Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Thiếu Lâm (võ) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.58 KB, 32 trang )

Thiếu Lâm (võ)
Mục lục
 1 Nguồn gốc và danh xưng
o 1.1 Lịch sử chùa Thiếu Lâm
o 1.2 Lịch sử sơ khai Quyền Pháp Thiếu Lâm
 1.2.1 La Hán Thập Bát Thủ và Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh
 1.2.2 Ngũ Hình Quyền nguyên thủy Thiếu Lâm Tung Sơn
o 1.3 Kỹ năng môn phái Thiếu Lâm
o 1.4 Sự thật về lịch sử Thiếu Lâm Quyền
o 1.5 Triệu Khuông Dẫn và câu chuyện Hồng Quyền
o 1.6 Quyền thuật Trung Hoa và Thiếu Lâm Quyền
o 1.7 Thiếu Lâm Quyền thời Tống – Nguyên
o 1.8 Thiếu Lâm Quyền thời Minh - Thanh
o 1.9 Mối liên hệ giữa Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền
 2 Các hệ phái của Thiếu Lâm Quyền
o 2.1 Thiếu Lâm Quyền Tung Sơn Hà Nam
o 2.2 Thiếu Lâm Quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc,Sơn Đông
o 2.3 Thiếu Lâm Quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến
 3 Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung Quốc và việc hệ thống hóa Thiếu Lâm Quyền

o 3.1 Wushu và Thiếu Lâm Quyền
o 3.2 Kỹ thuật đặc trưng của Wushu
 4 Chú thích
Nguồn gốc và danh xưng
Người Trung Hoa thường phân loại các môn võ của họ thành hai loại với tên gọi khác
nhau. Môn võ vật thì gọi là Giốc Để, còn võ quyền cước (đánh đá chân tay) gọi là Thủ
Bác, mà bây giờ chúng ta gọi là quyền thuật (boxing). Sau này người Trung Hoa gọi các
môn võ chân tay (hay quyền thuật) của họ là Kỹ kích hay Kỹ pháp.
[1]

 Tên khác của Thiếu Lâm Quyền: Thiếu Lâm công phu. Người Quảng Đông thì


lại gọi các môn võ thuật có nguồn gốc từ Thiếu Lâm là Kungfu hay Gongfu (phiên
âm Hán-Việt: Công Phu) và mang nó đi truyền bá khắp bên ngoài Trung Hoa Đại
Lục nên người phương Tây gọi võ Trung Hoa là Kungfu, và các môn quyền thuật
(boxing) (tiếng Nhật đọc là Kempo hay Kenpo) và công phu xuất phát từ chùa
Thiếu Lâm thì gọi là Thiếu Lâm công phu (Shaolin là phiên âm latinh từ tiếng phổ
thông, còn tiếng Quảng Đông đọc là "Sỉu Lầm" - viết là Silum) hoặc là Thiếu Lâm
võ thuật. Trong khi tiếng Nhật thì cũng có một cách đọc na ná âm tiết là Shorin
(Shaolin) và Ji (Sì). Do vậy, môn Karate (Không Thủ Đạo) ở Nhật còn có một tên
gọi khác nữa là Shorin Ji Kempo nghĩa là Quyền Pháp Thiếu Lâm tự của Nhật
Bản (xem mục Liên kết ngoài-Tham khảo phía dưới bài này).
Năm 1945, nước Nhật bại trận sau thế chiến thứ hai và trở nên kiệt quệ hoàn toàn. Kaiso
(So Doshin) hiểu rõ thế nào là cảm giác bị đánh bại và đó là một phần lý do khiến ông
sáng lập ra Shorinji Kempo. Kaiso (So Doshin) đã phát triển các kỹ thuật của Thiếu Lâm
tự Trung Quốc và tập hợp lại thành hệ thống kỹ thuật Thiếu Lâm tự Nhật Bản.
Ông (Kaiso (So Doshin)) đã từng nói: "Tôi đã tận mắt chứng kiến thực trạng chính trị
quốc tiếm khi mà sức mạnh dường như là công lý duy nhất tồn tại, những mối quan tâm
quốc gia xâm chiếm cả tư tưởng, tôn giáo và đạo đức " "Cách nhìn của tôi với thế giới
thay đổi. Tôi hướng tới một mục tiêu cho cách sống mới của mình: Con người. Mọi thứ
đều phụ thuộc vào giá trị của con người."

Cổng chính của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc).
Khi nói chùa Thiếu Lâm mà công chúng xưa nay thường biết đến chính là chùa Thiếu
Lâm ở tại dãy núi Tung Sơn (huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc)) là thủy tổ
của các môn phái võ Trung Hoa.
Còn các võ phái bên ngoài Trung Hoa Đại Lục trong vùng Đông Á (bán đảo Triều Tiên,
Nhật Bản, Việt Nam, ) thì lại có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu Lâm.
Vị sư trưởng (tục gọi là Phương Trượng) hiện nay (2007) trụ trì tại chùa Thiếu Lâm
(Đăng Phong, Hà Nam) là vị hòa thượng pháp danh Thích Vĩnh Tín (sinh năm 1965).
Sau khi vị hòa thượng này lên quản nhiệm ngôi chùa đã cho thành lập Công ty Thiếu
Lâm tự và đăng ký bản quyền thương hiệu cho võ công Thiếu Lâm tại Trung Hoa và tại

Cơ Quan Văn Hóa (của) Liên Hiệp Quốc (UNESCO) nhằm tránh nạn "ăn cắp bản quyền
sáng chế" và cũng để hạn chế những ngụy phái dám giả mạo xưng danh là môn đồ của
Thiếu Lâm tự làm điều càn rỡ phương hại đến uy danh và văn hóa Thiếu Lâm tự, mà nạn
phổ biến nhất là việc sáng tác bừa bãi các bài quyền và các kỹ thuật công phu không
đúng với tông pháp nguyên ủy của võ công Thiếu Lâm. Lịch sử võ công Thiếu Lâm cũng
đã là minh chứng cho thấy sự mâu thuẫn về đường lối của Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu
Lâm với Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) và cuối cùng Thiếu Lâm Tung Sơn
Hà Nam (Trung Quốc) cũng phải thừa nhận vị trí của Bắc Thiếu Lâm (Sơn Đông, Hà Bắc
(Trung Quốc)) và Nam Thiếu Lâm (Toàn Châu, Phúc Kiến) trong một hệ thống Thiếu
Lâm quyền.
Hơn nữa, vị phương trượng này - Thích Vĩnh Tín - cũng muốn chấn hưng lại danh tiếng
văn hóa Thiền Tông Thiếu Lâm tự là cái nôi của Thiền Tông thế giới cũng như khẳng
định lại vị trí đặc biệt của Thiền trong võ công Thiếu Lâm từ nguyên thủy của nó, ông đã
phát biểu trong lời tựa các ấn phẩm võ công do chính nhà chùa xuất bản hiện nay: "nhà
chùa nhờ có võ công mà nổi tiếng, ngược lại võ công của Thiếu Lâm cũng nhờ chùa mà
trở nên phát triển" cho nên tại chùa Thiếu Lâm và ở Trung Hoa xưa nay thường hay có
câu truyền tụng "Thiền Quyền nhất thể" là như vậy.
Lịch sử chùa Thiếu Lâm

Dãy núi Tung Sơn tỉnh Hà Nam (Trung Quốc), người Hoa tại Việt Nam thường phiên âm
là Sùng Sơn.
Chùa Thiếu Lâm, theo như trong các tài liệu khảo sát bằng văn bản của Dương Huyễn
Chi, trong "Lạc Dương Già-lam kí" (洛陽伽藍記; 547), và Lý Hiền (李賢), trong "Minh
nhất thống chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và thời đại của ngôi chùa như
Đạo Tuyên trong "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645). Quyển "Gia Khánh trùng tu
nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây
dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20 nhà Bắc Ngụy (tức năm 497), là ngôi chùa Thiếu
Lâm ở huyện Đăng Phong (Dangfeng 登封), tỉnh Hà Nam (Henan 河南) (có sách viết là
Hồ Nam là không đúng vì tỉnh Hồ Nam rất xa về phía Nam tỉnh Hà Nam), Trung Quốc,
cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Ngôi chùa

bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung
Quốc.
Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của Đạo Tuyên ngôi chùa này ban đầu được
Hiếu Văn Đế (孝文帝)(471-499) triều Bắc Ngụy (386-534) xây dựng vào năm 497 ở phía
bắc ngọn núi Thiếu Thất (Shaoshi 少室山), trong dãy Tung Sơn (Songshan 嵩山), huyện
Đăng Phong (Dengfeng 登封), thuộc tỉnh Hà Nam (Henan 河南) về hướng Tây Bắc gần
thành phố Trịnh Châu (Giản thể: 郑州, Phồn thể: 鄭州; Bính âm: Zhèngzhōu) (là một
trong năm ngọn núi danh thắng của Trung Quốc là Hoa sơn, Thái sơn, Hằng sơn, Hành
sơn và Tung sơn) cho nhà sư Bạt Đà (Bá Tuó 跋陀), đến Trung Hoa vào năm 464, người
đã thuyết giảng Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ.

