CHUYỆN KỂ VỀ CỐ THỦ TƯỚNG
VÕ VĂN KIỆT
2
Những năm gần đây, linh cảm quỹ thời gian còn lại không nhiều nên ông hối hả
làm việc, hết vào Nam, lại ra Bắc (riêng những ngày lễ tết, sinh nhật, để tránh ồn
ào, ông thường lặng lẽ về quê). Năm 2007, đi khảo sát tình hình bão lũ, cứu trợ ở
miền trung, miệt mài đến nỗi sau này ông cứ áy náy mãi vì lỡ mất cả cuộc hẹn với
cựu Thủ tướng Thái Lan Anand Panyarachun. Gần đây, thấy bão lụt diễn ra trên
thế giới ngày càng khốc liệt, lo cho dân, cho nước, ông lại nhớ về Hà Lan, để rồi
cuối cùng chuyến đi được ấn định sẽ xuất phát vào 23 giờ 5 phút đêm 2/6/2008
của Việt Nam Airline từ Tân Sơn Nhất. Theo chương trình, bay đến Paris mất 12
tiếng, rồi trung chuyển qua Hà Lan. Tôi được biết nhiều vị lãnh đạo cấp cao rất
quan tâm và lo lắng về sức khoẻ của ông nhưng ông nhất quyết đi với thành phần
thật gọn nhẹ, sao cho ít tốn kém và hiệu quả. Trong kế hoạch, khoảng 12 giờ 30
trưa 3/6 đoàn đến khách sạn ở thủ đô Hà Lan, thì ngay 3 giờ chiều cùng ngày đã đi
thực địa…Đau đớn thay, ước vọng cuối đời của một con người luôn vì dân, vì
nước không biết nghĩ đến bản thân mình lại dở dang không bao giờ thực hiện
được.
Những ngày tang lễ, tôi không còn tâm trí và can đảm để viết về ông Sáu vì chỉ
mới được vài hàng chữ thì mắt đã ướt nhoè và cổ họng như nghẹn lại. Hôm nay,
tương đối tĩnh tâm, tôi muốn ghi lại những kỷ niệm, nhất là về chuyến đi dở dang
cuối cùng của ông.
Ngày 1/6/2008, thư ký của ông gọi điện nói với tôi: ”Chú bị ho, các bác sỹ điều
trị ở bệnh viện Thống Nhất chẩn đoán bị viêm phổi, nên phải điều trị ít ngày cho
khoẻ hẳn. Chú nhắn anh, tối mai cứ bay trước đi Hà Lan…” Không an tâm,
khoảng 10 phút sau, tôi gọi lại, dự định hoãn vé để chờ ông cùng đi, thì được thư
ký báo lại “ Chú vẫn khoẻ, anh an tâm, mùng 7/6 chú sẽ sang Pháp kiểm tra sức
khoẻ sẽ báo để anh biết kế hoạch cùng làm việc ở Hà Lan. Trong trường hợp
không sang kịp, chú nhắn anh cứ tiến hành công việc như đã bàn rồi khi về nước
hai thầy trò sẽ thảo luận kỹ hơn…”
Ngày 4/6, ở nhà điện sang Hà Lan báo cho tôi biết ông Sáu đã sang Singapore,
rồi sẽ đi Pháp, Hà Lan. Mùng 7/6 từ Hà Lan, tôi gửi email cho ông, nào đâu có
biết lúc đó ông đang hôn mê vì lá phổi bên phải bị tổn thương khá nặng, tim, thận
đều bị ảnh hưởng phải thở máy và dùng máy lọc thận ở nơi đất khách, quê người.
