rộng, nang trứng nhô căng; Giai đoạn sau
chịu đực, niêm dịch màu đục bã đậu, dễ đứt, miệng tử cung hẹp dần, buồng trứng có
vết trứng rụng.
- Muốn phát hiện trâu cái động dục qua bài tiết niêm dịch, người chăn nuôi phải
theo dõi trâu còn nằm yên tĩnh trên nền chuồng vào buổi sáng tinh mơ và đêm tối. Mùa
hè - thu, kiểm tra niêm dịch vào lúc 3-4 giờ sáng và 20-21 giờ đêm; mùa đông - xuân,
kiểm tra vào lúc 4-5 giờ sáng và 19-20 gi
ờ tối.
- Kiểm tra lại bằng cách cho tiếp xúc với đực thí tình và tiến hành khám bộ phận
sinh dựa bên trong qua trực tràng để ~ khẳng định trâu cái có động dục hay không
đồng thời biết được thời điểm dẫn tinh thích hợp.


143
2.3.3. Mùa vụ động dục của trâu
Tính động dục theo mùa vụ của trâu rõ rệt hơn ở bò. Qua điều tra cơ bản về chăn
nuôi trâu bò ở Việt Nam cho thấy, trâu cái đẻ tập trung vào vụ đông - xuân. Điều đó
chứng tỏ trâu động dục vào vụ thu - 'đông, lúc thời tiết khá mát mẻ. Khi thời tiết nóng

quá hoặc lạnh quá trâu cái ít động dục. Kết quả theo dõi trên 164 trâu cái Mình ở trung
tâm giống trâu Phùng Thượ
ng (1976 - 1979) có 83,5% số trâu cái động dục vào vụ thu
- đông và đầu xuân (từ tháng 8-12 và tháng l-2). Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi
dưỡng và chăm sóc quản lý tốt, tính mùa vụ động dục của trâu cái hầu như không rõ
rệt.
2.3.4. Xác định thời điểm phối giống thích hợp cho trâu cái
Để xác định thời điểm phối giống thích hợp cho trâu cái người ta cũng áp dụng
các phương pháp xác định thời điểm phối giống thích hợ
p như đối với bò. Nhìn chung
thời điểm phối giống thích hợp cho trâu cũng nằm trong giai đoạn chịu đực và để đạt
được tỷ lệ thụ thai cao, trâu cái cần phải được dẫn tinh vào 2/3 thời gian động dục hoặc
ít giờ sau khi chịu đực. Trong thực tiễn chăn nuôi trâu người ta cũng thường áp dụng
quy tắc "sáng- chiều” như ở bò.
2.3.5. Kỹ thuật dẫn tinh cho trâu cái
Kỹ
thuật dẫn tinh cho trâu cái được áp dụng tương tự như ở bò.
2.4. Dẫn tinh cho ngựa

2.4.1. Đặc điểm chu kỳ động dục của ngựa cái
Chu kỳ động dục của ngựa cái khá biến động, trung bình 21 ngày (đối với ngựa
cái có thời gian động dục 5-6 ngày) và 26 ngày (đối với ngựa cái có thời gian động dục
10 ngày). Vì vậy, thời gian động dục của ngựa cái cũng khá biến động, dao động từ 5-
10 ngày. Thời gian chịu đực trung bình 4-8 ngày. Thời gian rụng trứng 1-2 ngày trước
khi kết thúc chịu
đực.
2.4.2. Biểu hiện động dục
Biểu hiện động dục ở ngựa cái thường khó nhận thấy. Hiện tượng tăng sinh ở bộ
phận sinh dục bên ngoài (âm hộ) thường không rõ rệt, niêm dịch chảy ra từ âm hộ
không nhiều. Khi sờ vào âm hộ hoặc cho đến gần ngựa đực, âm hộ ngựa cái mấp máy,

đồng thời đuôi nâng lên, âm vật nhô ra một chút, nước tiểu và niêm dịch chả
y ra. Để
nhận rõ biểu hiện động dục của ngựa cái người ta thường dùng đực thí tình. Nếu ngựa
cái động dục thì nó đứng yên hoặc đi xung quanh ngựa đực. Trong trường hợp ngược
lại, ngựa cái quay đi, đá chân và hí.
Vào thời gian đầu động dục, buồng trứng ngựa cái có một số nang trứng phát
triển ở một hoặc cả hai buồng trứng, có đường kính 1- 3 chỉ nằm
ở hai đầu hoặc trên
bề mặt của buồng trứng. Tuy nhiên, chỉ có 1-2 trứng phát triển đầy đủ và chín. Khi
chín, đường kính của trứng từ 4-7 cái. Gần tới lúc thải trứng, thành noãn bao căng lên,
sờ thấy buồng trứng mịn màng.

