Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vườn Quốc Gia Tam Đảo pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 30 trang )

Bộ Tài Nguyên và Môi Trường
Trường Cao Đẳng Tài Nguyên và Môi Trường TP.Hồ Chí Minh
—o0o—
1
TP.HCM 04/ 2011
SVTH:
GVDG:
PHẠM THỊ
DIỄM
PHƯƠNG
I – VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
Vườn quốc gia Tam Đảo (VQG Tam Đảo) là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm
trọn trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10-15 km chạy theo hướng
Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên
(huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng 75km về phía
Bắc.
- Vườn Quốc Gia Tam Đảo: có diện tích 34.995 ha.
- Tọa độ địa lý :
21°21'-21°42' vĩ Bắc
105°23'-105°44' kinh Đông.
- Vườn hiện có 26.163 ha rừng; chủ yếu là rừng tự
nhiên mưa ẩm thường xanh, độ che phủ chiếm trên
70 % tổng diện tích.
II – LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ NHIỆM
VỤ VQG TAM ĐẢO :
A – Lược sử:
2
Dãy núi Tam Đảo:
Đây
là dãy núi có trên 20
đỉnh cao từ 1.000m trở


lên so với mặt nước
biển, cao nhất là đỉnh
Tam Đảo Nord 1.592m.
Địa hình ở đây có đặc
điểm là đỉnh nhọn, sườn
rất dốc, độ chia cắt sâu,
dày bởi nhiều dông phụ
Núi Tam Đảo có 3 đỉnh , khi có sương mù nhìn nổi lên
như 3 hòn đảo : đỉnh giữa có tên Bàn Thạch cao 1.388m;
bên trái là đỉnh Thiên Nhị (chợ trời) cao 1.375m, trên có
tháp truyền hình cao 93m, bên phải là đỉnh Phù Nghĩa cao
1.400m.
Thị Trấn Tam Đảo
Rừng Tam Đảo có vai trò điều tiết nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của
gần 200 ngàn người thuộc 27 xã của vùng đệm và các xã lân cận. Khu nghỉ mát Tam Đảo (thị
trấn Tam Đảo) nằm ở độ cao 900m, hàng năm thu hút hàng vạn khách du lịch trong nước và
quốc tế vào mùa hè.
Khu danh thắng Tây Thiên với nhiều đền chùa nổi tiếng là nơi gặp gỡ của hàng chục
ngàn khách thập phương đến hành hương và vãn cảnh vào mùa xuân (tháng 1 - 3 âm lịch) và
du lịch sinh thái vào mùa hè.
Chùa Trúc Lâm
Rừng Tam Đảo là kho tài nguyên quí giá, nơi lưu giữ sự đa dạng sinh học cao với rất
nhiều loài động, thực vật đặc hữu quí hiếm, là nơi dự trữ, bảo tồn và phục hồi các nguồn gen
phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, học tập cho các nhà khoa học và sinh viên trong
nước cũng như quốc tế.
Rừng Tam Đảo còn có nhiều cây thuốc quí hiếm và do vậy là nguồn dược liệu hữu ích
cho nhân dân quanh vùng.
- Ngày 24/1/1977, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 41/TTg công nhận việc thành
lập Khu rừng cấm Tam Đảo thuộc địa giới 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên
Quang với tổng diện tích 19.000 ha.

- Ngày 09/8/1986, Khu rừng cấm Tam Đảo có tên chính thức trong quyết định số
194/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về hệ thống
các khu rừng cấm của Việt Nam và giao trách nhiệm cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh có
khu rừng cấm điều tra, quy hoạch và xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật.
3
- Ngày 06/3/1996, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 136/TTg phê duyệt
Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo.
- Ngày 15/5/1996, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ra quyết định số 601-
NN.TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực thuộc Bộ.
- Đến ngày 15/6/1996, Vườn quốc gia Tam Đảo đã chính thức được thành lập với tổng
diện tích là 36.883ha, ranh giới từ độ cao 100m trở lên vòng quanh núi Tam Đảo và
trụ sở văn phòng Vườn đặt tại Km 13 (trên quốc lộ 2B từ thị xã Vĩnh Yên đi khu nghỉ
mát Tam Đảo) thuộc xã Hồ Sơn - huyện Tam Đảo - tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ngày 01/4/ 2008, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ra quyết định số 975/QĐ-
BNN-TCCB về việc chuyển giao Vườn quốc gia Tam Đảo cho Cục Kiểm lâm quản lý.
B – Nhiệm Vụ:
Vườn quốc gia Tam Đảo có các nhiệm vụ chính như sau:
− Bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng trên núi Tam Đảo.
− Bảo vệ nguồn gen các loài động, thực vật rừng quý hiếm. Đặc biệt là các loài động,
Thực vật đặc hữu và cảnh quan thiên nhiên.
− Thực hiện công tác nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và dịch vụ khoa học; tạo môi
trường tốt phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, du lịch và nghỉ mát.
− Tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục phổ cập cho nhân dân lòng yêu thiên nhiên
và ý thức bảo vệ rừng .
− Thực hiện vai trò giữ và điều tiết nước của khu vực đầu nguồn, góp phần cải thiện
môi sinh cho vùng đồng bằng, trung du bắc bộ và thủ đô Hà Nội.
− Tham gia tổ chức việc tham quan du lịch và nghỉ mát.
− Góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân trong vùng đệm
Vườn quốc gia Tam Đảo được chia thành 3 phân khu chức năng sau đây:
* Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:

+ Diện tích 17.295 ha,
+ Ranh giới: Tính từ độ cao 400 m (so với mặt nước biển) trở lên;
+ Chức năng: Bảo vệ nghiêm ngặt, cấm mọi tác động làm ảnh hưởng đến động
vật, thực vật rừng và cảnh quan thiên nhiên trong phân khu.
(Quy hoạch khu du lịch sinh thái Tam Đảo II nằm toàn bộ trong phân khu này).
* Phân khu phục hồi sinh thái:
+ Diện tích là 17.286 ha;
+ Chức năng: bảo vệ được rừng hiện có; khoanh nuôi rừng nơi còn khả năng
tái sinh tự nhiên; trồng rừng mới nơi đất trống nhằm phục hồi diện tích rừng đã
bị phá hoại và bảo vệ phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
* Phân khu nghỉ mát, du lịch:
+ Diện tích: 2.302 ha (bao gồm
cả diện tích đất thị trấn Tam Đảo )
+ Nằm ở sườn núi Tam Đảo
thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Phú
(nay là Vĩnh Phúc), bao quanh thị
trấn Tam Đảo.
+ Chức năng: Tạo điều kiện
thuân lợi để phát triển khu du lịch sinh
thái, thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước đến nghỉ ngơi và tìm hiểu
thiên nhiên Việt Nam.
4
(Trụ sở VQG Tam Đảo, xã Hồ Sơn, Huyện Tam Đảo)
III – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
A – Địa Hình:
Vườn Quốc gia Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình khối đồ
sộ, nằm ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng tây-bắc – đôngnam.Cả khối núi
có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu và dầy.
Chiều dài khối núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao sàn sàn trên 1000m được nối với