Phía sau chùa Thiếu LâmTung Sơn tỉnh Hà Nam (Trung Quốc).
Nhưng lịch sử chùa Thiếu Lâm chỉ bắt đầu được biết đến nhiều sau khi vị Phật tăng Ấn
Độ là Bồ Đề Đạt Ma (phiên âm tiếng Trung Quốc của tên Ấn Độ Puti Damo 菩 提 達 摩
, Bodhidharma) từ Ấn Độ (năm 518 Tây lịch) đến Trung Hoa truyền thụ giáo pháp Phật
Giáo đồng thời sáng lập nên một giáo phái Phật giáo mới sau này phát triển khắp vùng
Đông Nam Á, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản là giáo phái Thiền Tông Trung Hoa. Ở
Nhật Bản, tinh thần của Thiền (Zen) đã thấm đẫm văn hóa truyền thống của người Nhật
qua các nghi thức trà đạo và các môn võ sau này.
Sau khi triều kiến Lương Vũ Đế (463-549) (cũng thuộc triều Bắc Ngụy) ở Kim Lăng
(Trung Quốc) bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã đến chùa Thiếu Lâm (năm 527) để truyền bá
Phật pháp cho người Trung Hoa. Do đó Bồ Đề Đạt Ma cũng được coi như là ông tổ của
Phật Giáo Thiền Tông.
Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm, sau này lại trở nên nổi tiếng ở Trung Hoa và các quốc
gia lân cận bị ảnh hưởng bởi nền văn minh và văn hóa Trung Hoa không phải ở lĩnh vực
tôn giáo - như là Sư tổ của cái nôi xuất xứ (tổ đình) của giáo phái Phật Giáo Thiền Tông
Trung Hoa, mà lại nổi tiếng là Ông tổ của võ thuật Trung Hoa (xem mục Liên Kết Ngoài-
Tham Khảo phía dưới bài này).
Lịch sử sơ khai Quyền Pháp Thiếu Lâm
Bồ Đề Đạt Ma trong bức ảnh Cước đạp lô diệp quá giang, đạp ngọn cỏ lau vượt sông

Dương Tử đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc), tác giả vẽ: họa sĩ Dong
Yuang.
Theo truyền thuyết của Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế,
Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau
(cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu
Lâm tự vẫn còn bức tượng "cước đạp lô diệp quá giang" miêu tả tích này. Tại ngôi chùa
này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên
diện bích).
Trong thời gian trụ trì và thuyết pháp, nhận thấy các tăng nhân trong chùa có thể lực rất
yếu kém không thể chống chọi nổi với thời tiết và khí hậu khắc nghiệt của vùng núi rừng
hiểm trở, ngài đã kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay không của Ấn
Độ gọi là Cửu Long sáng tạo nên một số bài tập để rèn luyện tăng cường sức khỏe phục
vụ cho quá trình tu hành.
Các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma cho đến hiện nay vẫn chưa thể xác định được.
Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma có kèm theo một số
các thủ thuật xoa bóp và điểm huyệt gọi là Án Ma Pháp (Anma Faat 按摩法) giống như
phương pháp châm cứu và bấm huyệt của Đông y học Trung Quốc và phương pháp
massage của phương Tây ngày nay. Do vậy trong các bài quyền của hầu hết các hệ phái
Thiếu Lâm sau này thường hay có những động tác vỗ chân vỗ tay nhằm kích hoạt
(activate) lên các huyệt đạo để phát động nguồn Khí lực trong cơ thể đồng thời để tạo khí
thế khi diễn tập với mục đích làm cường kiện thân thể.
Một võ tăng Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam trong thế tấn Chảo Mã ở chiêu thức Mỹ Nhân
Chiếu Kính (người đẹp soi gương), một chiêu thức đặc trưng trong bài Ngũ Lộ Mai Hoa
quyền.
Các bài tập thở và xoa bóp huyệt đạo để đả thông khí huyết trong hệ kinh mạch của võ
Thiếu Lâm có liên hệ mật thiết sau này với các phương pháp của trường phái triết học
Trung Hoa cổ đại là phái Đạo Gia với Phép đạo dẫn mà nó chính là phương pháp luyện
tập hơi thở và truyền dẫn nguồn năng lượng nội sinh (Inner Power) trong cơ thể được gọi
là khí (tiếng Trung Hoa phát âm là Qi, tiếng Nhật là Ki cũng gần như nhau). Đó chính là
phương pháp Khí công chỉ chuyên luyện nội khí, vận khí (dẫn khí), dụng khí hóa kình

trong quyền thuật và Điểm Huyệt của võ Thiếu Lâm. Hai môn này hiện nay đang được
các trường Đại học của Trung Quốc và Đài Loan (Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh
Hoa của Trung Hoa Đại Lục, Đại học Đài Bắc của Đài Loan Dân Quốc) nghiên cứu (xem
các tài liệu Khí Công Trung Hoa - nguyên tác Hoàng Vũ Thăng, Giám đốc Hiệp Hội Khí
Công Việt Nam, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội trong mục Sách Tham Khảo
phía dưới bài này)
La Hán Thập Bát Thủ và Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh
Theo các nhà khảo cứu võ thuật Trung Hoa (cũng chính là người Trung Hoa) thì các tài
liệu đời sau đều gán công lao cho vị sư tổ này sáng tạo ra môn Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy
Kinh (Marrow Cleasing and Muscle Change Classic) mà tục gọi tắt là Dịch Cân Kinh và
La Hán Thập Bát Thủ (mười tám thế tay của phật La Hán). Song cho đến giờ vẫn chưa có
tài liệu nào xác minh được nguồn gốc chân thật của hai phương pháp này là do Bồ Đề
Đạt Ma truyền lại mà chỉ có tác phẩm Võ Thuật Tùng Thư của Quảng Từ Lão Ni xác
nhận Bồ Đề Đạt Ma là nhân vật sáng tác Dịch Cân Kinh và Thập Bát La Hán Quyền (?)
theo lời kể của võ sư Đoàn Tâm Ảnh (thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân) kể lại cho học
trò của ông là giáo sư Vũ Đức (cũng là môn đồ cao cấp của võ Karate) thuật lại, nhưng
điều này cũng không có gì làm bằng chứng xác thực.
Chỉ có một điều duy nhất rõ ràng hiển nhiên rằng là La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18
Arhat Form) chính là bài quyền hoàn chỉnh đầu tiên của Thiếu Lâm quyền được sáng tạo
bởi các võ tăng Thiếu Lâm tự vào thời nhà Tùy (581-618).
Có một số ít các tài liệu của Trung Hoa sử dụng danh từ La Hán Thập Bát Chưởng hay
La Hán Thập Bát Môn thay cho danh từ La Hán Thập Bát Thủ nhưng danh từ này không
được thông dụng và phổ biến lắm.
Có người đời sau lại còn cố gắng tạo ra Thập Bát La Hán Quyền là của Thiếu Lâm quyền
do chính Đạt Ma Sư Tổ sáng tạo ra.
Sau này trong truyền thuyết (lại cũng là truyền thuyết) được ghi lại (xem Thập Bát La
Hán Quyền của Lạc Việt - là học trò của võ sư Đoàn Tâm Ảnh và Nam Quyền Toàn Thư
của quyền sư Trương Tuấn Mẫn trong mục Sách Tham Khảo ở bài Thiếu Lâm Hồng gia)
thì nhà sư Giác Viễn (có tài liệu gọi là Giác Nguyên) đã phát triển La Hán Thập Bát Thủ
(Shaolin 18 Arhat Form) thành Thất Thập Nhị Huyền Môn (bảy mươi hai công phu) (72