144
2.4.3. Phương pháp xác định thời điểm phối giống thích hợp
Để xác định thời điểm phối giống thích hợp cho ngựa cái, nên kết hợp cả 3
phương pháp: lâm sàng, dùng đực thí tình và kiểm tra buồng trứng qua trực tràng. Thời
điểm phối giống thích hợp cho ngựa cái nằm trong khoảng thời gian chịu đực (4-8
ngày) hoặc không muộn hơn 12 giờ sau khi thải trứng.
Chú ý: ngựa cái thường động dụ
c tập trung vào mùa xuân và hè (từ tháng 2, 3 đến
tháng 7, 8 hàng năm). Tuy nhiên, có một số ngựa các động dục gần như quanh năm.
2.4.4. Kỹ thuật dẫn tinh
Dụng cụ dẫn tinh: gồm xi lanh (bơm tiêm) dung tích 100 ml, dẫn tinh quản bằng
nhựa và 1 vòi cao su để nối xi lanh với dẫn tinh quản khi bơm tinh.
- Liều phối: 40 - 80 ml tinh dịch pha loãng với tổng số tinh trùng tiến thẳng từ 1
5-3 tỷ/1ần phối.
Thao tác: + Cố đị
nh ngựa cái ở giá, buộc đuôi và 2 chân sau (hoặc cài then phía
sau gióng).
+ Đưa một tay và dẫn tinh quản vào đường sinh dục ngựa cái, dùng ngón tay trỏ

lái đầu dẫn tinh quản vào cổ tử cung, tiếp tục đẩy nhẹ dẫn tinh quản qua hết cổ tử cung
(có cảm giác nhẹ và hẫng) thì dừng lại. Nối bơm tiêm và dẫn tinh -quản bằng ống cao
su và từ từ bơm tinh vào.
2.5. Dẫn tinh cho dê, cừu

2.5.1. Đặc điểm sinh sản của dê cái
Hiện nay ở Việt Nam, ngoài giống dê cỏ, Nhà nước đã cho nhập thêm giống dê
Bách thảo do đó xuất hiện thêm dê lai (Bách Thảo x dê cỏ). Do đặc điểm của giống
khác nhau nên đặc điểm sinh sản của chúng cũng khác nhau. Mặc dù chưa có tồng kết
thống nhất về đặc điểm sinh sản của dê nuôi tại Việt Nam, nhưng kết quả
điều tra ban
đầu trên đàn dê nuôi tại cơ sở Thanh Ninh - Thanh Hóa, gồm 100 dê cỏ, 84 dê Bách
Thảo và 47 dê lai (Bách Thảo x dê cỏ) cho thấy một số đặc điểm sinh sản của dê nuôi
tại Việt Nam, như sau:
Bảng 5.7. Đặc điểm sinh lý sính sản của dê
Đặc trưng Dê cỏ Dê Bách Thảo Dê lai
Tuổi động dục lần đầu (tháng) 4-6 5-7 4-7
Khối lượng cơ thể động dục lần đầu (kg) 11, 53 18,56 16,35
Tuổi phối giống lần đầu (tháng) 7-9 6-9 6-9
Khối lượng phối giống lẩn đầu (kg) 17,35 23,10 20,54
Tuổi đẻ lứa đầu (ngày) 358-420 328-418 320-421
chu kỳ động dục (ngày) 1 6-26 18-24 1 6-26
Thời gian động dục (giờ) 1 6-36 18-24 1 6-42
Thời gian chửa (ngày) 1 42- 1 50 143-151 142-151
Số con đẻ ra/lứa (con) 1,6 2,0 1,8
Thời gian động dục lại sau đẻ (ngày) 68 60 60
Khoảng cách 2 lứa đẻ (ngày) 255 218 220