nhau bằng đường dông núi sắc, nhọn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là ranh giới địa
chính của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều ngang biến động trong
khoảng 10-15km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất dốc, bình quân 25-35 độ, nhiều
nơi trên 35 độ nên rất hiểm trở và khó đi lại.
Dựa vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dãy núi Tam Đảo thành bốn kiểu
địa hình chính:
5
Địa giới hành chính Vườn Quốc gia được giới hạn như sau:
- Phía bắc là đường quốc lộ 13A từ Thái Nguyên đi Tuyên Quang qua Đèo Khế.
- Phía đông-bắc bởi đường ô tô giáp chân núi từ xã Quân Chu đến gặp quốc lộ
13A tại xã Phú Xuyên huyện Đại Từ.
- Phía nam bởi ranh giới các huyện Tam Đảo, Mê Linh thuộc Vĩnh Phúc; Phổ Yên, Đại Từ
thuộc Thái Nguyên.
- Phía tây-nam bởi đường ô tô phía trái sông Phó Đáy nối từ Đường 13A tại xã
Kháng Nhật, qua mỏ thiếc Sơn Dương, dọc theo chân Tam Đảo gặp sông Bà Hanh tại xã
Mỹ Khê bên hồ Đại Lải.
- Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối <100m, độ dốc cấp
I (<7)o. Phân bố dưới chân núi và ven sông suối.
- Đồi cao trung bình: Độ cao tuyệt đối 100-400m. Độ dốc cấp II (8o – 15o) trở lên. Phân
bố xung quanh chân núi và tiấp giáp với đồng bằng.
- Núi thấp: Độ cao tuyệt đối 400 – 700m. Độ dốc trên cấp III (16o – 26o). Phân bố giữa
hai kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình.
- Núi trung bình: Độ cao tuyệt đối >700m – 1590m. Độ dốc >cấp III. Phân bố ở phần
trên của khối núi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
Như vậy có thể nói địa hình Tam Đảo cao và khá đều (cao ở giữa và thấp dần về
hai đầu nhưng độ chênh không rõ), chạy dài gần 80km theo hướng tây-bắc – đông-nam
nên nó như một bức bình phong chắn gió mùa đông-bắc tràn về đồng bằng và trung du
Bắc Bộ, Vì vậy ảnh hưởng lớn đến chế độ khí hậu và thủy văn trong vùng.
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo)
B – Địa Chất:

Theo tài liệu của Tổng cục Địa chất, tuổi tuyệt đối mẫu cục lấy ở khu nghỉ mát Tam
Đảo là 267 triệu năm, hơi cao hơn rionit ở dãy Phiabioc có tuổi từ 230 đến 240 triệu năm.
Như vậy rionit Tam Đảo có tuỏi Triat giáp Nori.
Ở phần phía tây của vùng (mỏ thiếc), các thể xâm nhập granit kết hợp chặt chẽ với
rionit kết tinh khá cao (giống ở dãy núi pháo Đồng Hỷ) chỉ có các đá granit chứa thiếc chắc
chắn có tuổi trẻ hơn (ở cuối chân núi xuất hiện cuội kết thuộc trầm tích kỷ Jura),
Trong quá trình phát sinh và phát triển của địa hình và lịch sử địa chất đã tạo nên một
số loại khoáng sản có nguồn gốc nội sinh như thiếc, vonfram. Hiện nay (1992) mỏ này đang
được khai thác. Diện tích mỏ lên đến hàng nghìn hecta, nằm ở phía bắc khu bảo tồn.
Nhìn chung các lọai đá này rất cứng. Thành phần khoáng vật có nhiều thạch anh,
mouscovit khó bị phong hóa và hình thành các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, cấp
hạt thô, dễ bị xói mòn và rửa trôi, nhất là những nơi có độ dốc cao hơn 35o. Đất bị xói
mòn rất mạnh để trơ lại tầng đá gốc cứng rắn. Nếu vì một lí do nào đó làm lớp phủ
rừng bị phá hoại trên lập địa này, thì dù có đầu tư cao cũng khó phục hồi lại lớp phủ
rừng như xưa.
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
Khu vực Tam Đảo 2 cấu tạo chủ yếu từ đá riolit có nhiều mạch thạch anh, bị ép
tấm và dập vỡ mạnh làm giảm độ gắn kết.
(Nguồn: Trần Nghi 2006: Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động
môitrường phục vụ Dự án xây dựng Khu Du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2).
Loại đất Diện
tích
Các đặc trưng Phân bố
6
“Vùng Tam Đảo 2” là phần đất bằng phẳng được phát hiện muộn hơn
(Tam Đảo 2) bao gồm cả phần đất ngập nước, thường xuyên hoặc tùng
thời kì (Ao Dứa) và vùng rừng cao hơn cho đến sát địa giới Vĩnh Phúc –
Thái Nguyên, kéo dài về phía đông đến quèn núi đi sang xã Ký Phú
(huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Vùng này được người dân gọi là Rừng ma
ao dứa.

1. Đất feralit
mùn vàng nhạt
trên núi trung
bình
8968 ha
17,1%
Phát triển trên đá mácma axit kết tinh
chua riolit, dacit, granit. Tầng đất rất
mỏng. Tầng mùn và thảm mục khá dày
và chỉ xuất hiện nơi có đọ dốc nhỏ. Nơi độ
dốc lớn tầng đất bị xói mòn trơ lại đá gốc.
Phân bố từ độ cao
700- 1600m. Chiếm
hầu hết các đỉnh của
dãy Tam Đảo.
2. Đất feralit có
mùn vàng đỏ
trên núi thấp
9292 ha
17,8%
Phát triển trên đá kết tinh chua. Tầng
đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, Tầng
mùn mỏng hoặc không còn vì bị xói mòn.
Tầng đá lộ đầu trên 75%.
Phân bố xung quanh
sườn Tam Đảo ở độ
cao 400-700m.
3. Đất feralit đỏ
vàng phát triển
trên vùng đồi

24641 ha
47,0%
Đất feralit điển hình vùng đồi, phát triển
trên nhiều loại đá mẹ khác nhau. Do lớp
thực bì bị mất nhưng độ dốc thấp nên
tầng đất có dày hơn hai loại đất trên. Đất
ít đá nổi đá lẫn. Thành phần cơ giới trung
bình đến nặng
Phân bố trên các đồi
cao và trung bình, cao
100- 400m xung
quanh dãy núi Tam
Đảo.
4. Đất phù sa
và bồi tụ sông
suối
9794 ha
18,1%
Đất phù sa và dốc tụ do sông suối và
sườn tích, mầu nâu đen, tầng dày. Thành
phần cơ giới trung bình, mầu mỡ, độ ẩm
cao. Đã được sử dụng để trồng lúa và hoa
màu.
Phân bố trong các
thung lũng hẹp giữa
núi và ven các sông
suối lớn.
((Đặc trưng các loại đất VQG Tam Đảo)
(Nguồn: FIPI, 1992: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo).
C – Khí Hậu:

Dãy Tam Đảo là dãy núi lớn, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng và có sự phân hóa
theo độ cao rất đa dạng, vì vậy khái quát hóa các đặc trưng khí hậu toàn vùng không phải là
vấn đề đơn giản. Nhưng dựa trên các số liệu khí tượng của trạm Tam Đảo và các trạm xung
quanh (Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Đại Từ) các nhà nghiên cứu có thể để đưa ra các nhận định
khái quát cho toàn vùng như sau:
7
(Số liệu khí tượng của các trạm trong vùng)
- Nhiệt độ không khí: Bình quân nhiều năm khoảng 18,3oC, nhiệt độ không khí trung
bình cao nhất nhiều năm là 21,4oC. nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất nhiều năm
là 16,4oC. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối là 33,4oC, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 0oC.
Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá lớn, khoảng 10-15oC.
- Lượng mưa năm: Trung bình nhiều năm là 2355mm, cao hơn nhiều so với lượng
mưa bình quân cả nước (1960mm/năm) và của tỉnh Vĩnh Phúc (1500-1800mm/năm).
Lượng mưa ngày lớn nhất đạt 318,6mm. Bình quân hàng năm có khoảng 203 ngày
mưa, tập trung chủ yếu trong tháng 6. Mùa mưa ở Tam Đảo kéo dài hơn so với các nơi
khác của tình Vĩnh Phúc (5 tháng). Mỗi năm xuất hiện bình quân 60 ngày có dông.
Một vài năm còn xuất hiện hiện tượng mưa đá.
- Độ ẩm: Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm là 87,7%; độ ẩm tương đối trung bình
thấp nhất bình quân nhiều năm là 76,2%; độ ẩm tương đối thấp nhất tuyệt đối là 6%.
Độ ẩm tuyệt đối trung bình là 19,1%.
- Sương mù: Hàng năm bình quân có 118 ngày có hiện tượng sương mù.
- Số giờ nắng: Một năm bình quân có 1212 giờ.
- Tổng lượng bốc hơi: Bình quân nhiều năm là 512mm, là khá thấp so với bình quân
bốc hơi toàn quốc.
- Tốc độ gió: Bình quân là 3,0m/s; tốc độ gió cực đại đến 30m/s. Nhìn chung các đặc
trưng khí hậu Tam Đảo 2 tương tự khu Tam Đảo 1. Sự khác nhau chút ít về nền nhiệt
độ và độ ẩm là do mức cao địa hình gây nên.
(Nguồn: Đặng Trung Thuận 2006: Báo cáo đánh giá tác động môi
trường sơ bộ Dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vũng Tam Đảo 2).
8

Tam Đảo 1 là vùng được phát hiện
đầu tiên và người Pháp đã xây dựng
ngay vào đầu thế kỉ trước thành
Khu nghỉ mát, sau này được gọi là
Thị trấn Tam Đảo.
(Thị Trấn Tam Đảo quanh năm bao phủ bởi mây)
D – Thủy Văn:
Trong khu vực có hai hệ thống sông chính, đó là sông Phó Đáy ở phía tây (Tuyên
Quang, Vĩnh Phúc) và sông Công ở phía đông (Thái Nguyên). Đường phân thủy rõ rệt nhất
của hai hệ thống sông này là đường dông nối các đỉnh núi suốt từ Mỹ Khê ở cực nam đến
Đèo Khế ở điểm cực bắc.
Mạng lưới sông suối hai sườn Tam Đảo dồn xuống hai hệ thống sông này có
dạng chân rết khá dày đặc và ngắn, có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân
núi. Từ chân núi trở đi sông lại có dạng uốn khúc phức tạp trên mặt cánh đồng khá
bằng phẳng, tương ứng với dạng địa hình đã tạo ra nó.
Mật độ sông suối khá dày (trên 2km/km2), các suối có thung lũng hẹp, đáy nhiều
ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém, chúng là kết quả của quá trình xâm
thực.
Do đặc điểm khí hậu mưa lớn, mùa mưa dài, lượng bốc hơi ít (ở đỉnh Tam Đảo)
nên cán cân nước dư thừa. Đó là nguyên nhân làm cho các dòng chảy từ đỉnh Tam Đảo
xuống có nước quanh năm.
Nhưng chế độ thủy văn lại chia thành hai mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn.
Mùa lũ trùng với mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau. Lũ lớn thường xảy ra vào tháng 8, lũ thường tập trung nhanh và rút cũng
nhanh. Sự phân phối dòng chảy rất không đều giữa hai mùa (xem bảng)
(Sự phân phối dòng chảy theo mùa của hai hệ thống sông)
Như vậy lưu vực sông Phó Đáy lớn hơn sông Công và tổng lượng nước chảy cũng lớn
hơn sông Công. Độ chênh lệch lượng nước chảy mùa lũ và mùa cạn cũng rất lớn. Mô đun
dòng chảy các mùa cũng thay đổi rất đáng kể.
(Mô đun dòng chảy hai hệ thống sông Phó Đáy và sông Công)

- Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tuyệt đối là 331m3/s, so với lưu lượng nhỏ nhất tuyệt
đối 3,7m3/s thì lớn gấp 90 lần.
- Độ đục lớn nhất 541g/m3, gấp 100 lần độ đục nhỏ nhất.
- Lượng bùn cát lơ lửng 3,2kg/s với tổng lượng bùn cát là 101.000T/năm
- Môđun xâm thực trên sông Phó Đáy tới 84,8T/km2.
9
Modun dòng chảy: Lưu lượng
nước sinh ra trung bình trên một
đơn vị diện tích lưu vực trong đơn
vị thời gian 1 giây (s). Đơn vị tính
là l/s.km
2
(đối với lượng dòng chảy
năm hay lượng dòng chảy mùa)
hay m
3
/s.km
2
(đối với dòng chảy
lũ). Ở Việt Nam, MDC năm lớn nhất
đạt tới 70 - 80 l/s.km
2
(lưu vực
sông Tả Trạch), nhỏ nhất chỉ đạt 5
Dòng chảy mùa cạn do không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho sông hoàn toàn là
do nước ngầm (phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa phùn mùa đông). Cả
hai sông đều có dòng chảy rất nhỏ. Như vậy khả năng cung cấp
nước cho mùa đông là rất hạn chế.
Các dòng sông suối trong vùng không có khả năng vận chuyển thủy, chỉ có thể dùng
làm nguồn thủy điện nhỏ cho từng gia đình dưới chân núi.