Secret Arts of Shaolin, 72 Fists of Shaolin) làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm quyền về
sau. Từ bảy mươi hai thế quyền sau đó được phát triển lên đến 108, rồi 170,
Ngũ Hình Quyền nguyên thủy Thiếu Lâm Tung Sơn
Võ tăng Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc).
Một thuyết nữa lại bổ sung vào thuyết trên cho rằng Giác Nguyên sau đó đã truyền lại
bảy mươi hai thế quyền này cho Bạch Ngọc Phong, sau đó cũng là một tăng nhân của
Thiếu Lâm tự. Bạch Ngọc Phong đã dựa vào các thế quyền này kết hợp với các bài tập
Ngũ Cầm Hí là những bài tập khí công của Y Sư Hoa Đà thời Tam Quốc, và Bát Đoạn
Cẩm mà khai triển thành Ngũ Hình Quyền sơ khai gồm Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc mà
những đường quyền này đến nay cũng chẳng biết nguồn gốc ra sao nữa.
Cũng theo các tài liệu trên thì Giác Viễn và Bạch Ngọc Phong là hai nhân vật xuất hiện
vào khoảng từ thế kỷ 14, 15 hay 16, 17 gì đó (tức là vào khoảng từ triều nhà Minh (1368-
1644) và nhà Thanh (1644-1912) trở đi).
Tài liệu Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt viết chi tiết rằng Bạch Ngọc Phong sáng
tác Ngũ Hình Quyền vào thời nhà Nguyên nhưng lại dựa trên cơ sở nền tảng của La Hán
Thập Bát Thủ do Giác Viễn một thiền sư của Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam sống vào
cuối thời nhà Nguyên và đầu thời kỳ nhà Minh. Sau này trên một số tạp chí chuyên san
võ thuật in trước và sau 1975 tại Sài Gòn võ sư Đoàn Tâm Ảnh có lên tiếng giải thích là
mười tám đường quyền La Hán trên là do ông soạn ra và phổ biến vào những năm 1960
tại Sài Gòn. Trong khi đó tài liệu Quyền Phổ Thiếu Lâm được viết ngay tại chùa Thiếu
Lâm Tung Sơn viết rất rõ rằng Giác Viễn Thượng Nhân sống vào thời kỳ nhà Tống là
thời kỳ mà các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm phát triển mạnh mẽ từ sau sự kiện
Triệu Khuông Dẫn sáng tác bài Thái Tổ Trường Quyền (xem thêm Thiếu Lâm Bách Khoa
Toàn Thư, trọn bộ 23 tập, nguyên tác Trung Văn Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến
Huân, nhà xuất bản Thể Dục Thể Thao, Hà Nội).
Tuy nhiên, đa phần các tài liệu võ thuật do người Trung Hoa viết bằng tiếng Anh và tiếng
Hoa cũng như các tài liệu của môn phái Karate ở Okinawa và Nhật Bản đều xác nhận như
các tài liệu tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam rằng Giác Viễn Thượng Nhân và Bạch
Ngọc Phong là người xuất hiện vào thời Tống mạt Nguyên Sơ (cuối thời nhà Tống và đầu
thời nhà Nguyên).

Lại có một thuyết khác giải thích rằng vào thời nhà Nguyên (1271-1368), có Thiền sư
Viên Trường Quang của chùa Thiếu Lâm vốn xuất thân là con nhà giàu ham mê võ nghệ
đã gia nhập vào Thiếu Lâm tự. Sau khi học xong La Hán Thập Bát Môn và noi theo đó
sáng tạo ra Thất Thập Nhị Quyền Pháp, ông ta (lúc này đã năm mươi tuổi) đã kết giao với
Lý Thanh lúc đó ngoài sáu mươi tuổi cùng với Bạt Dự Phong (cũng đã ngoài năm mươi
tuổi) cùng nhau nghiên cứu quyền pháp tại chùa Thiếu Lâm và đồng sáng tác thêm 170
động tác quyền thuật mô phỏng theo ngũ linh thú Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc mà tạo ra Ngũ
Hình Quyền làm nền tảng cho võ thuật Thiếu Lâm sau này.
Trở lại câu chuyện chùa Thiếu Lâm.
Có một câu chuyện có thật mà đến nay dấu tích vẫn còn tại chùa là câu chuyện vị Thiền
Tăng Đàm Tông dẫn đầu mười ba vị tăng nhân Thiếu Lâm Tự giúp Lý Thế Dân (sau này
trở thành vua Đường Thái Tông) dẹp loạn Vương Thế Sung làm rạng ngời uy phong
Thiếu Lâm quyền.
Câu chuyện này đã được dựng thành phim vào năm 1982 ở Trung Quốc do diễn viên Lý
Liên Kiệt thủ vai chính là học trò của Đàm Tông. Phim đã được công chiếu trên Đài
Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn).
Kỹ năng môn phái Thiếu Lâm
Thiếu Lâm Phái được khai sáng bởi Đạt Ma Sư Tổ đến từ Tây Trúc được xem là đại diện
cho “Võ Lâm Chính phái”.
Đệ tử của Thiếu Lâm là nam nhân, có hai loại: đệ tử xuất gia và đệ tử tục gia. Xuất gia đệ
tử xuống tóc tu hành trong chùa, không can thiệp việc giang hồ, tục gia đệ tử thì tản lạc
khắp nơi, hành hiệp trượng nghĩa có thể kết hôn hay làm bang chủ.
Sự thật về lịch sử Thiếu Lâm Quyền
Từ các truyền thuyết trên đã có một vài mâu thuẫn chưa thống nhất về nguồn gốc Thiếu
Lâm quyền.
Thứ nhất, câu chuyện về mười ba vị tăng nhân Thiếu Lâm tự cho thấy võ thuật Thiếu
Lâm thời đó đã phát triển mạnh mẽ, nhất là từ thời nhà Đường (618-907) trở đi. Thậm chí
tại cổng chùa còn để lại bút tích của Lý Thế Dân sau khi đăng quang hoàng đế Đường
Triều Trung Hoa.
Tên của môn võ Karate của Nhật Bản được giải thích ngay trong các tài liệu của các võ

sư Nhật Bản cũng ghi rõ rằng Kara có nghĩa là triều nhà Đường, và Karaté Do có nghĩa
là môn võ tay không (không sử dụng bất kỳ loại binh khí nào) xuất hiện từ thời nhà
Đường cho nên còn gọi là Không Thủ Đạo hay Đường Thủ Đạo.
Thứ hai, truyền thuyết về Thiếu Lâm quyền vẫn còn trong bóng tối của lịch sử vì hai
nhân vật Giác Viễn và Bạch Ngọc Phong xuất hiện từ thời nhà Minh (1368-1644) và nhà
Thanh (1644-1912) trở đi, và bởi vì lịch sử Thiếu Lâm quyền vào thời nhà Tống (960-
1279) và nhà Nguyên Mông (1271-1368) kéo dài cả mấy trăm năm vẫn không có gì để
được ghi nhận cả.
Thứ ba, truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma là Sư tổ của võ Thiếu Lâm cũng phải cần
xem xét lại vì còn có nhiều điểm tồn nghi.
Giả thiết về nhà sư Viên Trường Quang vừa kể trên từ Giáo Sư Vũ Đức ghi chép lại theo
lời kể của võ sư Đoàn Tâm Ảnh cũng không có gì để làm bằng chứng xác thực từ nguồn
tài liệu nào.
Ở đây gần ghi nhận thêm rằng, ở Phương Đông Cổ đại cũng như ở Phương Tây Cổ đại
đều chú ý đến hai nguồn sử liệu. Một nguồn sử liệu viết chính xác các niên đại do chính
các vị Sử Quan trong triều đình viết và có nguồn tài liệu tra khảo chính xác được gọi là
Chính sử. Nguồn thứ hai là dạng sử liệu lưu truyền trong dân gian gọi là Dã sử, trong Dã
sử lại bao gồm cả Huyền sử là một loại truyền thuyết dân gian thần thoại mang tính hư
cấu (Imaginary) nhiều hơn là sự thật, kiểu như sự tích Thần Nữ Oa đội đá vá trời,
Vậy tại sao không có một tài liệu nào của các vị võ sư đề cập đến giai đoạn này (Tống -
Nguyên). Trong khi viết về lịch sử Thiếu Lâm quyền, đa phần họ chỉ bám theo sự kiện
phát tích các môn quyền mà không để ý đến các niên đại của các phát tích đó, thậm chí
chỉ dựa hoàn toàn vào truyền thuyết lưu truyền trong dân gian.
Triệu Khuông Dẫn và câu chuyện Hồng Quyền
Sau sự kiện Đường Thái Tông Lý Thế Dân hậu đãi chùa Thiếu Lâm và để lại bút tích tại
bia đá ở cổng chùa cho đến nay vẫn còn, các vị hoàng đế Trung Hoa sau này cũng đều có
cùng chung cảm hứng đến Thiếu Lâm tự để bày tỏ uy danh của triều đại mình cũng
không thua kém uy danh của triều nhà Đường, một triều đại mà lịch sử ghi lại là phát
triển rực rỡ nhất trong tất cả các triều đại phong kiến Trung Hoa không chỉ ở lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội mà còn phát triển ở cả lĩnh vực văn hóa và học thuật tiêu biểu

