Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nhà Nguyễn - lịch sử thăng trầm của một dòng họ - 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.27 KB, 5 trang )

Nhà Nguyễn - lịch sử thăng trầm của một dòng họ
Kỳ 1: Hùng cứ một phương
Họ Nguyễn Phúc đi vào lịch sử VN cách nay tròn 450 năm với sự kiện Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558). Nhưng câu chuyện lại bắt đầu từ hơn 30
năm trước đó, khi Mạc Đăng Dung chấm dứt nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc (1527).
Hữu vệ điện tiền tướng quân Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) trung thành
với triều đại cũ, bỏ sang Lào, tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua, tức Trang
Tông (1533). Chẳng bao lâu, đất nước Đại Việt bị chia làm đôi: nhà Mạc (sử gọi là
Bắc triều) chỉ còn làm chủ phần đất nay là Bắc bộ; nhà Lê trung hưng (tức Nam
triều) quản lý lãnh thổ từ Thanh Hóa trở vào Bình Định ngày nay.
Vào vùng đất mới
Công cuộc trung hưng đang dở dang thì Nguyễn Kim chết (1545). Mọi binh quyền
rơi vào tay con rể là hữu tướng Trịnh Kiểm. Kiểm sợ tả tướng Nguyễn Uông (anh
của Nguyễn Hoàng) chia quyền nên cho người hãm hại em vợ. Nguyễn Hoàng lo
lắng, nhờ chị là Ngọc Bảo (vợ của Kiểm) xin chồng cho Nguyễn Hoàng vào trấn
thủ Thuận Hóa. Kiểm đang muốn đẩy Nguyễn Hoàng đi xa cho khuất mắt nên
đồng ý (1558).
Năm 1570, trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Bá Quýnh được gọi ra giữ đất Nghệ An,
Nguyễn Hoàng được giao thêm xứ Quảng Nam. Từ đó, lãnh thổ dưới quyền tổng
trấn Thuận - Quảng trải dài từ bờ nam sông Gianh đến đèo Cù Mông (tương ứng
với các tỉnh, TP Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Đây là vùng đất mới, dân cư thưa thớt,
tài nguyên chưa khai thác nên trong buổi đầu Nguyễn Hoàng gặp biết bao khó
khăn, thiếu thốn.
Ban đầu Nguyễn Hoàng vào Nam chỉ với ý định bảo toàn mạng sống. Nhưng khi
thấy Trịnh Kiểm ngày càng lấn át quyền vua khiến vua Lê chỉ còn là hư vị,
Nguyễn Hoàng quyết chí tách khỏi Đàng Ngoài, hùng cứ một phương. Trước mắt,
Đàng Trong còn yếu, còn nghèo nên bề ngoài Nguyễn Hoàng phải giả vờ thần
phục họ Trịnh. Hằng năm, ông phải nộp đủ các loại thuế (từ năm 1573, thuế thân
được quy thành 400 cân bạc và 500 tấm lụa).
Việc đầu tiên của Nguyễn Hoàng là củng cố phòng thủ. Ông cho xây các đồn ở


cửa biển để bảo vệ miền duyên hải. Năm 1571, quân Mạc theo đường biển đánh
vào Thuận Hóa nhưng bị đẩy lui. Từ đó Mạc không dám tấn công Đàng Trong
nữa. Nguyễn Hoàng rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Đại Nam thực lục tiền
biên chép: “Mấy năm được mùa luôn, trăm họ giàu thịnh”. Giá gạo ở Đàng Trong
năm 1608 chỉ 3 đồng tiền một đấu, rất rẻ so với giá gạo ở Đàng Ngoài”.
Nhưng nông nghiệp chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho dân chúng, chính thương
nghiệp mới làm đất nước giàu lên một cách nhanh chóng. Trong lúc triều đình
nhiều quốc gia châu Á theo đuổi chính sách ức thương (kìm hãm thương nghiệp)
thì Nguyễn Hoàng lại khuyến khích việc mua bán, nhất là mua bán với nước
ngoài.
“Dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”
ăm 1592, quân Lê - Trịnh chiếm lại Thăng Long. Vua Lê rời Thanh Hóa (Tây Đô)
ra Thăng Long (Đông Đô). Nguyễn Hoàng ra chúc mừng vua. Trịnh Tùng (con
của Trịnh Kiểm, lúc này đã chết) muốn “điệu hổ ly sơn”, tâu với vua Lê phong
Nguyễn Hoàng làm thái úy hữu tướng, trên danh nghĩa vẫn giữ chức tổng trấn
Thuận - Quảng, nhưng phải lưu lại kinh đô vô thời hạn để giúp triều đình đánh dẹp
dư đảng nhà Mạc.
Nguyễn Hoàng phải ẩn nhẫn sống cảnh cá chậu chim lồng trong tám năm trời.
Năm 1600, nhân có vụ khởi binh chống Trịnh Tùng nổ ra ở Nam Định, Nguyễn
Hoàng xin đem quân bản bộ theo đường biển đi đánh, giả vờ thua rồi về thẳng
Thuận Hóa. Từ đó, Nguyễn Hoàng không đặt chân lên Thăng Long nữa.
Sau hơn nửa thế kỷ vào Nam, Nguyễn Hoàng đã biến Thuận - Quảng thành một
vùng đất phồn thịnh. Chính vua Lê Thế Tông cũng phải khen Nguyễn Hoàng “trấn
thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”, phong cho ông làm thái úy, tước
Đoan quận công.
Lê Quý Đôn làm bồi tụng (chỉ sau tể tướng một bậc) trong phủ chúa Trịnh, đương
nhiên không có cảm tình với Đàng Trong, nhưng đã viết về Nguyễn Hoàng trong
Phủ biên tạp lục với lời lẽ ca ngợi: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm
minh, không ai dám lừa dối Chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn
cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân

hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai
giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại
quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố
gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.
Năm 1613 Nguyễn Hoàng 88 tuổi, dặn dò con là Nguyễn Phúc Nguyên trước khi
mất: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía
nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt; biển có cá, muối.
Thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống
chọi với họ Trịnh thì đủ dựng xây cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch
được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.
Vâng lời di huấn của cha, Nguyễn Phúc Nguyên “sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về
quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục” (Đại Nam thực lục tiền biên). Khi thấy
đủ mạnh, Nguyễn Phúc Nguyên công khai không thần phục họ Trịnh nữa: không
nộp thuế, không nhận sắc, không ra Thăng Long mà cũng không gửi con thay
mình ra Thăng Long như họ Trịnh đòi. Trịnh đem quân vào đánh nhưng cả sáu lần
đều không thành công nên phải rút về, chấp nhận sông Gianh là ranh giới của hai
miền. Đến đây, giấc mộng xây dựng “cơ nghiệp muôn đời” của Nguyễn Hoàng
được thực hiện.

×