Trong vùng cũng có những hồ chứa cỡ lớn như Hồ Núi Cốc, Hồ Đại Lải, các hồ cỡ
trung bình hoặc nhỏ như Hồ Xạ Hương, Khôi kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai, Hồ Sơn,…Đó là
nguồn dự trữ nước khá phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất của nhân dân trong
vùng.
(Nguồn: FIPI, 1992, 1995: Báo cáo Lập địa Khu Bảo tồn thiên
nhiên Tam Đảo+Luận chứng khả thi xây dựng VQG Tam Đảo).
IV – ĐA DẠNG SINH HỌC:
Đa dạng sinh học là giá trị to lớn đã đưa Tam Đảo thành một trong các địa danh nổi
tiếng được cả thế giới biết đến trong nghiên cứu sinh học…
Khu hệ động thực vật Vườn Quốc gia Tam Đảo rất giàu loài và có sức cuốn hút mạnh
mẽ đối với các nhà nghiên cứu trong nước cũng như quốc tế. Rất nhiều nghiên cứu về động
thực vật Tam Đảo đã được tiến hành từ đầu thế kỷ 20, cho đến nay vẫn được lại đi lặp lại liên
tục, nhiều loài mới vẫn còn được phát hiện.
A – Động Vật Xương Sống:
A.1: Lưỡng cư:
Lưỡng cư là nhóm động vật đặc sắc đối với Vườn quốc gia Tam Đảo. Loài động
vật đặc hữu hẹp, chỉ của Tam Đảo là loài Sa dông (Cá cóc Tam Đảo) đã được phát hiện
từ năm 1934, là biểu trưng được thể hiện trên logo của Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Trong phạm vi dãy núi Tam Đảo Cá cóc sống chủ yếu trong các suối nhỏ trong
vùng rừng tự nhiên ở sườn tây, suốt từ Xã
Kháng Nhật (Sơn Dương, Tuyên Quang)
đến xã Hồ Sơn, Thị trấn Tam Đảo, ở độ cao từ
500m trở lên tới 1200m. Vùng trũng ở Tam Đảo 2
cũng gặp loài này. Phần lớn các loài khác gặp được chủ yếu ở vùng thấp dưới 900m. Số
lượng loài Lưỡng cư được ghi nhận tại Vườn Quốc gia Tam Đảo ngày càng tăng. Khi lập Dự
án khả thi xây dựng VQG Tam Đảo (1992-1995) mới chỉ biết đến 19 loài thuộc 7 họ, 2 bộ;
1993 Nguyễn Văn Sáng đã phát hiện tới 27 loài, và hiện nay đã lên tới 57 loài thuộc 8 họ, 3
bộ (Lê Vũ Khôi 2006). Điều này có thể hứa hẹn rằng vẫn còn khả năng phát hiện thêm các
loài mới thuộc nhóm động vật này, nhất là ở các sinh cảnh trên độ cao như vùng Ao Dứa
(Tam Đảo 2), vùng này thực ra vẫn còn rất ít được quan tâm.

Vùng Tam Đảo 2, theo các số liệu của Lê Vũ Khôi (2006) thì; Tam Đảo 2 có các đại
diện thuộc cả 3 bộ Ếch nhái: không chân, có đuôi và không /đuôi. Có 7/8 họ có mặt ở Tam
Đảo.
Tỷ lệ số loài của một số họ có ở Tam Đảo 2 so với số loài trong toàn vùng như sau:
10
Cá cóc Tam Đảo
- Họ Cá cóc (Salamandridae) 1/1 loài, họ Ếch giun (Ichthyophidae) 1/1 loài, họ Ếch
nhái (Ranidae) có 12/20 loài, họ Ếch cây (Rhacophoridae) có 7/15, họ Cóc bùn
(Megophryidae) có 7/10 loài, họ Nhái bén (Hylidae) có 3/3 loài và họ Cóc (Bufonidae) có 1 /
2 loài. (tổng cộng của 5 họ trên là 30/50 loài = 60% số loài của các 5 họ trên).
- Hai loài đặc hữu hẹp cho Tam Đảo là Cá cóc bụng hoa (Cá cóc Tam Đảo,
Paramesotriton deloustali) và Ếch giun (Ichthyophis bananicus) đều có ở Tam Đảo 2. Ngoài
ra còn có 6 loài đặc hữu rộng cho Việt Nam. Như vậy tổng số các loài đặc hữu là 8.
(Nguồn: Lê Vũ Khôi 2006: Khu hệ Lưỡng cư, đánh giá những giá trị bảo tồn tại Khu vực Tam Đảo 2 )
Loài đại diện tiêu biểu:
ẾCH GIUN
Ichthyophis bannanicus Yang,1984
Ichtyophis glutinosus (Linnaeus,1754)
Coecilia glutinosa Linnaeus, 1754
Họ: loài ếch giun Coecilidae
Bộ: Không chân Gymnophiona
Mô tả:
Loài ếch giun có cơ thể hình giun song cỡ lớn hơn. Chúng khác giun ở chỗ:
Đầu có mắt như hai chấm đen. Đầu nhỏ hơi dẹp, mõm tương đôí nhọn và có hàm rõ.
Lưng ếch giun có màu đỏ xám, bụng nhạt hơn. Phần giữa lưng và bụng có một dải
màu trắng đục hay vàng chạy dài từ góc hàm tới góc đuôi. Chiều dài cơ thể ếch giun
có thể tới 100mm.
Sinh học:
o Loài ếch giun ăn giun đất. Chúng đẻ trứng ở gần chỗ có nước. Số lượng trứng
trong một lứa có chừng 20 quả được nối với nhau bằng chất nhày và cá thể cái

cuốn lấy để bảo vệ trứng khỏi khô mà người ta thường gọi không đúng là hiện
tượng “ấp trứng”.
Nơi sống và sinh thái:
o Loài ếch giun thường sống ở những nơi có độ cao có thể lên tới 900 - 1000 như
ở dãy Tam Đảo. Chúng sống chui luồn trong đất, hang chúng ở thường gặp ở
những nơi đất xốp sâu khoảng từ 20 - 30cm gần ao hồ.
11
Họ Ếc h Giun
Phân bố:
o Việt nam: Thái nguyên (chân núi Tam Đảo), Vĩnh phú (Tam Đảo, độ cao
900m), Kontum (Tân Cảnh), Gia Lai (SơKlang), Đắc Lắc (Yookdon), Tây Ninh
(Tây Ninh), Kiên Giang (Hà Tiên), Cà Mau (rừng tràm U Minh).
o Thế giới: Ấn Độ: Xirillanca, Thái Lan, Lào, Malaixia, Inđônêxia.
Giá trị:
o Ếch giun có giá trị thẩm mỹ và khoa học.
Tình trạng:
o Số lượng ít.Mức độ đe doạ: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ: Cấm săn bắt.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam trang 227.
( Theo />Loài đại diện chính cho Tam Đảo:

CÓC
TAM
ĐẢO
Paramesotriton deloustali (Bourret,19340)
Mesotriton deloustali (Bourret, 1934)
Họ: Cá
cóc
Salamandridae
Bộ: Có đuôi Caudata

Lớp: Lưỡng cư
Mô tả:
Cá cóc Tam Đảo có cơ thể dài giống như thằn lằn, chúng có đuôi đẹp và da
thiếu vảy. Trên da cá cóc Tam Đảo có nhiều mụi xù xì và tiết chất nhầy, những mụn
cóc này thường làm thành dãy dọc sống lưng kéo dài tới đuôi. lưng cá cóc Tam Đảo
có màu đen. Bụng màu đỏ có những đường xám đen nối với nhau tạo thành hình mạng
vân đỏ. Chiều dài cá cóc Tam Đảo khoảng 144 - 206, 5mm.
Sinh học:
o Cá cóc Tam Đảo ăn sâu bọ, nhện giun, nòng nọc, ếch nhái con và rong rêu.
chúng giao phối vào tháng 3 - 4 bằng cách cuốn đuôi và ép lỗ sinh dục vào
nhau.
12
Nơi sống và sinh thái:
o Cá cóc Tam Đảo sống ở các suối chảy chậm và hồ nước ở vùng núi vườn quốc
gia Tam Đảo. chúng ưa sống ở những vực nước sâu và trong. Chúng hoạt động
và kiếm ăn ban ngày.
Phân bố:
o Việt Nam: Bắc Thái (chân núi Tam Đảo), Vĩnh Phú (Tam Đảo, độ cao 900m).
o Thế giới: Chưa có số liệu.
Giá trị:
o Cá cóc Tam Đảo là loài đặc hữu ở Việt Nam. Có giá trị khoa học và thẩm mỹ.
Tình trạng:
o Chỉ gặp cá cóc Tam Đảo ở vùng núi Tam Đảo và hiện nay với số lượng ít. Mức
độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ: Cấm săn bắt, cần tổ chức nuôi.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam trang 226.
(Theo />Hiện trạng: Cá Cóc hiện này trong tự nhiên rất hiểm, có nguy cơ bị tuyệt
chủng. Nhưng các nhà khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã thành công thử
nghiệm nuôi và cho đẻ tại một trường nuôi giống cá cóc Tam Đảo. và các nhà khoa
học hiện đang tiến hành đưa cá cóc con nuôi thử nghiệm trong môi trường bán tự