như các thể thơ Đường Luật và ca trù với các Thi sĩ nổi tiếng như Lý Thái Bạch (còn gọi
là Lý Bạch), Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, nhất là sau sự kiện Đường tăng Trần Huyền Trang sang
Thiên Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh hoằng dương Phật pháp tại vùng viễn Đông Trung Hoa
xa xôi cách trở với xứ Phật.
Sau này các vị võ quan của triều đại nhà Đường (618-907) khi về hưu cũng thường đến
chùa Thiếu Lâm để trao đổi võ thuật tạo nên một không khí giao lưu võ thuật mà nó trở
thành truyền thống văn hóa và học thuật của nhà chùa cho đến các đời sau. Nhưng cho
đến lúc này các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm vẫn chưa được coi trọng và phát triển
đúng tầm cỡ của nó như sau này vì lúc đó các phương pháp sử dụng binh khí vẫn còn
thịnh hành và võ khí phòng thân của các vị tăng nhân trong chùa chính là cây côn mà chủ
yếu là trường côn.
Chùa Thiếu Lâm lúc đó vẫn còn giữ nghiêm giới luật cho nên tuyệt đối cấm các tăng
nhân sử dụng các loại võ khí bằng kim loại bén nhọn có thể gây sát thương và dẫn đến tử
vong. Đó là điều dễ hiểu tại sao võ Thiếu Lâm lại tiến rất nhanh đến trình độ điêu luyện
và tinh diệu về côn pháp.
Các loại binh khí (tục gọi là Thập Bát Ban Binh Khí Võ Nghệ ) chỉ được phát triển ở các
dòng Nam Quyền và Bắc Quyền Thiếu Lâm sau này mà thôi.
Kỹ thuật sử dụng trường côn của Thiếu Lâm nổi tiếng đến nỗi Thích Kế Quang (1528-
1588) - viên đại tướng của triều nhà Minh sau này có đề cập trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân
Thư của ông viết ra rằng côn pháp của Thiếu Lâm lúc đó vang danh khắp miền Nam Bắc
Trung Hoa với danh hiệu Thiếu Lâm Đệ Nhất Côn Pháp.
Cũng cùng thời gian này có một viên đại tướng khác nữa của triều Minh là Du Đại Du
((1503-1579) là bạn thân với Thích Kế Quang cũng xuất bản tác phẩm Kiếm Kinh (thuật
sử dụng Kiếm và Đao) vào năm 1565 có ghi lại thuật đánh trường côn của chùa Thiếu
Lâm.
Trong suốt thời nhà Minh (1368 – 1644 T.L.), võ phái Thiếu Lâm tự ở vào thời hưng
thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung
Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, sau khi học võ thuần thục với hai vị thiền sư Thiếu
Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về côn pháp, vào thời vua
Minh Vạn Lịch (1573 – 1616 sau T.L.).

Hai vị đại tướng này của triều nhà Minh chính là những người đã lãnh đạo quan quân
triều đình lúc đó đánh dẹp sự xâm lăng của các quân đoàn Hải Tặc Nhật Bản (còn gọi là
giặc Nụy Khấu thường hay quấy nhiễu các bờ biển của Trung Hoa. Sự kiện lịch sử này có
được ghi lại trên các bức tường trong chùa Thiếu Lâm Tung Sơn kể về sự hy sinh anh
dũng của các tăng nhân Thiếu Lâm tự lần thứ hai xuất chinh giúp triều đình phong kiến
Trung Hoa (xem trong các trang website tiếng Anh của Hồng Quyền của Lâm Thế Vinh).
Lịch sử cũng kể lại (chứ không phải là truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian) rằng
thuở thiếu thời Triệu Khuông Dẫn lúc còn chưa lên làm hoàng đế Trung Hoa sau này mở
ra triều đại nhà Tống, ông đã từng lên Thiếu Lâm tự để học tập võ thuật, và trở thành một
quyền sư dạy võ thuật trong chùa Thiếu Lâm sau khi sáng tạo ra Tam Thập Lục Thế
Trường Quyền (36 thế đánh của Thiếu Lâm Trường Quyền) mà sau này gọi là bài Thiếu
Lâm Thái Tổ Trường Quyền (xem tài liệu Nam Quyền Toàn Thư đã dẫn như trên).
Sử liệu thời nhà Tống cũng ghi nhận lại là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn là người rất
giỏi sử dụng côn pháp khi lâm trận và nghệ thuật sử dụng côn pháp của ông rất điêu
luyện như các vị đại tướng của ông sử dụng các loại binh khí khác.
Tuy nhiên có một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian mà chùa Thiếu Lâm cũng công
nhận là bài Thái Tổ Trường Quyền của Triệu Khuông Dẫn soạn ra do ông ta nằm mơ
được Tiên Ông dạy cho 36 động tác căn bản của Hồng Quyền rồi tỉnh dậy theo đó mà
soạn lại. Giả thuyết này không thể tin cậy được mà chỉ coi là câu chuyện kể nghe cho vui
mà thôi. Chỉ có bài quyền này do chính Triệu Khuông Dẫn soạn ra còn lưu truyền đến
ngày nay là thật sự cho biết thuở sơ khai Thiếu Lâm quyền có bộ mặt và dung nhan như
thế nào để làm nguồn tra khảo vết tích của Thiếu Lâm quyền với đời sau. Ở mục Quyền
Kinh trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư của Thích Kế Quang có nói rõ về bài quyền này
do Triệu Khuông Dẫn là tác giả.
Cũng trong thời kỳ này (thời nhà Tống) ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn có một vài sự kiện
đáng lưu ý là các nhà sư bắt đầu tổng hợp các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay
không, một thể loại chiến đấu đang được lưu truyền trong dân gian ở Trung Hoa lúc đó.
Có thể kể ra một số bài quyền ra đời trong thời kỳ này là bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng
Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền và Khán Gia Quyền của hòa thượng Phúc Cư
tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn, (xem Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư trọn bộ 23 tập -

