Viêm dạ dày cấp - Vì sao?
Đột ngột xuất hiện những cơn đau vùng thượng vị với cảm giác
cồn cào, bỏng rát kèm theo buồn nôn, nôn có thể sốt cao, thậm
chí có trường hợp nôn ra máu - đây là những dấu hiệu cần
phải nghĩ đến tình trạng viêm dạ dày cấp. Bệnh nhân cần đi
khám tại các chuyên khoa tiêu hóa để được xử trí kịp thời.
Ai dễ bị viêm dạ dày cấp?
Bệnh nhân bị viêm dạ dày cấp thường có tiền sử dùng các thuốc
chống viêm, giảm đau không steroid hoặc sau ăn uống không phù
hợp, uống rượu, hút thuốc, stress kèm theo là cảm giác khó chịu
không rõ ràng vùng thượng vị; buồn nôn, nôn; chán ăn Tuy
nhiên, hầu như không có song hành giữa tình trạng bệnh và biểu
hiện lâm sàng. Trên thực tế, bệnh nhân thường được phát hiện
thông qua nội soi đường tiêu hóa trên mặc dù được chẩn đoán lâm
sàng là các bệnh lý khác có liên quan tới dạ dày. Nguyên nhân gây
nên viêm dạ dày cấp rất đa dạng, việc xác định đúng căn nguyên
để đưa ra điều trị hợp lý là vấn đề quan trọng.
Bệnh nhân thường đến viện trong tình trạng đau bụng vùng thượng
vị với cảm giác cồn cào, bỏng rát kèm theo buồn nôn, nôn có thể
sốt cao, thậm chí có trường hợp nôn ra máu. Khi hỏi bệnh thường
thấy có tiền sử bị các bệnh lý dạ dày, trước đó dùng các thuốc
chống viêm giảm đau như aspirin hoặc các NSAIDs khác, nhất là
dùng với liều cao; người khỏe có thể sau uống rượu, làm việc quá
căng thẳng, ngộ độc các chất ăn mòn, ăn thức ăn cứng khó tiêu,
nhiễm khuẩn nhiễm độc do tụ cầu Khi đó, bác sĩ sẽ chỉ định các
xét nghiệm
cần thiết để
khẳng định
chẩn đoán.
Trào ngược dạ dày thực quản cũng gây viêm dạ dày
Khi soi dạ
dày thấy có
hai dạng viêm cấp chủ yếu:
Viêm dạ dày trợt cấp: Trên nền dạ dày phù nề, xung huyết có
những vùng mất tổ chức, thường ở vùng dưới thân vị và hang vị,
đôi khi có vết nứt kẽ chạy dài, ngoằn ngoèo, dễ xuất huyết.
Viêm dạ dày cấp sưng tấy: Nổi bật là hiện tượng xung huyết, xuất
huyết, niêm mạc dạ dày đỏ rực, có tình trạng xuất tiết mạnh; có mủ
hay các chấm, mảng xuất huyết hoại tử. Ngoài ra, bác sĩ cũng làm
thêm các xét nghiệm khác để đánh giá tình trạng toàn thân và các
bệnh lý liên quan như công thức máu, chức năng gan, mật, thận,
tụy Chụp Xquang dạ dày có giá trị tham khảo, xét nghiệm tìm sự
có mặt của vi khuẩn H.P và các tác nhân khác
Đi tìm thủ phạm gây bệnh
Viêm dạ dày trợt cấp là hậu quả của sự phơi nhiễm của niêm mạc
dạ dày với các tác nhân hoặc yếu tố có hại như thuốc, rượu, dịch
cấp tính.
mật trào ngược Do tác dụng của trọng lực giải thích tại sao các
thương tổn trong dạ dày thường nằm ở vị trí bờ cong lớn, đặc biệt
trong trường hợp dùng thuốc NSAIDs, mặc dù cơ chế chủ yếu gây
tổn thương là làm giảm tổng hợp prostaglandin vì lượng chất này
giảm đi sẽ làm giảm cơ chế bảo vệ niêm mạc dạ dày.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới viêm dạ dày cấp bao gồm một số
thuốc, đặc biệt là thuốc chống viêm giảm đau không steroid như
aspirin, ibuprofen, naproxen; uống nhiều rượu; nhiễm khuẩn (vi
khuẩn, virut, nấm); trào ngược dịch mật; thiếu máu; các stress cấp
tính; dị ứng; ngộ độc thức ăn; chấn thương; các tình trạng suy chức
năng cơ quan mà cơ chế chung của thương tổn là làm mất cân
bằng giữa các yếu tố tấn công và bảo vệ duy trì trạng thái ổn định
của hàng rào niêm mạc dạ dày.
Nhiễm khuẩn cũng là nguyên nhân gây viêm dạ dày cấp, thường
gặp là xoắn khuẩn Helicobacter pylori (H.P), tần suất nhiễm H.P
tùy thuộc từng vùng địa lý, đặc biệt là những nơi có tình trạng kinh
tế kém phát triển, dường như tăng dần theo tuổi.
Viêm dạ dày cấp sưng tấy (phlegmonous) là một dạng viêm dạ dày
cấp thường gặp do các vi khuẩn như tụ cầu, liên cầu, Proteus,
Clostridium, Escherichia coli; gặp ở các bệnh nhân suy kiệt, uống
rượu nhiều, suy giảm miễn dịch. Thương tổn ở lớp sâu hơn từ hạ
niêm mạc, thậm chí tới lớp cơ niêm. Loại này thường hiếm gặp,
nếu không được xác định và điều trị phù hợp có thể dẫn tới viêm
phúc mạc, thậm chí tử vong.
Cần điều trị sớm viêm dạ dày cấp
Khi có những dấu hiệu của bệnh, người bệnh cần đi khám để được
điều trị kịp thời. Để có kết quả điều trị tốt, cần phải xác định đúng
nguyên nhân gây bệnh. Ngoài ra, bệnh nhân được điều trị triệu
chứng và các chế độ kiêng khem. Ăn uống trong giai đoạn cấp: có
thể nhịn ăn rồi chuyển sang các súp, cháo và thức ăn mềm. Nếu
nôn, có rối loạn nước và điện giải, cần chỉ định bù dịch cho phù
hợp.
Với mỗi trường hợp cụ thể, bệnh nhân cần được khám, tìm nguyên
nhân và chỉ định điều trị thích hợp thì bệnh mới mau lành và tránh
được những biến chứng nguy hiểm. Trong điều trị cần dùng các
thuốc nhóm antacids; nhóm giảm tiết acid gồm nhóm kháng
histamin H2; nhóm ức chế bơm proton Nếu xác định có vi khuẩn
H.P, cần phối hợp điều trị bằng kháng sinh. Hiện nay thường dùng
phác đồ 3 thuốc, trong đó có một loại thuốc giảm tiết với kháng
sinh kết hợp hai loại, trên lâm sàng có thể kết hợp nhóm
clarithromycin với amoxicillin hoặc metronidazole
BS. Nguyễn Trường Sơn