Sáng ngày 13/6, vừa về đến sân bay, đến ngay Bệnh viện Thống Nhất, lúc đó rất
đông người. Nhờ có người cận vệ của ông Sáu đã chờ sẵn, dẫn tôi đi lối riêng vào
viếng trước khi làm lễ nhập quan. Nhìn thi hài nằm bất động như khi đang ngủ, tôi
chỉ còn biết nắm chặt bàn tay của ông, khóc oà như vỡ tung bao nỗi tức tưởi, ấm
ức trong lòng và lần đầu tiên trong đời tôi gọi chú xưng con:”Chú Sáu ơi! Con đã
về đây, con đợi và mong chú hoài, sao chú lại ra đi đột ngột thế này! Còn biết bao
dự định, biết bao tâm sự …chú ơi!”. Thật xót xa, được biết những ngày nằm viện
Thống Nhất, ông vẫn đọc và nghiên cứu các tài liệu. Đến ngày 30/5 ông còn bảo
mọi người chuẩn bị thu xếp hành lý đến trưa 1/6 về nhà, để tối 2/6 đi Hà Lan. Trưa
ngày 13/6 tại Dinh Thống Nhất, gặp anh Ba (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và
Hiếu Dân lại nhắc về chuyến đi Hà Lan của ông Sáu, lòng tôi càng tê tái và thầm
xin ông tha thứ cho tôi.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, có rất nhiều bài viết tiếc thương, đánh
giá công lao to lớn của ông Sáu đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Các chuyện
kể, kỷ niệm về ông từ trong kháng chiến vào sinh, ra tử, bị tù đầy, vợ con ruột thịt,
người thân hy sinh trong chiến tranh đến thời kỳ đầy khó khăn, trở ngại khi xây
dựng đất nước lại càng kính phục, tiếc thương biết bao về bản lãnh và tư duy vượt
thời đại của một con Người suốt đời sống vì dân và thực sự được lòng dân. Không
phải ngẫu nhiên, Võ Văn Kiệt lấy bí danh là Sáu Dân, đặt tên con gái yêu quý là
Hiếu Dân mà ngay cả một số bài báo cũng lấy tên là Trọng Dân. Tên tuổi và sự
nghiệp của Võ Văn Kiệt đã đi vào lịch sử cận đại. Có những điều ông nói, ông viết
phải đến nhiều năm sau mới thấu hiểu được lẽ đời ấy. Có một sự thật ít người nói
ra, không phải chỉ khi nghỉ hưu ông mới mạnh dạn góp ý với Đảng và Nhà nước.
Lịch sử không bao giờ có 2 từ “giá như” nhưng tôi vẫn ước ao, đến ngày nào đó,
được phép tập hợp công bố tất cả các bài viết, những bức thư công tác của ông Sáu
gửi Bộ chính trị, Ban bí thư, thường trực chính phủ và số vị lãnh đạo kể từ sau khi
đất nước thống nhất (1975) đến 5/2008 để người dân cả nước, đồng bào ta ở nước
ngoài hiểu rõ một cách có hệ thống về tầm vóc của một bộ óc vĩ đại, nhà tư tưởng
chiến lược nhìn xa, trông rộng, ý chí tiến công, quyết đoán, luôn thể hiện bản lĩnh
của một người cộng sản chân chính suốt đời sống và làm việc vì dân, lo cho dân,
cho nước.
Trong phạm vi bài viết này, xin kể lại vài mẩu chuyện về tính cách đặc trưng
cho phẩm chất Võ Văn Kiệt. Khi còn công tác bí thư thành ủy TP.HCM đến khi
làm Thủ tướng, cố vấn hay lúc đã nghỉ hưu ông luôn biết lắng nghe, phân tích các
ý kiến trái chiều, biết chấp nhận cả những ý kiến phê bình. Ông thường bảo những
vấn đề hệ trọng của đất nước cần phải phát huy trí tuệ của tập thể, thận trọng cân
nhắc, không được áp đặt và luôn biết đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên
trên tất cả. Cuộc sống là “bài toán động” nên nhiều khi phải biết nhìn lại mình cho
rõ hơn. Khi thảo luận, có những ý kiến khác nhau đó là lẽ tự nhiên của quy luật
phát triển, là hồng phúc của đất nước biết tôn trọng dân chủ. Phải thực sự cầu thị,
tôn trọng công tác phản biện mới đi đến sự đồng thuận cao và khi đã quyết rồi thì
không bàn ngang phải xắn tay làm quyết liệt.