nhiên tại các suối, hồ vùng núi Tam Đảo, giúp chúng thích nghi dần với điều kiện môi
trường sống tự nhiên…Với thành công này, cá cóc có thể ra khỏi Sách Đỏ trong tương
lai gần…
A.2: Bò sát:
Nhóm động vật này rất được quan tâm trong công tác bảo tồn vì Rùa là một trong số
các động vật là nạn nhân của nạn buôn bản động vật hoang dã qua biên giới. Tính đa dạng
các loài bò sát VQG Tam Đảo đứng vào loại thứ hai trong các động vật có xương sống của
Vườn, hiện nay đã phát hiện còn tồn tại tới 124 loài thuộc 16 họ, 2 bộ. Con số này cũng cao
hơn so với khi mới thành lập Vườn (1995), khi ấy chỉ biết được 46 loài thuộc 13 họ, 2 bộ. Sự
tăng số lượng này chắc chắn là do mức độ nghiên cứu sâu hơn và sự duy trì của các sinh
cảnh sống đặc trưng của chúng trong VQG. Trong số các loài thống kê được có đến 3 loài
đặc hữu, 23 loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam và 12 loài được ghi trong Danh lục
đỏ IUCN.
Khu vực Tam Đảo 2, chỉ chiếm khoảng chưa đến 1% (0,813%) tổng diện tích của
toàn bộ VQG Tam Đảo, 1,7346% diên tích vùng bảo vệ nghêm ngặt (320/17295=1,7346%)
nhưng ở đây chứa đựng được số loài Bò sát chiếm tới 83/124 (66,93%) tổng số loài Bò sát ở
VQG, 11/16 họ (68,75%). Số loài quý hiếm và có giá trị bảo tồn cũng rất cao: 3/3 loài đặc
hữu VN, 8/24 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam; 6/12 loài ghi trong Danh lục đỏ IUCN.
(Nguồn: Lê Vũ Khôi 2006: Khu hệ Bò sát, đánh giá những giá trị bảo tồn tại Khu vực Tam Đảo 2)
Loài đại diện tiêu biểu:
RÙA SA NHÂN
Pyxidea mouhoti (Gray, 1862)
Cyclemys mouhoti Gray, 1862
Họ: Rùa đầm Emydidae
Bộ: Rùa Testudinata

13

Mô tả
o Loài rùa cỡ trung bình này có mai dài 18cm, lưng phẳng có 3 gờ nổi rõ (nhưng

không có vệt xám đen).1 gờ ở giữa lưng. 2 gờ chạy dọc từ tấm vẩy 1 đến 4 trên
mai. Mai màu vàng hoặc nâu sáng; bờ sau mai có riềm răng cưa. Con đực đuôi
dài và dầy hơn con cái
Sinh học:
o Tuy chưa có số liệu về sinh sản của loài này nhưng thức ăn chính của chúng
được biết đến là thực vật (cỏ). thích ăn nhất là giun đất .
Nơi sống và sinh thái:
o Loài này sống trong rừng, thường ẩn mình dưới các lớp lá mục, cỏ khô, gỗ
mục
Phân bố:
o Việt Nam: Lào Cai (Bảo Hà), Bắc Thái (Thái Nguyên), Vĩnh Phú (Tam Đảo),
Hà Tây (Ba Vì) Hoà Bình, Hà Bắc,Ninh Bình, Thanh Hoá (Quan Hoá), Nghệ
An (Tân Kỳ)Thế giới: Đông ấn Độ, Trung Quốc, Lào.
Tài liệu dẫn: Nhận dạng động vật hoang dã bị buôn bán - trang 35. Danh lục bò
sát và ếch nhái Việt Nam trang 169.
(Theo: /> A.3: Chim:
Chim là nhóm đa dạng nhất trong các động
vật có xương sống ở VQG hiện nay đã phát hiện
được 186 loài thuộc 45 họ, 17 bộ (Lê Vũ Khôi,
2006). Các họ nhiều loài nhất là họ Khướu
(Tamaliidae), họ Chích chòe (Turdidae), họ Chim
chích (Sylviidae), họ Chào mào (Pycnonoidae).
Nhưng đáng chú ý nhất là họ Gà lôi
(Phasianidae), họ này có đến 5 lòai được ghi nhận
tại Tam Đảo, trong đó có những loài quý và đẹp như Gà lôi trắng (Lophura nychthemera), Gà
tiền (Polyplecton bicalcaratum). Sự hiểu biết về tính đa dạng các loài chim Tam Đảo cũng
tăng dần theo các hoạt động nghiên cứu bảo tồn tại VQG. Căn cứ vào Dự án khả thi xây
dựng VQG, lúc đó mới chỉ ghi nhận được 158 loài thuộc 43 họ, 15 bộ với 7 loài có giá trị
bảo tồn, thì hiện nay đã lên tới 186 loài, 45 họ, 17 bộ và 8 loài có giá trị bảo tồn ở các cấp
trạng thái khác nhau. Ở vùng Dự án Tam Đảo 2 đã ghi nhận được 135 loài, 38 giống, 13 bộ

đạt 72,58% số loài, 84,44% số họ và 76,47% số bộ so với toàn bộ VQG Tam Đảo. Số loài
quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam cũng rất cao (7/8=87.5%) so với toàn VQG. Các
loài có giá trị bảo tồn được ghi nhận là:
14
Gà tiền (Polyplecton bicalcaratum)
Gà lôi trắng (Trĩ bạc, Lophura nychthemera, E), Gà tiền (Polyplecton bicalcaratum,
E), Dù dì phương đông (Ketupa zeulanensis, T), Cú hoang cổ (Otus bakkimoena, V), Niệc
hung (Pyilolaemus tickelli, T), Ác là (Pica pica, V), Chim khách (Kitta formosae, R).
(Nguồn: Lê Vũ Khôi, 2006: Tính đặc hữu địa-động vật,
đánh giá những giá trị bảo tồn tại Khu vực Tam Đảo 2)