145
2.5.2. Đặc điểm sinh sản của cơ

Cừu cái thành thục về tính vào lúc 6-9 tháng tuổi. Chu kỳ động dục 16-17 ngày
(dao động từ 14-19 ngày); Thời gian chịu đực từ 24-36 giờ sau khi xuất hiện động dục;
Thời gian rụng trứng từ 24-30 giờ sau khi động dục (dao động 18-36 giờ); Thời gian
mang thai từ 145- 151 ngày. Cừu cái nhiều tuổi, thời gian chửa thường dài hơn vài
ngày so với cừu cái tơ.
2.5.3. Kỹ thuậ
t dẫn tinh cho dê, cừu
* Xác định thời điểm phối giông thích hợp
- Thời điểm phối giống thích hợp ở dê, cừu cái nằm trong khoảng thời gian chịu
đực. Đối với dê cái là 31 - 40 giờ sau khi xuất hiện động dục. Đối với cừu cái là 24-36
giờ sau khi động dục
* Chuẩn bị dụng cụ dẫn tinh, gồm: dẫn tinh quản kim loại (0,5-l,0 ml); mỏ vị
t cỡ
nhỏ (để mở âm đạo) loại thường hoặc loại có gắn bóng đèn ở đầu nhỏ
* Chuẩn bị tinh dịch: liều phối từ 0,3-0,5 ml, chứa 80-100 triệu tinh trùng hoạt
động tiến thẳng cho 1 lần phối
* Thao tác dẫn tinh:
- Cố định dê hoặc cừu cái ở giá cố định hoặc có người giữ bằng cách dùng 2 đùi
kẹp cổ, hai tay nắm chặt
ở khoeo gia súc
- Dùng mỏ vịt đã được vô trùng và bôi trơn, từ từ đưa nghiêng mỏ vịt vào âm đạo
đến gần cổ tử cung thì xoay ngang và nhẹ nhàng mở mỏ vịt. Khi nhìn rõ miệng cổ tử
cung thì đưa dẫn tinh quản vào tới nấc 2-3 của cổ tử cung, từ từ bơm tinh.
2.6. Thụ tinh nhân tạo gà

Thụ tinh nhân tạo gà được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
- Gà mái nuôi trên lồng tầng cần lấy trứng để ấp.
- Gà mái cần được phối giống theo dòng, theo cá thể, hoặc.theo gia đình để tạo
giông.
- Đánh giá chất lượng tinh dịch con trống.

2.6.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục gà mái
Cơ quan sinh dục của gà mái gồm buồng trứng, ống dẫn trứng (gồm tuyến tiế
t
lòng trắng và tuyến tiết lòng đỏ) và tận cùng là lỗ huyết (hình 5.10)
2.6.2. Dụng cụ và kỹ thuật dẫn tinh cho gà
* Dụng cụ: Dụng cụ dẫn tinh cho gà thường dùng là xi lanh thủy tinh 2-5ml có
lắp vòi dẫn tinh nhựa.
* Kỹ thuật dẫn tinh: Nếu là gà mái nuôi trên tổng tầng thì chỉ cần một người thao
tác dẫn tinh. Thông thường khi có người đến dẫn tinh, gà mái thường hay nằm xẹp
xuống và sẵn sàng cho dẫn tinh. Ng
ười dẫn tinh dùng tay trái vuốt ngược lông đuôi gà
mái lên phía trên, lúc này phần bên trong lỗ huyệt gà mái lồi ra. Trong trường hợp lỗ

146
huyệt không lồi ra, người ta có thể bóp nhẹ hai mép lỗ huyệt cho phần bên trong lỗ
huyệt gà mái lồi ra, người dẫn tinh chỉ việc cho dẫn tinh quản vào phần ổ nhớp nằm
lệch bên trái lỗ huyệt rồi bơm tinh vào. Liều dẫn từ 0,01 - 0,02 ml tinh dịch nguyên
hoặc 0,1 - 0,3 ml tinh dịch đã pha loãng. Tổng số tinh trùng cần thiết cho một liều dẫn
ở gà từ 120-150 triệu tinh trùng. Khoảng cách dẫn tinh thích hợp cho gà mái là 3 4
ngày/lần . Th
ời điểm dẫn tinh thuận lợi nhất là vào buổi chiều (16 - 18 h) khi gà mái
đã đẻ hết trứng. Để có tỷ lệ phôi cao chỉ nên thu trứng để ấp vào ngày thứ ba kể từ sau
khi dẫn tinh.
Khi áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo một con trống có thể phụ trách từ 35-45
con mái. Một người có thể dẫn tinh cho 50-70 gà mái tết trong vòng một giờ.