Bình thường hoá quan hệ với các nước, nghe tưởng như rất đơn giản, thực ra rất
phức tạp, có những cơ hội do nhiều nguyên nhân chúng ta đã bỏ lỡ Ngay chuyện
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, lúc đó ở cấp cao vẫn còn ý kiến khác nhau.
Có người vẫn bảo lưu ý kiến “không nhập”. Với tư duy, tầm nhìn biện chứng, ông
hiểu rõ bất cứ lĩnh vực nào cũng có hai mặt của nó. Đây là bài toán đánh đổi
“được-mất”, miễn sao cái được là lớn nhất và cái mất là ít nhất. Nếu để lỡ mất thời
cơ, cái giá phải trả sau này sẽ đắt hơn, nên trên cương vị Thủ tướng, ông rất quyết
đoán, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân và cử thứ trưởng Vũ
Khoan bay sang Bangkok để truyền đạt với Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm quyết
tâm ký kết gia nhập ASEAN. Mãi đến sau này khi được thừa nhận sự đúng đắn và
kịp thời của việc gia nhập ASEAN, ông không quên, nói rõ đấy là nhờ có công lao
tư vấn của anh em bên Bộ ngoại giao.
Câu chuyện về đường dây 500 KV cả nước ai cũng biết rất thành công và ca
ngợi đó là công lao, dấu ấn của Võ Văn Kiệt nhưng ông bảo đó là công lao của cả
tập thể, của Tổng bí thư Đỗ Mười luôn ủng hộ, thúc dục, thì mới có được như
ngày nay. Sau khi khánh thành đường dây 500 KV, ông không quên người vừa có
công vừa có lỗi nên đã mang huy hiệu và chai rượu vào nhà giam thăm Bộ trưởng
Vũ Ngọc Hải . Tôi được biết, khi ông Ung Văn Khiêm bị kỷ luật, thời xa xưa ấy,
nhiều người sợ vạ lây, xa lánh. Mặc dù một số người thân cận lo lắng, can ngăn
nhưng ông vẫn công khai đến thăm vì ông cho rằng người làm cách mạng quan
điểm phát triển đất nước có thể khác nhau nhưng tình người, tình đồng chí không
thể bỏ rơi đồng đội khi hoạn nạn. Đấy chính là tính cách rất sòng phẳng và nhân ái
của Võ Văn Kiệt.
Ông góp ý với lãnh đạo không phải chỉ toàn là những việc quốc gia, đại sự.
Ngày 9/11/2006 khi đọc báo Tiền Phong có bài tựa đề “Chuẩn bị tiệc chiêu đãi
phu nhân các lãnh đạo APEC”, từ kinh nghiệm của mình, ông đã viết thư ngay cho
một vị lãnh đạo tâm sự, góp ý rất chân tình từ món ăn đặc trưng cho 3 miền, đến
tặng phẩm và lễ tiếp, bởi vì ông nghĩ qua đây, thể hiện bản sắc văn hoá Việt Nam.
Vừa nghĩ đến một phần quốc thể, vừa là mối quan hệ anh em, đồng chí thân tình
nên ông mới quan tâm, từng chi tiết nhỏ chu đáo đến thế!