15
Niệc Nâu
Họ: Hồng hoàng Bucerotidae Bộ: Sả
Coraciiformes
DÙ DÌ PHƯƠNG ĐÔNG
Họ: Cú mèo Strigidae - Bộ: Cú Strigiformes
Loài đại diện tiêu biểu:
GÀ LÔI TRẮNG
Lophura nycthemera beaulieui Delacour, l948.
Họ: Trĩ Phasianidae
Bộ: Gà Galliformes
Chim đực trưởng thành:
o Nhìn chung giống như phân loài Lophura nycthemera nycthemera, nhưng
khác ở chỗ L. n beaulieui có đuôi ngắn hơn một chút: những vạch đen ở phần
trên cơ thể nhiều hơn và rộng hơn những vạch đen ở cánh và bên cạnh đuôi rất
rõ và đậm nét hơn.
Chim cái:
o Nhìn chung cũng giống chim cái của phân loài Lophura
nycthemera nycthemera, nhưng ngực có lẫn màu trắng hungvới màu nâu đen

rất rõ. Các lông cánh sơ cấp, thứ cấp và lông đuôi giữa có vân mảnh, các lông
đuôi khác có điểm và vạch đen nâu và trắng.
Kích thước:
o Cánh (đực): 256 - 302, (cái): 200 - 270; đuôi: 458 - 635; giò. 95 - 103; mỏ: 25 -
33 mm.
Phân bố:
o Phân loài gà lôi trắng này phân bố ở Đông nam Vân Nam (Trung Quốc), Bắc
Lào, Tây Bắc Việt Nam về phía Nam đến Hà Tĩnh. Đã tìm thấy Loài này ở Lai
Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, Thanh Hóa và Nghệ An.
Tài liệu dẫn: Chim Việt Nam hình thái và phân loại - Võ Qúi - tập 1 trang 237.
(Theo: />A.4: Thú:
Thú là nhóm động vật được quan tâm nhiều nhất trong công tác bảo tồn ở
nước ta cũng như trên thế giới, đã hình thành nhiều khu bảo tồn loài cho nhóm động
vật này. Đây là nhóm động vật bị tổn thương mạnh nhất do các tác động của con
người vào môi trường. Những nghiên cứu giám sát sự phát triển của nhóm động vật
16
này đã được đặc biệt chú ý ở VQG Tam Đảo. Kết quả mới nhất của những nghiên cứu
theo hướng này cho biết hiện nay ở VQG Tam Đảo đang sinh sống 77 loài thuộc
24 họ và 8 bộ (Nguyễn Xuân Đăng và
cs, 9/2006), theo đó bộ Dơi
(Chiroptera) có số loài cao nhất (25
loài), tiếp đến là các bộ Gặm nhấm
(Rodentia) – 18 loài, Khỉ hầu
(Primates) – 5 loài, Guốc chẵn
(Artiodactyla) – 5 loài, Ăn sâu bọ
(Insectivora) – 2 loài; Nhiều răng
(Scandentia) và Tê tê (Pholidota) -
mỗi bộ 1 loài. Các số liệu này lại
cũng nhiều hơn so với nhiều tác giả
trước như Dự án khả thi (1995, với 58

loài, 21 họ, 7 bộ), Cao Văn Sung (1998 với 67 loài), Trần Ninh (2005 với 70 loài, 25
họ, 8 bộ), Lê Vũ Khôi (2006 với 72 loái, 25 họ, 7 bộ); mặc dù đã đưa ra khỏi danh
sách một số loài bị coi là không còn tồn tại ở VQG như Vượn đen tuyền (Nomascus
concolor), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), Hổ (Panthera tigris), Báo hoa
mai (Panthera pardus), Báo gấm (Pardofelis nebulosa), Sói đỏ (Cuon alpinus), Cầy
mực (Artictis binturong) và Rái cá thường (Lutra lutra) (Nguyến Xuân Đặng, 9/2006).
Các loài thú đặc sắc ở VQG Tam Đảo là Voọc đen má trắng (Trachypithecus
francoisi), , Nai (Cervus unicolor), Cheo cheo (Tragulus javanicus),…
Tại Khu vực Tam Đảo 2, những thông tin của Lê Vũ Khôi (2006) về thú cho
biết:
- Khu vưc Tam Đảo 2, có 38 loài thuộc 23 họ, 7 bộ, chiếm 46,9% khu hệ thú
VQG Tam Đảo. Trong đó, ở khu vực dự định xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch và dịch
vụ sinh thái Tam Đảo 2 (50ha) chỉ tìm thấy 25 loài thú nhỏ và 1 loài Cu li (Tỉ lệ
26/70=37,1%).
- Trong 38 loài thú được ghi nhận ở Tam Đảo 2, có 13 loài nguy cấp cần ưu
tiên bảo vệ. (Nếu so sánh con số này với 23 loài thú có giá trị bảo tồn của toàn bộ
VQG thì tỉ lệ không nhỏ, 13/23=56,5% (!)).
17
Nai (Cervus unicolor)
Loài đại diện tiêu biểu:
VOỌC ĐEN MÁ TRẮNG
Trachypithecus francoisi
francoisi (Pousargues,1898)
Semmopithecus francoisi Pousargues, 1898
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Mô tả:
- Bộ lông mầu đen tuyền. Trên má có vệt lông
màu trắng kéo dài quá tai như voọc mông
trắng. Đỉnh đầu có mào lông đen. Đuôi lông

màu đen, không xù xì.
Sinh học:
- Thức ăn chồi non, lá cây và rất ít quả cây
rừng. Đẻ 1 con. Trọng lượng con sơ sinh 300 - 320g, non yếu, có bộ lông màu vàng.
Đẻ xong, mẹ theo đàn đI kiếm ăn để lại con non trong hang nên thường bị thú ăn thịt,
rắn gây hại. Con non được 3 - 4 tháng tuổi có thể ôm ngang ngực mẹ và đem theo khi
kiếm ăn.
Nơi sống và sinh thái:
- Sống trên những vách núi đá vôi ở độ cao không lớn có nhiều cây gỗ và dây leo. Mùa
hè, đêm ngủ trên vách đá hoặc tán cây, mùa đông ngủ trong hang sâu kín gió. Cửa
hang thường tránh hướng đông bắc. Sống đàn, con đực trưởng thành làm đầu đàn với
3 - 4 con cái và con non. Mỗi đàn có vùng lãnh thổ hoạt đông riêng không xâm phạm
lẫn nhau, chúng có thể sống ôn hòa với các loài khỉ khác.
Phân bố:
- Việt Nam: Tuyên Quang (Nà Hang, Chiêm Hóa), Cao Bằng (Ba Bể và các huyện phía
tây bắc), Lạng Sơn, Quảng Ninh.
- Thế giới: Trung Quốc (Quảng Tây).
Giá trị:
18
Báo lửa (Catopuma temminskii)
Cheo cheo (Tragulus javanicus)
- Có giá trị về khoa học vì chủng quần của chúng trên thế giới không lớn.
Tình trạng:
- Trước đây có thể gặp chúng dễ dàng ở các vùng phụ cận hồ Ba Bể với số lượng đáng
kể, đến nay đã trở nên hiếm. Năm 1989 có 3 con bị săn bắn ở hồ Ba Bể. Nghiên cứu
khảo sát vào tháng 8/1989 chúng tôi quan sát được chúng ngoài thiên nhiên ở hồ Ba
Bể. Nhưng nơi có voọc đen má trắng phân bố, rừng đã bị tàn phá không còn đủ điều
kiện sống cho chúng. Mức độ đe dọa: bậc V.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam trang 40.
(Theo: />B: Côn Trùng:

Côn trùng là nhóm động vật không xương sống quan trọng và được quan tâm
nhiều đối với VQG Tam Đảo. Rất nhiều loài côn trùng Tam Đảo đã được sưu tập,
phân loại và công bố từ trước những năm 1940 và trở nên quý hiếm đối với nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều nhà sưu tầm, nhiều bảo tàng động vật và vì vậy trở thành đối tượng
bị đánh bắt, buôn bán trái phép trong nhiều năm tại Tam Đảo.
Những nghiên cứu gần đây cho biết khu hệ côn trùng VQG Tam Đảo hiện đã
biết 586 loài thuộc 333 giống, 36 họ, 6 bộ.
Số lượng loài trong các họ, bộ côn trùng VQG Tam Đảo
19
(Nguồn: Trần Ninh, 2005: Bảo tồn nguồn gen một số loài động thực vật quý hiếm ở Vườn
Quốc gia Tam Đảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và du lịch sinh thái)
Trong số các bộ côn trùng đã nêu trên, bộ Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Cánh
vảy (Lepidoptera) có số lượng loài nhiều nhất (224=38,3% cho Coleoptera và
192=32,87% cho Lepidoptera), tiếp đến là bộ Cánh khác (Heteroptera) 85 loài =
14,7%. Các bộ còn lại: Cánh thẳng (Ortoptera), Cánh giống (Homoptera), Cánh đều
(Isoptera) có số lượng loài ít (28, 16 và 38 loài tương ứng với 4,8%; 2,7% và 6,5% so
với tổng số loài toàn nhóm.)
Phân tích chỉ số đa dạng giống/họ thì vai trò của hai bộ cánh cứng và Cánh vẩy
cũng chiếm ưu thế trong khu hệ côn trùng Tam Đảo.
Tính đa dạng của các bộ côn trùng của VQG Tam Đảo
20
Trong một nghiên cứu khác chuyên về Bướm (Bộ Cánh vẩy - Lepidoptera) ở
VQG Tam Đảo; Monatyrski A.L., đã ghi nhận được đến 293 loài thuộc 10 họ:
Papilionidae (36 loài), Pieridae (25 loài), Danaidae (14 loài), Satyridae (36 loài),
Amathusidae (10 loài), Nymphalidae (57 loài), Libytheidae (1 loài), Riodinidae (6
loài), Lycaenidae (32 loài) và Hesperidae (66 loài).
Theo nghiên cứu này đã có tới 6 loài và 2 phân loài mới cho khoa học, 22 loài
được ghi nhận lần đầu tiên cho Việt Nam, ít nhất 3 loài được ghi nhận là mới cho miền
BắcViệt Nam.
(Nguồn: A.L.Monastyrskii, Vũ Văn Liên, Bùi Xuân Phương 2005: Khu hệ BướmVườn Quốc gia Tam Đảo).

Như vậy, số loài côn trùng VQG Tam Đảo đã lên tới gần 700 loài, trên 30 loài
mới bổ sung cho VQG Tam Đảo (8 loài và phân loài mới cho khoa học + 22 loài mới
cho Việt Nam + ít nhất 3 loài mới cho Miền Bắc).
Trong một thời gian rất dài, nhất là trước những năm 2003, tình trạng đánh bắt
và buôn bán côn trùng ở Tam Đảo tập trung chủ yếu vào hai bộ Cánh cứng
(Coleoptera,vd. Cua bay) và Cánh vẩy (Lepidoptera, vd. Bướm phượng 6 kiếm) cũng
vì giá trị đa dạng sinh học lớn của các bộ này tai VQG này.
Cua bay (Cherotonus sp.) Bướm phượng (Teinopalpusimperialis)
C – Thực Vật:
21
Khảo sát đã thống kê ở VQG Tam Đảo có đến 1436 loài thuộc 741 chi, 219 họ,
6 ngành thực vật bậc cao:
Số loài của các ngành thuộc phân giới thực vật bậc cao
Trong đó ngành Mộc Lan (Magnoliophyta) có số loài nhiểu nhất (1149 loài,
chiếm tỷ lệ 80,01%), ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) có số loài ít nhất (1 loài,
chiếm tỷ lệ 0,07%). Ngành Rêu (Bryophyta) phân bố khá phổ biến trong các vùng
thiên nhiên ẩm ướt, thường xuyên có mây mù che phủ như vùng cao của dẫy Tam
Đảo, nhưng dến nay là lần đầu itên được đưa vào danh lục của VQG Tam Đảo.
Trong số các loài thực vật của VQG Tam Đảo có 68 loài đặc hữu và 58 loài quý
hiếm được ghi vào Sách đỏ Việt Nam , Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3
năm 2006, hoặc Danh lục đỏ của IUCN cần được bảo tồn và bảo vệ.
(Nguồn: Trần Ninh, 2005: Bảo tồn nguồn gen một số loài động thực vật quý hiếm ở
Vườn Quốc gia Tam Đảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và du lịch sinh thái).
Theo kết quả điều tra cho thấy ở Tam Đảo có 8 loại rừng và thực bì khác nhau,
mà mỗi kiểu rừng đó thường đại diện cho một loại hình lập địa và tương ứng có một
tổ thành loài cây nhất định như:
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới: kiểu rừng này bao phủ phần lớn
dãy núi Tam Đảo và phân bố ở độ cao dưới 800m, với nhiều tầng tán và những loài
cây có giá trị kinh tế như: Chò chỉ (Shorea chinensis), Giổi (Michelia sp), Re
(Cinamomum iners), Trường Mật (Paviesia annamensis) …

22
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp: Kiểu rừng này phân
bố từ độ cao 800m trở lên và trong quần hệ thực vật của kiểu rừng này không còn các
loài thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae). Thực vật ở đây gồm các loài trong họ Re
(Lauraceae), Họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Mộc Lan (Magnoliaceae), họ
Sau Sau (Hamamelidaceae) Từ độ cao 1000m trở lên xuất hiện một số loài thuộc
ngành hạt trần như: Thông Nàng (Dacrycarpus imbricatus), Pơ Mu (Fokienia
hodginsii), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Kim Giao (Nageia fleuryi) Dưới tán
kiểu rừng này thường có các loài như: Vầu Đắng, Sặt Gai, Các loài cây bụi thuộc họ
Cà phê (Rubiaceae), Đơn Nem (Myrsinaceae), Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae)
-Rừng lùn trên đỉnh núi: Là kiểu
phụ đặc thù của rừng kín thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới núi thấp và thực vật chủ yếu
là các loài cây thuộc họ Đỗ Quyên
(Ericaceae), họ Re (Lauraceae), họ Dẻ
(Fagaceae), họ Hồi (Illiciaceae), họ Thích
(Aceraceae) Kiểu rừng này xuất hiện ở các
đỉnh
núi
cao
khoảng 1000m trở lên Rừng tre nứa: ở
Vườn quốc gia Tam Đảo rừng tre nứa không
có nhiều (chỉ có 884 ha) và thường phân bố ở
độ cao trên 800 m, có các loài tiêu biểu là:
Vầu, Sặt Gai; ở độ cao 500 ¸ 800m là cây
Giang và dưới 500m là Nứa.
- Rừng phục hồi sau nương rẫy, sau
khai thác: trước khi thành lập Vườn quốc
gia Tam Đảo, rừng ở đây chỉ được bảo vệ ở
từ độ cao 400m trở lên, dưới 400m là rừng