Nguyên tác Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể
Thao - Hà Nội).
Như vậy Hồng quyền của Thiếu Lâm đã xuất hiện ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam rất
sớm trước khi Hồng quyền của Hồng Hy Quan thuộc dòng Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến
của Chí Thiện Thiền Sư xuất hiện vào giữa triều đại nhà Thanh sau này ở Quảng Đông.
Quyền thuật Trung Hoa và Thiếu Lâm Quyền
Theo các tài liệu Khảo Cổ Học của các nhà Khảo Cổ Học ở Trung Hoa cho biết rằng
những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương là dấu vết cho thấy phương thuật (Giốc-
Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà Thương (năm 1600
TCN-1027 TCN, nghĩa là trước Thiên Chúa giáng sinh).
Trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí" có nói đến "Binh Kỹ Xảo", tổng cộng 13 thiên, ở
thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ Bác (võ đánh tay đá chân) mà ngày nay chúng ta
gọi là quyền cước được liệt kê vào mục "Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trong việc huấn luyện
các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không cho binh sĩ. Trong mục "Vũ Đế Ký"
có ghi chép lại rằng: " Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba (năm 113 B.C, trước
Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ truyền) " cũng như
ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: " Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ Dẫn, gồm có mười
hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn".
Như vậy có thể thấy rằng võ thuật Trung Hoa thời thượng cổ và cổ đại (trước thời nhà
Tần (221 TCN - 206 TCN) trước Thiên Chúa giáng sinh) cho đến thời nhà Hán (206
TCN-220) đã xuất hiện các thể loại võ thuật bao gồm hai thể loại: Giốc Để (mà ngày nay
ta gọi là đấu vật) và Thủ Bác (ngày nay ta gọi là quyền cước).
Nhưng đồng thời cũng phải nhận rằng nhờ có Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm mà các
bộ môn quyền thuật của Trung Hoa được tích hợp và tinh tuyển lại theo những đặc trưng
khu biệt tùy theo cá tính nổi trội của từng địa phương mà vẫn không đi ra khỏi lề lối và
khuôn phép chung của Thiếu Lâm quyền.
Nếu theo những cứ liệu khảo sát trên như vậy thì cũng chưa có nguồn tài liệu nào xác
minh rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo ra Dịch Cân Kinh. chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam
cũng chưa bao giờ công bố nguồn tài liệu nào của mình ngay tại chùa để xác minh sự
kiện này là chính xác. Có nhiều tài liệu còn tìm cách chứng minh rằng Dịch Cân Kinh

được chế tác vào thời nhà Minh hoặc nhà Thanh là khoảng thời gian mà Thiếu Lâm
quyền đang trong thời kỳ phát triển hưng thịnh nhất so với các thời kỳ trước đó vì căn cứ
vào thể loại văn phong và cú pháp (phép đặt câu và sử dụng ngôn từ) đã cho biết Dịch
Cân Kinh không thể được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy, nhà Tùy hay nhà Đường (xem
bài Dịch Cân Kinh - Nguồn gốc, Phương Pháp và Ngụy Tạo của Bộ Giáo Dục Việt Nam
2007 phía dưới bài này trong mục Liên Kết Ngoài-Tham Khảo).
Tài liệu này còn cho biết như sau:
" Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật Giáo trên thế giới, không một ngôi chùa
nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu Lâm của
bên Trung Quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói,
được tôn sùng bằng ngài Bồ Đề Đạt Ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là
một trong những người đã đem Thiền công vào Trung Quốc, và làm cho quảng bá.
Ghi chú:
Trung-Quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu Lâm.
1. Hà Nam Đăng Phong Tung Sơn Thiếu Lâm tự,
2. Hà Bắc Bàn Sơn Thiếu Lâm tự,
3. Phúc Kiến Toàn Châu Nam Thiếu Lâm tự,
Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những
bộ Thiền công, Khí công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Pháp Tẩy
Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu Lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-Hiến xuất
bản xã Bắc Kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:
"Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân Kinh nói là nội công Thiếu Lâm, rồi được lưu
truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú
pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời nhà Thanh Khang
Hy (1662-1723), Ung Chính (1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang Tự (1875-1909),
chính Phúc Sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung Sơn Thiếu Lâm tự, người
ta mạo ra tập Nội công đồ, phổ biến rất rộng".
Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí công do các Đạo gia Trung Quốc soạn ra vào
cuối đời nhà Minh hay đầu đời nhà Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê
sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách

Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm.
Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên Long Bát Bộ, thì bộ kinh
này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm
thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, chút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân Kinh
không biết là ai.
Dịch Cân Kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim Dung lại cho nhân vật tiểu
thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có
lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chính xác, rồi ông cũng và
gán cho tác giả là ngài Bồ Đề Đạt Ma của chùa Thiếu Lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế
kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền
thoại, không có thực.
Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt Nam, chưa hề thấy bản
Dịch Cân Kinh trên, họ bịa ra nhiều bản Dịch Cân Kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên
quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt Nam, ngay khi ra
ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân Kinh, bằng tiếng
Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập
bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung thư gan, lao, thận,
Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác
của Dịch Cân Kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa
Thượng Hải, Giang Tô, Hồ Nam, Phúc Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ
Thiếu-Lâm ở Hong Kong, Đài Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này
là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975. "
Đó thật sự là sự thực phũ phàng và đau lòng cho niềm tin cao cả vô bờ bến của con
người.
Các bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam rất dễ nhận ra so với các hệ quyền của
Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu Lâm sau này ở chỗ bài quyền chỉ di chuyển về hai bên trái
và phải đó là đặc điểm của các bài quyền từ thời nhà Bắc Ngụy, nhà Tùy, nhà Đường,
nhà Tống kéo dài đền đầu thời kỳ nhà Minh. Đó là các bài sau:
 Các bài thời nhà Bắc Ngụy đến thời nhà Tống:
o Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam: Tâm Ý Quyền, Tâm Ý Bả, La Hán Thập

Bát Thủ, Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Khán Gia
Quyền, Ngũ Hợp Quyền,Thái Tổ Trường Quyền, Tiểu La Hán Quyền, Đại
La Hán Quyền, Kim Cương Quyền,
o Bắc Thiếu Lâm: Đàm Thoái Quyền, Tra Quyền hay Soa Quyền,
 Các bài thời nhà Nguyên đến đầu nhà Minh:
o Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:La Hán Quyền, Mai Hoa Quyền, Ngũ Lộ
Mai Hoa Quyền, Liên Hoa Quyền, Ngũ Hình Quyền,
o Bắc Thiếu Lâm: Phách Quải Quyền, Binh Bộ Quyền của các võ quan thời
nhà Minh,
 Các bài cuối thời nhà Minh đầu thời nhà Thanh:
o Bắc Thiếu Lâm: Địa Đàng Quyền, Hình Ý Quyền, Hoa Quyền hay Hóa
Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh, …
o Nam Thiếu Lâm: Ngũ Hình Quyền, Cung Tự Phục Hổ Quyền, Hổ Hạc
Song Hình Quyền, Thập Hình Quyền, Thiết Tuyến Quyền, Thập Tự Quyền,
Tứ Môn Quyền, Phá Sơn Quyền, Hồng Quyền, Tiểu Phục Hổ Quyền, Đại
Phục Hổ Quyền, Dạ Hổ Xuất Lâm, Nhị Long Tranh Châu, Hắc Hổ Quyền,
Vạn Tự Quyền, Bạch Hạc Quyền, Quý Châu Quyền, Bát Bộ Liên Hoa
Quyền Quý Châu Thiếu Lâm
Trong khi đó các bài quyền của Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu Lâm sau này sau khi dạo
quyền và bái tổ thường có khuynh hướng khai triển theo hai hướng chéo trước mặt đi lên
về hai hướng trái và phải, và nói chung bài quyền thường di chuyển đủ bốn hướng chính
Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn hướng phụ Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam mà
chủ yếu thường di chuyển nhiều về bốn hướng phụ, ví dụ bài Cung Tự Phục Hổ Quyền,
Hổ Hạc Song Hình Quyền của Nam Thiếu Lâm, Thạch Sư Quyền của Nam Quyền Thiếu
Lâm Bạch Mi và các bài quyền của Bắc Thiếu Lâm như Đường Lang Quyền,
Nếu quan sát kỹ lưỡng các bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, Bắc Thiếu Lâm
Sơn Đông, Nam Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến ta rất dễ nhận ra một đặc điểm chung
là: rất coi trọng các thế tấn khi di chuyển (các mũi bàn chân luôn khép kín không bao giờ
mở ra như các phái võ khác), tính đối xứng rất cao, nghĩa là luôn luôn có trên có dưới, có
trước có sau, có nhanh có chậm, có cương có nhu, có lúc ào ạt vũ bão nhưng có lúc nhẹ

