Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nước Xích Quỷ - Việt - Sở, những nghi vấn nguồn gốc 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.15 KB, 5 trang )

Xích Quỷ - Việt - Sở, những nghi vấn nguồn gốc
2
Phần sau đây chúng ta sẽ phân tích riêng về nước Xích Quỷ.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [5] có chép:
'Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và
phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là
Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam
giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông
giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879
trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối
ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm
người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà
ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con
thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.''
Sau đó vẫn theo 'truyền thuyết' Lạc Long quân phong cho người con trai trưởng
làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
XÍCH QUỶ
'Quốc hiệu' nguyên thủy của nước Nam chính là Xích Quỷ. Theo 'truyền thuyết
giải mã', địa bàn 'nước' Xích Quỷ chính là địa bàn của khối Bách Việt ở phía Nam
sông Dương Tử. Không kể đến những chủng Việt khác đã sinh sống hàng trăm
hàng ngàn năm trước ở miền Hoa Bắc. Để ý thêm, bởi các tác giả truyền thuyết
thuộc chủng Âu (Thái-cổ), ta thấy toàn bộ truyền thuyết đã được viết riêng theo
quan điểm chủng Âu, tức gốc tổ người Mường. Viết y theo gia phả bên vợ của Lạc
Long Quân, đại diện chủng Lạc tức Việt-cổ.
Xin phép nhấn mạnh thêm một lần nữa: Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế
Nghi làm vua phương Bắc. Tác giả mập mờ không cho biết địa bàn phương Bắc
gồm những vùng đất nào, nhưng đến khi được biết 'ranh giới' Xích Quỷ chúng ta
có thể đoán ngay 'phương Bắc' bao gồm nhiều lắm là địa bàn tỉnh Hồ Bắc ngày


nay, tức phần lớn đất Kinh Việt, tức châu Kinh của nước Sở. Phương Nam của
nước Xích Quỷ do đó chỉ là một sản phẩm tiểu thuyết, của một truyện cổ tích lâm
ly. Bởi một khi đã xác định thời gian và không gian nhằm vào nước Sở ở thời
Xuân Thu Chiến Quốc, chúng ta có thể thu thập các dữ kiện lịch sử rất chắc chắn
như sau:
(i) Vào thời đó, ở miền Bắc sông Dương Tử, có đến trên 1000 nước lớn nhỏ khác
nhau, bao gồm nhiều bộ tộc chủng tộc khác nhau. Với tiếng nói và phong tục khác
nhau. Chỉ đến khi nước Tần trở nên hùng cường, diệt được Sở cùng với Hàn,
Triệu, Ngụy, Tề và Yên và nhất thống được nước Tàu, lúc đó hãy còn loanh quanh
ở Hoa Bắc, họ mới bắt đầu công cuộc Nam chinh, đánh vào các bộ tộc rợ miền
Hoa Nam.
(ii) Miền Hoa Bắc trước khi nhà Tần nhất thống đã là một hỗn hợp rất nhiều bộ
tộc và 'quốc gia'. Miền Hoa Nam của khối Bách Việt chắc chắn cũng y như vậy.
Sử sách chính thức của Tàu không bao giờ đề cập đến 1 nước nhất thống được tất
cả hằng trăm bộ tộc khác nhau của khối Bách Việt, ở Hoa Nam, trước và sau khi
nhà Tần, nhà Hán khởi động chiến tranh xâm lược miền Hoa Nam. Bởi ở lý do hết
sức đơn giản: Họ mãi lo chinh chiến ở miền Hoa Bắc nên hiểu biết rất ít về đám rợ
ở Hoa Nam.
Như vậy tên gọi Xích Quỷ chỉ là một sản phẩm của chuyện cổ tích, với một mục
đích đơn giản ghi lại cội nguồn của các chủng Bách Việt, đặc biệt hai chủng 'chủ
lực' đã cuối cùng định cư tại đất Bắc Việt ngày nay: Âu và Lạc.
Sau đây chúng ta thử phân tích những lý do nào đã khiến tác giả chọn tên Xích
Quỷ cho 'quốc hiệu' đầu tiên của nước Nam.
Tên nước 'Xích Quỷ' xuất hiện chính thức và đầu tiên với bộ Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư của Ngô Sĩ Liên [6], vào đời vua Lê Thánh Tôn, khoảng năm 1479. Trước đó,
nước Nam có hai bộ sử, với đặc điểm không có chép về truyền thuyết dựng nước
của Hùng Vương, con trai trưởng của Sùng Lãm tức Lạc Long Quân, và Âu Cơ.
Thứ nhất, Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, soạn năm 1272, thất truyền từ lâu.
Thứ hai, Đại Việt Sử Lươc [7], khuyết danh, ra đời vào khoảng 1377-1388, dưới
thời nhà Trần.