Ông Sáu rất coi trọng người dân và đánh giá cao giới tri thức trong công cuộc
xây dựng chấn hưng đất nước. Ông nhìn nhận về tri thức không phải chỉ ở bằng
cấp, học hàm, học vị mà là trí tuệ và sản phẩm của họ làm ra cho xã hội. Ông thích
thú và cổ vũ các anh “Hai Lúa” dù văn hoá mới chỉ là tiểu học nhưng lại làm ra
cầu treo, “thần đèn” di chuyển công trình xây dựng, sáng chế các máy công cụ
nông nghiệp làm các nhà khoa học phải thán phục. Có lần ngồi trên thuyền vượt
qua một bờ kênh bằng đường ray và cái tời do sáng kiến của người dân ở Cà Mau,
ông nheo mắt, hóm hỉnh bình luận mấy anh nông dân này liệu có xứng đáng gọi là
“nông dân kiêm kỹ sư”. Ông không phải chỉ có đi nhiều để tìm hiểu thực tế mà rất
chịu khó đọc, nghiên cứu, rồi thảo luận. Nhiều vấn đề phức tạp, trừu tượng cần tìm
hiểu, làm rõ, trước khi thảo luận, ông thường gạch chân từng đoạn, ghi chú bằng
mực đỏ. Biết lắng nghe, tôn trọng những người đối thoại, với tấm lòng bao dung,
nhân từ nên ông dễ dàng bắt được hơi thở của cuộc sống. Gần đây, khi làm việc
với đoàn chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) các chủ đề về kinh tế, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách Đổi mới của đất nước, mặc dù tuổi đã cao nhưng tôi
thấy trí nhớ của ông vẫn sáng suốt đến lạ thường!
Đối với đồng bằng sông Cửu Long không phải ngẫu nhiên mà có được các
thành quả kinh tế xã hội như ngày nay. Trưa ngày 14/6 nguyên Bộ trưởng Lê Huy
Ngọ gọi điện cho tôi, trong cơn húng hắng ho nhẹ, anh Ngọ vẫn xúc động hệ thống
lại cả quá trình hình thành tư duy và chỉ đạo quyết liệt của ông Sáu từ ngọt hoá Gò
Công, đến bán đảo Cà Mau, thoát lũ ra biển Tây, xây dựng cụm tuyến dân cư, và
nhìn xa hơn là hệ thống công trình và phi công trình cho phòng chống thiên tai.
Anh Ngọ bảo người dân Việt Nam và đặc biệt là Bộ Nông nghiệp & PTNT chịu
ơn ông Sáu nhiều lắm. Tôi được chứng kiến, được đọc nhiều bức thư của người
dân, của các nhà khoa học trong và ngoài nước gửi ông Sáu, trong đó có cả những
người nổi tiếng là khinh bạc. Vì sao họ lại tin và trọng ông đến thế, ngay cả khi đã
nghỉ hưu, không còn quyền lực! Phải chăng ngoài văn hoá ứng xử rất NGƯỜI, ở
ông, người ta thấy đó là điểm tựa hay nói một cách nôm na đó là sự tin cậy, kính
yêu của người dân dành riêng cho ông.
Cuộc sống là bất phương trình chứ không phải phương trình. Trong công việc
cũng như đời thường cũng có lúc ông Sáu cảm thấy bất lực, nhưng không bao giờ
nản chí vì ông luôn tin vào tương lai, vận mệnh của đất nước.
Ông Sáu ơi! Thế là ông đã đi xa thật rồi. Ông có thể thanh thản vì đã làm tròn
trách nhiệm của một công dân - công dân Võ Văn Kiệt. Giờ đây, ông đã về cõi
thiên thu nhưng nhân dân luôn nhớ và kính trọng ông , Người có bộ óc vĩ đại
không ngừng nghỉ, mang đầy đủ dấu ấn của cả 3 thì: quá khứ, hiện tại và tương
lai. Không hiểu sao lúc này, tôi lại khát khao, ước ao được nghe giọng nói ấm
vang, thân tình qua điện thoại: ”Mày đang ở đâu đấy!” để được tiếp tục nghe ông
chỉ bảo.
Một chuyến đi xa Người lỡ hẹn
Trăm năm lòng mãi nghĩ về Dân