Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) - 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.65 KB, 6 trang )

Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527)
1
Trong lịch sử xứ Thuận Hoá, người ghi dấu ấn rõ nét nhất đối với cư dân vùng này
thời kỳ đầu chính là công chúa Huyền Trân. Tháng 7 - 1306 là một mốc lịch sử
quan trọng, đem lại cho Đại Việt phần đất từ sông Hiếu (Quảng Trị) đến sông Thu
Bồn (Quảng Nam). Tất cả khởi đầu bằng một động thái ngoại giao khôn khéo của
Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Mùa hạ năm 1306, vua Chămpa xin dâng hai
châu Ô và Lý làm lễ vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân. Một giải đất xung yếu từ
bờ nam sông Hiếu đến bờ bắc sông Thu Bồn được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt
một cách hoà bình. Từ đó, tổ chức và hoạt động của bộ máy cai trị ở Hoá Châu
cũng hình thành và phát triển chung trong bộ máy nhà nước phong kiến tập quyền
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy cai trị cấp châu
Hoá Châu là một vùng đất mà quân Minh chú ý ngay từ khi vừa đánh chiếm Đại
Việt. Trương Phụ, tướng nhà Minh đã từng nói: “Tôi có sống được là ở Hoá Châu,
tôi có chết cũng ở Hoá Châu, Hoá Châu mà chưa bình định xong thì tôi còn cặp
mắt nào trông thấy chúa thượng nữa” (1). Vì thế, ngay khi chiếm Hoá Châu, quân
Minh đã đặt ách đô hộ khắc nghiệt trên toàn cõi Đại Việt. “Hai châu Thuận, Hoá
bị sáp nhập làm một châu Thuận Hoá, chỉ còn 79 làng, 1470 hộ và 5662 khẩu dân
đinh” (2).
Sau khi giành độc lập cho đất nước, nhiệm vụ trọng yếu của các vua thời Lê Sơ là
phải gấp rút xây dựng lại nền kinh tế vừa bị phá hoại nghiêm trọng, đồng thời phải
ổn định tình hình xã hội ở Hoá Châu. Năm 1428 vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng
thần vào trấn thủ Hoá Châu, với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam. Hơn
nữa, sau khi được giải phóng khỏi ách thống trị của giặc Minh, chế độ phong kiến
Việt Nam chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển cao độ
của chế độ phong kiến tập quyền. Sự tan rã của nền kinh tế điền trang và quan hệ
nông nô, nô tì đã thủ tiêu về căn bản những cơ sở phân tán trong xã hội cùng với
sự phát triển của kinh tế tiểu nông tạo điều kiện nâng cao mức độ tập quyền của
nhà nước phong kiến thời Lê Sơ. Trải qua các đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân
Tông, bộ máy nhà nước phong kiến ngày càng được củng cố và đến đời Thánh


Tông thì đạt tới đỉnh phát triển cao nhất của nó.
Bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Sơ là một hệ thống chính quyền chặt chẽ
nhằm chi phối xuống tận các địa phương và tập trung quyền hành vào tay triều
đình, đứng đầu là nhà vua. Lãnh thổ Đại Việt lúc bấy giờ mới bao gồm miền Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, cho đến sông Thu Bồn, miền phủ Thăng Hoa đã bị
quân Chămpa chiếm lại.
Năm 1427, vua Lê đã bố trí nhiều quan quân nhà Minh đầu hàng vào các xứ
Thanh Hoá, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá, còn “sai người Minh là Châu Sài
đem 340 con ngựa đến Hoá Châu chăn nuôi” (3). Vùng đất Hoá Châu ngay từ đầu
đã được nhà Lê rất quan tâm và tổ chức cai trị một cách chặt chẽ.
Ngay khi vừa lên ngôi, năm 1428, Lê Lợi đã chia cả nước thành 5 đạo để cai trị
thiên hạ: “trước kia nhà vua ra Đông Đô chia trong nước làm 4 đạo. Đến đây,
trong nước đã yên hẳn rồi, lại đặt thêm đạo Hải Tây. Cho Thanh Hoá, Nghệ An,
Tân Bình và Thuận Hoá đều lệ thuộc vào đó. Ở đạo thì đặt vệ quân, ở vệ thì đặt
tổng quản. Đơn vị to và nhỏ cùng gìn giữ cho nhau, cấp bậc trên và dưới cùng
ràng buộc lẫn nhau. Lại đặt Hành khiển ở các đạo chia giữ sổ sách quân và dân”
(4).
Nhà vua lấy Hoá Châu làm trọng trấn, triều đình thường phái các vị trọng thần vào
đó trấn thủ, ngoài đặt các chức lộ tổng quản và lộ tri phủ tại trọng trấn này (5).
Đứng đầu các Châu Hoá là một viên Tri châu và Đồng tri châu. Ngoài ra, còn có
các chức Phòng ngự sứ hay Chiêu thảo sứ. Năm Kỷ Dậu (1429) nhà vua lại: “chỉ
huy cho quan các lộ, huyện, xã rằng hễ ấn công thì do Chính quan giữ, ở lộ thì Tri
phủ giữ ấn, không có tri phủ thì Trấn phủ giữ ấn; các huyện thì Tuần sát giữ ấn;
nếu không có Trấn phủ, Tri phủ thì dùng Chiêu thảo hoặc Phòng ngự giữ ấn, có
việc thì cùng bàn với nhau, đáng đóng ấn thì mới đóng.
Nhìn chung, bộ máy cai trị thời Lê Thái Tổ vẫn còn sơ sài và phải dựa vào quy chế
tổ chức của các triều đại trước đó. Tuy vậy, so với thời Lý - Trần, bộ máy cai trị
thời Lê Thái Tổ đã có một bước tiến về mức độ tập trung chính quyền. Năm 1466,
vua Lê Thánh Tông đã chia lại các đơn vị hành chính trong địa phương. “Năm
Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông đặt ra 12 đạo thừa tuyên là Thanh

Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An
Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô. Đổi lộ
là phủ, đổi trấn là châu. Rồi sai các chức thừa tuyên xét núi sông chỗ mònh cai
quản làm thành địa đồ. Năm thứ 10 (1469) Kỷ Sửu, sửa định lại bản dồ trong nước
để thống thuộc các phủ huyện và thừa tuyên. Đến năm Tân Mão (1471), bình định
được nước Chămpa, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam cộng là 13 đạo” (7). Năm
đạo trước kia trở thành 12 đạo để hạn chế bớt quyền hành của chính quyền địa
phương. Tiếp theo đó, vua Lê Thánh Tông, lại đổi lộ thành phủ, đổi trấn làm châu.
Theo đó, Thuận Hoá gồm 2 phủ, 7 huyện, 4 châu. Trong đó phủ Triệu Phong lãnh
5 huyện (Hải Lăng, Vũ Xương, Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh) và 2 châu (Thuận
Bình, Sa Bôi). Riêng Hoá Châu quản 3 huyện Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh. Đứng
đầu Hoá Châu là một viên Tri châu. Ngoài ra còn có Đồng tri châu giúp việc.
So với thời Trần Hồ, bộ máy cai trị Hoá Châu thời Lê Sơ đã khá chặt chẽ và hoàn
chỉnh. Dưới thời Trần, đơn vị hành chính địa phương đã được chia lại từ 24 lộ thời
Lý làm 12 lộ. Dưới lộ là phủ, châu, huyện và xã. Hoá Châu được sáp nhập vào
lãnh thổ Đại Việt vào năm 1306, cai quản châu Hoá có một Tuần sứ. Hoá Châu
thời Trần quản 7 huyện là: Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ
Lãng và Thế Vinh với khoảng trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách. Đứng đầu châu là
một viên Đại tri châu.
Hoá Châu thời Trần tất nhiên chưa thể ổn định như thời Lê. Các vua Trần đã nhận
thức rõ vị trí xung yếu của châu Hoá, nên đã giao việc trấn thủ châu Hoá cho trọng
thần hay hoàng thân. Năm 1342, Hưng Hoá vương Trần Quốc Oai được cử làm
trấn thủ châu Hoá. Tháng 3 năm 1352, vua Chămpa là Bà La Trà Toàn kéo quân ra
đánh châu Hoá, quân trấn giữ chống cự khó khăn. Vua Trần Dụ Tông phải cử Tả
tham tri chính sự Trương Hán Siêu vào trấn thủ châu Hoá, ổn định tình hình trong
mấy tháng rồi trở về triều.
Mười năm sau, quân Chămpa lại sang cướp phá Hoá Châu, vua lại cử Đỗ Tử Bình
cầm quân tăng viện và tu bổ thành Hoá Châu kiên cố hơn. Hơn nữa để tăng cường
ổn định nơi biên viễn, vua Trần Nghệ Tông đã cắt một viên quan người địa
phương là Hồ Long làm Đại tri châu Hoá. Đến năm 1391, vua Trần Thuận Tông

cử Lê Quý Ly đi tuần châu Hoá, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hoá
mới ổn định.
Như vậy, việc tổ chức bộ máy cai trị ở châu Hoá đã được nhà nước phong kiến
quan tâm đúng mức. Song phải đến thời Lê Sơ thì bộ máy cai trị châu Hoá mới trở
nên hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn. Tổ chức bộ máy cai trị Hoá châu thời Lê đã được
kiện toàn.
Hoạt động chủ yếu của cấp châu thời Lê Sơ là việc quản lý chính sự, quân sự và
kiện tụng.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy cai trị cấp huyện
Dưới thời Trần - Hồ, đơn vị hành chính địa phương là huyện. Đứng đầu huyện là
một viên tri huyện. Dưới thời Trần, Hóa Châu có 7 huyện, với 40 xã, ấp, thôn, trại,
sách. Như vậy, huyện là đơn vị hành chính có từ thời Trần, huyện quản lý các xã.
Đến thời Lê Sơ, đơn vị huyện được tổ chức một cách tập trung hơn, bao gồm
nhiều xã hơn và quản lý chặt chẽ hơn. Năm 1466, dưới thời Lê Thánh Tông, ba
huyện Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh đã quản: Đan Điền 65 xã, 9 thôn, 6 sách, Kim
Trà 72 xã, 6 châu, 13 sách, 3 nguyên; Tư Vinh 43 xã, 18 thôn, 1 trang. Như vậy,
thời kỳ này Hoá Châu quản 180 xã (8).


×