nhàng như lá rụng mùa thu. Cực nhu nhuyễn nhưng cũng cực kiên cương với nguyên lý là
“Miên Lý Tàng Kim’’ nghĩa là ngoài mềm trong cứng, trong bông gòn có thép. Còn điểm
khác biệt giữa các môn quyền thì tính đối xứng được phân bổ theo độ dài ngắn của các
tiết đoạn trong bài quyền tùy theo đặc tính nổi trội của từng địa phương.
Từ khi Thiếu Lâm quyền ra đời bắt đầu từ thời Bắc Ngụy của Hiếu Văn Đế và nhà Tùy,
các bộ môn quyền thuật Trung Hoa được lưu truyền trong dân gian đã được đúc kết thành
nguyên lý võ thuật tổng quát cho Thiếu Lâm quyền và võ thuật Trung Hoa nói chung:
Âm Dương - Cương Nhu - Hư Thực - Động Tĩnh.
Có thể nhận xét khách quan rằng Tính tích hợp và Tính khu biệt tức là đặc trưng hóa
những đặc tính nổi trội địa phương là hai xu hướng đối lập trong một chỉnh thể thống
nhất của Phép Biện chứng của Thiếu Lâm quyền.
Thiếu Lâm Quyền thời Tống – Nguyên
Theo tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” được viết tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Hà
Nam thì Thiếu Lâm Quyền lúc sơ khai đã được phát triển bởi các võ tăng trong chùa từ
lúc chùa mới xây thời nhà Bắc Ngụy vua Hiếu Văn Đế (xem tài liệu Thiếu Lâm Bách
Khoa Toàn Thư, trọn bộ 23 tập, tập 1 Thiếu Lâm Các Bài Quyền Cơ Bản, Nguyên Tác
Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao – Hà
Nội ngày 12 tháng 11 năm 2002, nhà sách Hoa Niên - số 494 đường Nguyễn Thị Minh
Khai, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh - phát hành).
Các bài quyền trong thời kỳ sơ khai này có thể kể ra như Tâm Ý Quyền, Tâm Ý Bả, v.v …
ban đầu rất đơn giản và đã được hoàn thiện ngay sau khi được sáng tác bởi các võ tăng
Thiếu Lâm tự. Các bài quyền này được truyền dạy bảo mật trong chùa và không được
phép lưu truyền ra ngoài, chỉ có các vị Thiền Tăng bế môn không xuất ngoại thuộc Đạt
Ma Viện và các tu viện, thiền phòng trong chùa mới được truyền thụ để gia tăng thể lực
phục vụ cho quá trình tu hành.
Đó là nguyên nhân làm cho Thiếu Lâm Quyền trở thành một thứ gì đó giống như là một
bí thuật cao siêu trong một thời gian dài từ thời nhà Tùy (581–618) cho đến thời nhà
Đường tạo nên một danh tiếng huyền ảo rằng đó là một “Vùng Thánh Địa của các bộ
môn quyền thuật Trung Hoa” cứ như thể chùa Thiếu Lâm là một nơi duy nhất phát tích
võ thuật Trung Hoa mà dấu ấn của nó ngày nay còn nằm trong các truyền thuyết được lưu

truyền trong dân gian ở Trung Quốc, thường hay được đưa vào các loại tiểu thuyết và
phim ảnh võ hiệp Hồng Kông. Các truyền thuyết này lâu ngày trở thành một niềm tin
giống y hệt như là niềm tin tôn giáo hay niềm tin đạo đức và chính trị.
Ngay cả hai viên đại tướng Thích Kế Quang (tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư) và Du Đại Du
(tác phẩm Kiếm Kinh) thời nhà Minh sau này cũng nghĩ rằng quyền pháp của Thiếu Lâm
rất kém và chỉ có côn pháp mà thôi.
Lịch sử chùa Thiếu Lâm cũng ghi nhận rằng các triều đại của nhà nước phong kiến Trung
Hoa cho phép chùa được phép xây dựng các đoàn Binh Tăng để bảo vệ chùa với lý do
rằng chùa thường xuyên bị bọn lục lâm thảo khấu và nạn đạo tặc địa phương hoành hành
chùa vì chùa được nhà nước cấp đất đai rất lớn và nhiều tài sản trong chùa được các vị
hoàng đế Trung Hoa và các phật tử bốn phương quyên góp tặng cho rất nhiều.
Cho đến nay chưa có một ngôi chùa nào to lớn và có lịch sử đặc biệt lâu đời còn sót lại từ
thời phong kiến cổ đại ở phương Đông như chùa Thiếu Lâm. Lịch sử Phật giáo cũng ghi
nhận như vậy và nơi đây chính là Tổ đình của Giáo Phái Phật Giáo Thiền Tông bởi vì
Phật Giáo và Đạo Giáo (một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại suy tôn Lão Tử làm
sư tổ, chuyên luyện các bí thuật trường sinh bất lão như phép đạo dẫn (luyện hơi thở - hô
hấp) và luyện kim đan) ở Trung Hoa không được các nhà nước phong kiến coi trọng lắm
mặc dù không hạn chế nó và cũng do học thuyết của hai giáo phái này không phục vụ cho
nền chính trị của giai cấp quí tộc phong kiến (Nobble class) như là học thuyết của Nho
Giáo (Confucianism). Sự kiện Bồ Đề Đạt Ma triều kiến Lương Vũ Đế và học thuyết tư
tưởng của trường phái triết học Nho Gia được làm hệ tư tưởng chính thống cho các nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền ở Trung Hoa và các nước lân cận trong khu vực
xung quanh Trung Hoa mà chịu chi phối của nền văn hóa Hán Nho đã cho thấy điều đó.
Cũng theo tài liệu trên cho biết các bài quyền trên được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy
trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm trụ trì và thuyết pháp.
Như vậy truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh
(tục gọi là Dịch Cân Kinh) và La Hán Thập Bát Thủ làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm
Quyền đã bị chính chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn (Hà Nam) bác bỏ. Điều này rất hợp lý và
phù hợp với lịch sử hình thành của ngôi chùa này vì chúng ta đã biết rằng các môn võ
đánh đá chân tay mà ngày nay chúng ta gọi là quyền cước hay quyền thuật đã được lưu

truyền trong dân gian ở Trung Hoa từ thời cổ đại trước khi chùa Thiếu Lâm được xây
dựng và trước khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa qua các tài liệu khảo cổ lưu trữ
của các học giả Trung Hoa hiện nay.
Theo tài liệu quyền phổ trên thì rõ ràng các bài quyền của nhà chùa có trước cả Dịch Cân
Kinh trong khi các tài liệu bên ngoài chùa ở Trung Hoa Đại Lục và bên ngoài Trung Hoa
Đại Lục cứ thường cho rằng Dịch Cân Kinh là những động tác cơ sở nền tảng cho các
chiêu thức quyền thuật của Thập Bát La Hán Quyền - là bài quyền đầu tiên thủy tổ cho
các bộ môn quyền thuật Thiếu Lâm và tất cả các bộ môn quyền thuật Trung Hoa sau này
(?).
Thậm chí người ta còn gán cho Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Kinh trên cơ sở kết
hợp phương pháp luyện thở (hô hấp) của Yoga (một trường phái triết học Ấn Độ cổ đại)
và môn võ của Ấn Độ chuyên sử dụng tay chân gọi là Cửu Long.
Sự lầm lẫn (hay là cố ý lầm lẫn) tai hại trên đã làm tiêu tốn không biết bao nhiêu công
sức và bút mực của các học giả và các nhà khảo cứu khi tìm hiểu về văn hóa Trung Hoa
qua các tài liệu chuyên khảo.
Như vậy có thể nói rằng võ thuật Trung Hoa được sáng tác ở trong dân gian từ thời Trung
Hoa cổ đại trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm hoằng dương Phật pháp.
Sau khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa, thật sự mới bắt đầu có sự kết hợp giữa hai môn võ thuật
truyền thống dân gian của Trung Hoa và Ấn Độ và đi đến một hệ thống qui chuẩn sau
này gọi là Thiếu Lâm Quyền.
Tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” cũng cho biết các bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng
Quyền, Thông Tý Quyền, và Kim Cương Quyền, được sáng tác vào khoảng đầu thời
nhà Tống cùng một khoảng thời gian với bài Tam Thập Lục Thế Trường Quyền do Triệu
Khuông Dẫn sáng tác mà sau này được đổi tên thành Thái Tổ Trường Quyền.
Bài La Hán Thập Bát Thủ (cũng từ nguồn tài liệu trên), gồm 10 lộ sau này (tức là 10 bài
quyền) làm thành một bộ quyền thuật hoàn chỉnh nhất trong nhiều bộ quyền thuật của nhà
chùa, được sáng tác vào thời nhà Tùy ban đầu có 18 động tác tay (nghĩa là sau khi Bồ Đề
Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm) bởi các võ tăng chính tông chùa Thiếu Lâm sáng tạo ra để
giúp cho các vị sư tăng bế môn tọa thiền có thêm các phương pháp gia tăng sức khoẻ trên
con đường tu đạo.