2.7. Thụ tinh nhân tạo ngỗng

Thụ tinh nhân tạo ngỗng có hiệu quả trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp hoặc
chăn nuôi tập trung với số lượng lớn. Kỹ thuật này rất quan trọng đối với đàn ngỗng

cao sản bởi vì tỷ lệ phôi của những ngỗng này rất thấp (quãng 20 - 30%) trong giao
phối tự nhiên. Ngoài ra, luôn luôn có một tỷ lệ ngỗng mang tính chất chọn phối (tức là
một số ngỗng đực ch
ỉ giao phối với một số con cái nhất định) mà thụ tinh nhân tạo
mới giải quyết được vấn đề này.
2.7.1. Chuẩn bị dẫn tinh cho ngỗng mái
Dẫn tinh nhân tạo cho ngỗng cái được áp dụng cho ngỗng đã đẻ một trứng hoặc
có độ rộng háng từ 5 cái trở lên. Thời điểm dẫn tinh thích hợp là sau 8 giờ sáng khi
phần lớn ngỗng cái đã đẻ trứng. Khoảng cách d
ẫn tinh thích hợp là 3 - 4 ngày/lần.
* Dụng cụ dẫn tinh
- Xi lanh 2ml có vòi dẫn l0-12cm. Vòi dẫn cần có đầu tròn nhẵn, đường kính 2-
4mm.
- Giá gỗ hoặc bàn con thấp.

147
- Găng tay ngon mỏng.
- Vazơlin đã hấp khử trùng hỗn hợp với furazolidon 2%.
- Cồn 75%.
- Hỗn hợp tinh dịch pha loãng đã được kiểm tra hoạt lực tinh trùng (A) trước và
sau khi dẫn tinh.
* Kỹ thuật dẫn tinh
Dùng lưới chắn dồn ngỗng mái vào một góc. Người giúp việc bắt ngỗng nhẹ
nhàng rồi để ngỗng nằm trên giá gỗ hoặc bàn con. Bàn tay phải của kỹ thuật viên phả
i
sạch sẽ, sát trùng bằng cồn 75
o
và đeo găng tay ngon mỏng, mềm sạch. Bôi trơn ngón
tay trỏ của bàn tay phải bằng vazơlin và đưa ngón tay này vào lỗ huyệt ngỗng cái dò
tìm ống dẫn trứng (ống dẫn trứng nằm phía bên trái vào sâu trong lỗ huyệt 1 - 2 cm).

Khi ngón tay trỏ đã nằm bên trong ống dẫn t ứng ở độ sâu 3 - 4 chỉ qua đoạn eo thắt thì
bàn tay trái đưa dẫn tinh quản dọc theo ngón tay đã nằm trong ống dẫn trứng. Khi dẫn
tinh quản ở
độ sâu 4 - 5 cm thì rút ngón tay ra một chút (khoảng 1 cho rồi bơm 0,4 -
0,6 ml tinh dịch đã pha loãng. Chú ý rút ngón tay chếch lên phía trên lỗ huyệt 30 - 35
0

để tinh dịch không chảy ra ngoài. Rút ngón tay trỏ ra trước và rút dẫn tinh quản ra sau.
Dùng ngón tay cái và ngón út bóp nhẹ lỗ huyệt, đồng thời nâng dẫn tinh quản lên trong
khoảng thời gian từ 3-5 giây.
Trong trường hợp có mặt của trứng trong ống dẫn trắng thì lách dẫn tinh quản
vào bên cạnh quả trứng rồi bơm tinh. Chú ý không nên lách dẫn tinh quản qua quả
trứng để tránh xây xát và dập vỡ trứng. Thao tác dẫn tinh cần nhẹ nhàng, nhanh để
tránh sự co bóp của ố
ng dẫn trứng và sự sợ hãi của con vật.
Người ta cổ thể ứng dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo ngỗng trong việc tạo ra con
lai giữa ngan và vịt bằng cách lấy tinh ngan đực để phối giống cho vịt cái.

×