kinh tế, nên rừng ở đây các lâm trường đã
khai thác gỗ với cường độ cao và một phần
diện tích ở đây được dân làm nương rẫy.
Ngày nay diện tích này được bảo vệ phục hồi
23
rừng với các loài cây: Dung (Symplocos sp), Màng Tang (Litsea cubeba), Dền
(Xylopia vielana), Ba Soi (Macaranga denticulata)
- Rừng trồng: Rừng trồng ở Tam Đảo đã có từ thời Pháp thuộc, loài cây chủ
yếu của thời kỳ này là Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana), Lim Xanh
(Erythrophloeum fordii). Sau này được trồng thêm các loài: Bạch Đàn, Keo, Thông
caribae và một số loài cây bản địa có nguồn gốc tại Tam Đảo.
- Loại trảng cây bụi: Loại cây này thường xuất hiện ở nơi đất chưa có rừng,
khô hạn, nhiều ánh sáng, điển hình là: Thẩu Tấu (Aporosa dioica), Thổ Mật (Briedelia
tomentosa), Thao Kén (Helicteres sp), Me Rừng (Phyllanthus emblica)
- Loại trảng cỏ: loại này được hình thành trên các kiểu rừng đã bị khai thác,
đất bị thoái hoá mạnh và được phân ra thành 2 loại hình:
• Trảng cỏ cao: có chiều cao khoảng 2m và mọc thành từng bụi như:
Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ
Lào (Chromolaena odorata)
• Trảng cỏ thấp: gồm các loài cỏ thấp hơn 2m, mọc thành thảm cỏ dày
đặc hoặc rải rác, điển hình là: Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ Đắng
(Paspalum scrobiculatum), Cỏ Sâu Róm (Setaria viridis)
Nhìn chung hệ thực vật Tam Đảo khá
phong phú và phân bố trên nhiều sinh cảnh
khác nhau từ trảng cỏ, cây bụi đến các loài
cây gỗ trên núi đất, núi đá. Theo GS. TSKH
Nguyễn Nghĩa Thìn (Đại học khoa học tự
nhiên Hà Nội) thì Vườn quốc gia Tam Đảo
có khoảng 2000 loài thực vật. Đến nay tổng
hợp số liệu điều tra của Viện sinh thái tài

nguyên sinh vật (Trung tâm khoa học công
nghệ quốc gia); Đại học khoa học tự nhiên
(Đại học quốc gia Hà Nội); Đại học Lâm nghiệp, Viện điều tra qui hoạch rừng và một
số cơ quan, tổ chức khác cho thấy đã thống kê được 1.282 loài thực vật thuộc 660 chi
thuộc 179 họ thực vật bậc cao có mạch thuộc năm ngành: Tháp bút; Thông đất;
Dương xỉ; Hạt trần và Hạt kín.
Nhóm Giá trị sử dụng Số loài Tỉ lệ
I Cây cho gỗ 379 29,57%
II Cây cho ăn quả 109 8,5%
III Cây cho sợi 158 12,32%
IV Cây cho tinh dầu 32 2,49%
V Cây cho rau ăn 86 6,71%
VI Cây làm cảnh 152 11,86%
VII Cây làm dược liệu 361 28,16%
VIII Cây cho tinh bột 5 0,39%
Tổng số 1.282 100%
(Các loài thực vật ít hoặc không có giá trị kinh tế hầu như chưa điều tra, thống kê được)
24
Cây chè shan cổ thụ
Trà vàng Tam Đảo (Camellia tamdaoensis)
Trong các loài thực vật trên có 42 loài đặc hữu và 66 loài quý hiếm cần được
bảo tồn và bảo vệ như: Hoàng thảo tam đảo (Dendrobium daoense), Trà hoa dài
(Camellia longicaudata), Trà hoa vàng Tam Đảo (Camellia petelotii), Hoa tiên
(Asarum petelotii), Chuỳ hoa leo (Mosla tamdaoensis), Trọng lâu kim tiền (Paris
delavayi)
V – VAI TRÒ CỦA RỪNG
QUỐC GIA TAM ĐẢO:
A – Vai Trò Đối Với Vùng Đồng Bằng Và Trung Du Bắc Bộ:
Vườn Quốc gia Tam Đảo bao gồm toàn bộ diện tích dãy núi Tam Đảo, là phần
kéo dài của hệ núi phía Bắc và Tây bắc Bắc Bộ đi sâu vào vùng đồng bằng châu thổ

Sông Hồng. Toàn bộ phần phía tây – nam, phía nam và phía đông Vườn Quốc gia
được bao quanh bởi vùng đồng bắng, đồi trung du thuộc các tỉnh nằm ở phía bắc đồng
bằng Bắc bộ như Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà
Tây, Hà Nội. Với vị trí như thế, dãy núi Tam Đảo đã được đồng bằng và đồi núi trung
du tách ra khỏi các hệ núi cao ở Tây Bắc và các tỉnh phía bắc, trở thành hòn đảo cao
nằm giữa đồng bằng.
Đặc điểm này làm cho hệ động, thực vật VQG Tam Đảo giầu loài đặc hữu hơn
các nơi khác, và VQG có giới hạn tự nhiên mà các loài động vật không vượt qua để
chạy đi nơi khác được. Còn đối với các vùng đồng bằng xung quanh, VQG Tam Đảo
nằm trên dãy núi cao hùng vĩ, đến gần 1600m trên mực nước biển, và hệ sinh thái
rừng tự nhiên rộng đến 21.982 ha, chia sẻ các dịch vụ hệ sinh thái cho cộng đồng ở địa
phương cũng như các vùng xung quanh, đặc biệt là các dịch vụ điều tiết như điều tiết
khí hậu, điều tiết dịch bệnh, điểu tiết lũ lụt, phân hủy độc tố trong môi trường (làm
sạch nguồn nước).
B – Vai Trò Bảo Tồn Sinh Học:
Là vườn quốc gia rộng (36.883 ha) nằm trên độ cao 400-1590m cách li với cá
vùng núi cao lân cận, có địa hình phân hóa phức tạp, nhiều sinh cảnh đa dạng và đặc
sắc, Vườn Quốc gia Tam Đảo là môi trường sinh sống tự nhiên của hàng ngàn loài
động, thực vật đã biết và còn rất nhiều loài, thậm chí là nhiều nhóm chưa biết hoặc
chưa được cập nhật. Đối với bảo tồn đa dạng sinh học,Vườn quốc gia Tam Đảo có vai
trò quan trọng xuất phát từ những lợi thế to lớn của nó đối với đa dạng sinh học và
bảo tồn đa dạng sinh học. Đó là:
- Có giá trị đa dạng sinh học cao: đã biết gần 2500 loài động, thực vật; trong đó
có 116 loài có giá trị bảo tồn và 84 loài đặc hữu. Một số nhóm như thú, lưỡng cư và
bò sát tỷ lệ loài quý hiếm (có giá trị bảo tồn và đặc hữu) rất cao (Thú 42,8%), Lưỡng
25
Hoa Đỗ Quyên: Loài cây này đang được
trồng rộng rãi ở Tam Đảo. Với mong muốn
mang lại sức sống mới cho Tam Đảo

×