Đến thời nhà Đường bài quyền này được phát triển thành 36 động tác tay, vào cuối thời
nhà Tống đầu thời nhà Nguyên, nhà sư Giác Viễn, Thu Nguyệt (pháp danh của Bạch
Ngọc Phong), … đã phát triển lên đến 173 thế và sau đó Bạch Ngọc Phong (vào thời nhà
Nguyên) dựa vào đó kết hợp với các động tác mô phỏng có tính tượng hình cao của năm
con vật (tục gọi là Ngũ Linh Thú) gồm Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc sáng tạo nên Ngũ Hình
Quyền. Bài quyền này sau này được xem như là Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy của Thiếu
Lâm tự Tung Sơn (Hà Nam) làm cơ sở cho các bài Ngũ Hình Quyền của Nam Quyền
Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến và Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật (Hồng, Lưu, Lý,
Mạc, Thái) và Thiếu Lâm Vịnh Xuân (còn gọi là Vịnh Xuân Quyền) ở Quảng Đông vào
thời Minh – Thanh sau này.
Thiếu Lâm Quyền thời Minh - Thanh
Vào đầu thời Minh – Thanh, quyền thuật Thiếu Lâm đã phát triển rất mạnh mẽ cùng với
sự hình thành của các võ phái khắp miền Nam - Bắc Trung Hoa như Võ Đang (Wu Tang
Kungfu), Nga Mi (Emei Kungfu), Thiếu Lâm Côn Luân, Thiếu Lâm Không Động, v.v.
…, cùng với các bộ môn quyền thuật mới của các môn đồ Bắc Thiếu Lâm vùng Sơn
Đông, Hoa Bắc và Nam Thiếu Lâm ở Toàn Châu (Phúc Kiến), Quảng Đông, Hoa Nam
sau khi tinh tuyển các môn quyền thuộc các phái võ dân gian Trung Hoa vô danh đang
lưu truyền tại các địa phương nhỏ. Đây mới chính là thời kỳ “Trăm Hoa Đua Nở” của võ
thuật Trung Hoa giống như thời Xuân Thu – Chiến Quốc mà lịch sử gọi là thời của “Bách
Gia Chư Tử” (trăm nhà học thuật) của các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại.
Sự phát triển võ thuật của các võ phái Trung Hoa và Thiếu Lâm vào thời nhà Minh gắn
liền với phong trào đánh đuổi giặc “Thát Đát” (người Mông Cổ) và sự kiện Chu Nguyên
Chương sáng lập ra nhà Minh lấy hiệu là Minh Thái Tổ.
Có một số tài liệu viết một sự kiện rằng Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã từng học
võ tại chùa Thiếu Lâm như Tống Thái Tổ và đã để lại bút tích do chính ngài thủ bút tại
bia đá ở cổng chùa. Nguồn tài liệu này cũng không cho biết đã dẫn từ những nguồn tài
liệu nào – chính sử hay dã sử nên chưa thể xác minh lại được và ngay tại bia đá cổng
chùa của Thiếu Lâm tự Tung Sơn cũng chưa hề nghe ai nhắc nhở đến sự kiện này có thật
hay không.
Sự phát triển võ thuật của các võ phái Thiếu Lâm vào thời nhà Thanh gắn liền với phong

trào “Phản Thanh Phục Minh” và sự ra đời của các bang hội kín (Secret Societies) như
Hồng Môn lấy Hồng Quyền (Hung Kuen hay Red Fist) làm nền tảng quyền pháp mà
xưng danh, tục gọi là Hồng Bang Hội (Hung Mun hay Red Association) và Thiên Địa
Hội (The Heaven and Earth Society), v.v. …
Bài La Hán Quyền không phải là 10 lộ La Hán Thập Bát Thủ. Bài La Hán Quyền này
được sáng tác vào thời nhà Minh – nhà Thanh khoảng cùng thời với các bài Hầu Quyền,
Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền, Mai Hoa Quyền, Liên Hoa Quyền tại Thiếu Lâm Tung Sơn (Hà
Nam) bởi vì các động tác quyền thuật trong các bài quyền này đã có một bước tiến đáng
kể trong các động tác của thủ hình (thủ pháp) phức tạp hơn với những loại thủ hình mới
như Hầu Thủ, Xà Hình Thủ Pháp, Liên Hoa Thủ, Cầm Nã Thủ là những chiêu thức thủ
pháp thuộc loại Nhu Quyền (Soft Boxing) rất thịnh hành vào thời Minh – Thanh chuyên
nhấn mạnh đến lực ly tâm của các đường quyền chuyển động theo hình vòng tròn dùng
để hóa giải các loại Cương Quyền (Hard Boxing) thường vận động theo đường thẳng.
Đây cũng chính là cơ sở để Chí Thiện Thiền sư (thuộc dòng quyền thuật Nam Thiếu
Lâm) sáng tác ra kỹ thuật Trường Kiều với lối đánh cho tay quyền đấm theo đường vòng
cung như bộ môn quyền Anh của phương Tây sau này, chỉ khác là kỹ thuật Trường Kiều
yêu cầu hai cánh tay phải luôn thẳng khi xuất quyền.
Bài quyền nổi tiếng nhất thời nhà Minh của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam là bài Ngũ Lộ
Mai Hoa Quyền được phát triển cùng với bài La Hán Quyền trên cơ sở các loại thủ hình
mới là Cầm Nã Thủ và Liên Hoa Thủ nhưng lại nổi tiếng hơn bài La Hán Quyền vì các bộ
tấn của bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền đòi hỏi các môn đồ Thiếu Lâm khi tập luyện phải di
chuyển trên trận đồ Mai Hoa Thung – Thung có nghĩa là các cọc gỗ cao 2-3 mét có
đường kính từ 30-40 phân xếp thành hình hoa mai, đây là một sáng kiến mới lạ và vô
cùng độc đáo của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam và phương pháp này sau đó mau
chóng khích lệ các bộ môn quyền thuật Bắc Thiếu Lâm như Hình Ý Quyền – còn gọi là
Lục Hợp Quyền - của phái Thiếu Lâm Vy Đà (tục gọi là Vy Đà Môn) của dòng họ Vạn
Lại thuộc vùng Hoa Bắc và Hạc Quyền của Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia của
Phương Thế Ngọc, Bạch Hạc Quyền của phái Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc phát triển trên
Thiên Cương Mai Hoa Thung. Phương pháp luyện quyền trên Mai Hoa Thung Trận sau
này đã nhanh chóng trở thành sở trường nghệ thuật lưu diễn cho các đoàn Lân-Sư-Rồng