Cả hai bộ Sử Ký và Sử Lược đều không có ghi chép gì hết về cái danh xưng 'Xích
Quỷ'. Như đã tóm lược phía trên, toàn bộ truyền thuyết xuất phát từ một chuyện cổ
tích của người Mường. Chuyện đó chỉ bắt đầu vào đoạn 'Có một nàng công chúa
Mường tên Ngu Kơ (Âu Cơ) lấy thái tử con bua Yịt là Long Wang (Lạc Long
Quân)', chứ không có các tổ tiên như Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương,
hoặc lãnh thổ như 'Xích Quỷ', Và kết thúc ở chỗ Ngu Kơ dẫn 50 đứa con trai và
gái lên miền rừng núi, trong khi Long Wang đưa 50 người con trai và gái xuôi về
miền đồng bằng gần sông biển. Hai bên tạo dựng nên các gia đình vua chúa. Ngụ ý
những bộ tộc hai phe đều do các người con đứng vào vị thế lãnh đạo. Tức bản
Mường không hề có Hùng Vương, hoặc hình thái nhà nước như nước Văn Lang.
Nói về tên nước Xích Quỷ, chúng ta có thể để ý đến các điểm chính như sau:
(i) Địa bàn của nước Xích Quỷ rất rộng lớn, nằm ở giữa khu vực Hoa Nam bên
Tàu. Tức phiá Nam sông Dương Tử. Nhượng Tống, dịch giả đầu tiên của bộ Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư [6], theo trích dẫn của Bình Nguyên Lộc [1] cho rằng tên
Xích Quỷ quá xấu nên không có gì đáng tin cậy. Bình Nguyên Lộc, mặc dù lăng
xê thuyết Mã Lai bằng tiếng Việt nhưng vẫn tin có Xích Quỷ và Văn Lang, đã ra
sức biện giải cho tên Xích Quỷ và cho rằng có thể nằm đâu đó phía Nam tỉnh Quí
Châu ngày nay. Quí Châu nằm ở phía Bắc và giáp giới tỉnh Vân Nam. Phía Đông
của Quí Châu là tỉnh Hồ Nam. Khi xưa tỉnh Quí Châu có tên Quỷ Phương, cũng
chứa từ 'Quỷ' trong đó, nằm ở phía Nam nước Sở thuộc khu vực Hồ Động Đình,
cạnh sông Dương Tử.
(ii) Đọc sử Trung quốc, chúng ta cũng thấy vào thời Xuân Thu (770-476 TCN) có
một bộ tộc rất 'man di' mang tên 'Xích Địch' quấy nhiễu nhà Châu, sau nhờ Tấn
Văn Công hội chư hầu đánh dẹp [4]. Dân Xích Địch cũng có 'choảng' với các nước
chư hầu khác, trong đó có nước Sở, đang chạy theo văn minh Hoa Hạ [3]. Nên để
ý, mặc dù người Tàu thời cổ đại bày đặt phân biệt các đám rợ gọi theo phương
hướng: Tây Nhung, Bắc Địch, Đông Yi, và Nam Man, chúng ta thấy rất thường họ
gọi lẫn lộn lung tung. Dân rợ phía Nam, thỉnh thoảng họ cũng gọi chung 'Man Di'.
Lý do? Bởi ban đầu họ đã sắp xếp phân loại một đám rợ thuộc chủng này ở miền
này, nhưng về sau họ lại gặp một đám rợ khác, ở hướng khác miền khác, có dáng

dấp, phong tục và màu da y hệt như đám cũ trước kia. Thí dụ, người Hoa đầu tiên
có thể gặp đám rợ Yueh ở khu vực Sơn Đông (nước Tề xưa), họ gọi đó là rợ Di,
Lai Di. Đôi khi họ gọi đám Yueh đó Bách Bộc, tức nhiều bộ tộc mang tên Bộc
giống giống với nhau. Cũng có lúc họ gọi một đám nào trong đó Yueh (Việt), như
Việt Thường chẳng hạn [10]. Về sau họ gặp lại những nhóm rợ tương tự ở phía
Nam sông Dương Tử, sống chung hay gần gũi các đám Nam Man khác, nên họ
vẫn có thể gọi đám rợ phía Nam là 'Di'. Tức mặc dù đã đặt tên mới nhóm rợ Nam
sông Dương Tử là Bách Việt hay Nam Man. Đôi khi họ vẫn lẫn lộn Di với Man
cho cả hai đám. Bởi thật ra về chủng tộc rất có khả năng, hai khối thuộc chung
một chủng lớn. Tương tự cho Xích Địch, mang nghĩa 'rợ có da màu đỏ'. Rất có khả
năng, đầu tiên họ biết đám rợ này từ phương Bắc (nên mang tên Địch), nhưng
hoàn toàn không có nghĩa dân Xích Địch không có ở phía Nam sông Dương Tử.
Đây là một điểm khá gút mắt của đầu óc người Hoa.

×