của các phái võ Nam Thiếu Lâm ở Quảng Đông, đó là biểu diễn Lân-Sư-Rồng trên Mai
Hoa Thung Trận. Thậm chí có nhiều quyền sư Nam - Bắc Thiếu Lâm còn đề nghị bịt mắt
bằng một tấm vải đen để luyện quyền trên Mai Hoa Thung.
Cũng như các bài quyền thời nhà Tống và nhà Nguyên, các bài quyền của Thiếu Lâm
Tung Sơn Hà Nam thời nhà Minh và nhà Thanh như bài La Hán Quyền và Ngũ Lộ Mai
Hoa Quyền kể trên chỉ di chuyển theo phương ngang bên trái và bên phải so với hướng
trục chính diện của người luyện.
Công lao của Thích Kế Quang và Du Đại Du được ghi nhận cho đời sau là việc hệ thống
các thế quyền căn bản của các dòng quyền thuật trong dân gian, sau đó phổ biến lại cho
các nhà sư Thiếu Lâm nhiều chiêu thức tinh diệu và hữu hiệu. Các chiêu thức này vẫn
còn ở các bài quyền của Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền ngày nay. Ngoài ra ông
còn đưa thêm các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp (chiến đấu tập thể) vào quyền thuật.
Có thể kể ra một số tư thế chiêu thức của hai môn quyền này xuất phát từ Thích Kế
Quang như sau: Bạch hạc lượng sí, Bài cước, Bạch xà thổ tín, Bạch viên hiến quả, Bạch
vân cái đỉnh, Triều thiên, Đơn tiên, Kim Kê độc lập, Hoài Trung Bão Nguyệt, Tảo Phong
Cước, Ngọc Nữ Xuyên Thoa, Khóa Hổ, Tấn Bộ Ban Lan Chùy, Cao Thám Mã,
Các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp được viên đại tướng này đưa vào quyền thuật như
sau:
1. Nguyên lý "Thường sơn xà trận pháp" chép lại từ Tôn Tử binh pháp (thế kỷ thứ 5
trước Tây Lịch) được ông áp dụng trong quyền thuật: "chánh như Thường sơn xà
trận pháp, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, đánh thân thì
đầu và đuôi tương ứng" (chánh như Thường sơn xà trận pháp, kích đầu tắc vỹ
ứng, kích vỹ tắc đầu ứng, kích kỳ thân nhi đầu vỹ tương ứng).
2. Chiến thuật trá bại được trình bày trong ba chương: quyền, côn và thương. Đó là
ba thế "Đảo kỳ long", "Tẩu mã hồi đầu thức" và "Dương du trá hồi thương pháp".
Đây là chiến thuật giả bộ thua chạy dụ địch đuổi theo để xoay người đánh một
quyền hay đâm một thương, còn lưu lại trong các bài binh khí như Trung Ương
Quốc Thuật Quán Tam tài kiếm, Tinh Võ Hội Ngũ hổ thương, Thất Tinh Đường
Lang Yến Thanh đơn đao, Vĩnh Xuân Bạch Hạc Song long xuất thủy song đao,
Trần Gia Thái Cực Thập tam can, Trần Gia Thái Cực Xuân Thu đại đao Quyền

thuật tại hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, có thế giả thua xoay lưng chạy rồi
ngồi xuống đất để bất thình lình xoay người lại ném cát vào mắt địch hay nhảy lên
đá vào hạ bộ đối thủ, thế có tên là "Linh miêu hí thử" (mèo đùa giởn với chuột !).
3. Nguyên lý "hư thật" và "kỳ chánh" xuất từ Tôn Tử binh pháp được áp dụng trong
quyền thuật. Hư thật và kỳ chánh chỉ sự dối trá để lừa địch, đòn đầu là hư và đòn
sau là thật. Nhưng hai đòn đầu cũng có thể là hư chỉ đòn thứ ba và thứ tư mới là
thật, đây là "Hư hư thật thật" hay "Kỳ kỳ chánh chánh". Địch không biết lúc nào
là hư lúc nào là thật !
4. Khái niệm "tiểu môn" và "đại môn" là nền tảng của võ thuật Trung Quốc. Muốn
tấn công địch như muốn vào nhà, muốn vào nhà thì ta phải mở cửa, nhà xưa đều
có hai cửa: cửa trước và cửa sau. Đại môn là khoảng cách giữa hai tay, là cửa
trước, tiểu môn là hông hay lưng địch, là cửa sau. Đường đi vào đại môn ngắn
hơn nhưng nguy hiểm hơn vì địch có thể phản công dễ dàng. Ta tấn công vào đại
môn khi ta ra đòn trước, khi thế lực ta mạnh hơn. Khi đòn địch không nằm trên
trung tâm tuyến thì ta tiến vào cửa chánh vừa đỡ vừa tấn công.
Thường ta chờ địch tấn công để kéo tay địch qua một bên buộc địch mở tiểu môn để ta
xâm nhập, như Thích Kế Quang giải thích trong thế "Phao giá tử". Đây là nguyên lý rất
quan trọng trong võ thuật Trung Hoa. Bát Quái Chưởng vừa niêm kéo tay địch qua một
bên vừa chạy qua bên kia để đánh vô lưng địch. Vịnh Xuân né mình qua bên và hất tay
đối thủ để tấn công vào bên hông. Bắc Phái Đường Lang Quyền tiến vào trung môn kéo
tay địch qua bên để tấn công.
 Khi ta nghiên cứu qua 32 thế quyền của đại tướng, ta có thể thấy vài chiến lược
khác như "Thanh đông kích tây" (Làm tiếng động hướng đông nhưng đánh hướng
tây) và "Thượng kinh hạ thủ" (Làm địch sợ hãi ở trên để tấn công ở dưới).
 Và nguyên lý quan trọng khác là "tiệt đả", hiện nay là căn bản của võ thuật Trung
Quốc: vừa tiếp đón đòn địch lúc chưa phát triển trên đường chính diện (trung tâm
tuyến), vừa phản công.
Mối liên hệ giữa Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền
Có nhiều tài liệu khảo cứu cho biết rằng giữa Thái Cực Quyền (Tai Chi Chuan) và Thiếu
Lâm quyền có cùng chung một nguồn gốc và có ảnh hưởng lẫn nhau. Các tài liệu đưa ra

những dẫn chứng như bài Pháo Trùy trong Thái Cực Quyền Nguyên Thủy và bài Pháo
Trùy trong Thiếu Lâm quyền Tung Sơn Hà Nam là một và tên Thiệu các chiêu thức cũng
là một
[2]
.
Tuy nhiên nếu ai đã học cả hai loại quyền thuật của Thái Cực Quyền và Thiếu Lâm
Quyền đều biết những Yếu Lý Quyền Pháp của hai dòng quyền này là một
[3]
. Sự khác biệt
trong phong cách thể hiện chỉ là biểu hiện khuynh hướng bề ngoài mà thôi. Đặc biệt là
phương pháp Vận Khí Kình trong quyền thuật của hai loại quyền thuật này cùng một
phương pháp như nhau.
Có nhiều tài liệu cho rằng Thái Cực quyền là của Trương Tam Phong (Trương Quân
Bảo) là môn đồ của Thiếu Lâm Tự Tung Sơn Hà Nam sau này sáng lập ra võ phái Võ
Đang. Song, đây là truyền thuyết không đáng tin cậy
[4]
. Làng Trần Gia Câu không có
liên quan gì đến giả thuyết về Trương Tam Phong cả và Thái Cực quyền ngày nay chính
là Thái Cực quyền xuất xứ tại làng Trần Gia Câu, Hà Nam.
[5]
. Thái Cực quyền của làng
Trần Gia Câu do Trần Vương Đình sáng tạo chính là nguồn gốc của Thái Cực quyền
ngày nay.
Các hệ phái của Thiếu Lâm Quyền
Trong Thiếu Lâm Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc
trưng:
 Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:
o
 La Hán Thập Bát Thủ
 La Hán Quyền

 Tiểu La Hán Quyền
 Đại La Hán Quyền
 Tiểu Hồng Quyền
 Đại Hồng Quyền
 Thông Tý Quyền
 Triều Dương Quyền
 Thất Tinh Quyền
 Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền
 Liên Hoa Quyền
 Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)
 Tâm Ý Bả
 Tâm Ý Quyền
 Ngũ Hợp Quyền
 Khán Gia Quyền
 Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)
 Thái Tổ Trường Quyền
 Kim Cương Quyền

 Bắc Thiếu Lâm:
o
 Mê Tung Quyền
 Nhị Lang Quyền
 Thông Bối Quyền
 Phách Quải Quyền
 Phiên Tử Quyền
 Quan Đông Quyền
 Tra Quyền hay Soa Quyền
 Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền
 Bát Cực Quyền
 Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm

 Ưng Trảo Quyền
 Pháo Quyền
 Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn
 Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo
 Địa Đàng Quyền
 Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo

 Nam Thiếu Lâm:
o
 Thiếu Lâm Hồng gia
 Lưu Gia
 Lý Gia
 Mạc Gia
 Thái Gia
 Thiếu Lâm Bạch Mi

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×