Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Lịch sử phép Ghép Giác Mạc pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.65 KB, 14 trang )

Lịch sử phép Ghép Giác Mạc



Giác mạc - hình của Patrick Carrier

cornée = giác mạc


Giác mạc là mô trong suốt duy nhất của cơ thể sinh vật. Tính chất này
có được là nhờ tổ chức cơ cấu của nó rất đều đặn nên cho ánh sáng qua
được. Từ rất lâu, người ta đã nhận thấy nhiều khó khăn khi giác mạc bị mờ
và nguời ta đã tưởng tượng các cách chữa trị khác nhau để chữa sự rối loạn
này hầu giúp những bệnh nhân nhìn tốt hơn. Cuộc giải phẫu này có nhiều
tiến bộ lớn, giúp nhiếu bệnh nhân có được cuộc sống bình thường như mọi
người.
Thời xa xưa
Chắc là người Ai Cập thán phục sự trong suốt của giác mạc nên họ để
các bức tượng có cái nhìn sâu thẳm với giác mạc trong suốt
Galien : Y sĩ Hy Lạp Galien nói rằng có thể gỡ phần ngài của giác
mạc - Kératectomie superficielle (Abrasio cornea). Giải phẫn này chắc chắn
là rất khó thực hiện thời bấy giờ
Guillaume Pellier de Quengsy (1751-1835) là bác sĩ nhãn khoa ở
tỉnh Montpellier Pháp. Năm 1789 ông có in quyển sách tưa đề "Précis ou
Cours d'Opérations sur la Chirurgie des Yeux" nói rằng có khả năng thay
thế giác mạc bị hỏng bằng miếng kính đặt trong một cái vòng bằng bạc
được gắn liền với sclère bằng chỉ coton. Việc này đã hìh dung trước giác
mạc nhân tạo mà ngày nay các nhà khoa học nghiên cứu. Pellier de
Quengsy học Nhãn khoa từ cha ông và được xem là chuyên môn khó nhất
của các ngành giải phẫu.
Erasmus Darwin (1731-1802) tưởng tượng thủ thuật khoan xương


(trépanation) để gỡ giác mạc mờ, như này ngày nay đang dùng
Thời Hiện đại
Phải chờ đến năm 1847 Sir William Bowman (1816-1892) mới mô tả
rõ ràng mô giác mạc. Tên ông được đưa vào - màng Bowman- để chỉ cái
màng ở giữa biểu mô (épithélium) và stroma, phần sâu hơn của giác mạc.

Sự xuất hiện của đèn có khe (Lampe à fente) cuối thế kỳ XIX và đầu
thế kỳ XX cho phép nghiên cứu giác mạc in vivo bởi vì kính hiển vi sinh
học này giúp cho nghiên cứu tinh vi giác mạc.

Alfred Vogt (1879-1943) là một trong những người dẫn đầu nghiên
cứu giác mạc nhờ đèn này
Các nhà giải phẫu mắt đầu tiên:
Hình như một trong những nhà giải phẫu mắt đầu tiên là Johan von
Autenrieth (1772-1835). Ông thực tập giải phẫu trên thú vật.
Năm 1824 Reisinger (1768-1855) đề nghị thay thế một giác mạc
hỏng bằng giác mạc thú vật.Ông đặt tên cuộc giải phẫu này là
"Kératoplastic" , từ mà ngày nay người ta vẫn dùng để chỉ phép ghép giác
mạc. Thất bại liên tục của ông làm các nhà giải phẫu nghi ngờ. Các đồng
nghiệp của ông cũng không thành công.
Năm 1834, luận án của Wilhelm Tohmé tựa đề là "De Corneae
Transplantatione" diễn tả một kỹ thuật mới để rạch (incision) giác mạc
nhưng số lần thất bại vẫn còn cao. Tuy vậy tác giả luận án này vẫn khuyến
khích những y sĩ đương thời nên kiên trì theo con đường này
Sự gây mê toàn thân bằng éther năm 1846 và bằng chloroforme năm
1847 cho phép cải thiện các điều kiện giải phẫu.
Gây mê bằng cocaïne do Carl Koller (1858-1944) đưa ra cùng với sự
khử trùng. Tất cả chuẩn bị cải thiện ngành giải phẫu .
Năm 1841 Konigshofer cho đăng một biên khảo trong đó ông tả sự
ghép từng lớp (greffe lamellaire) giác mạc tưởng tượng bởi Philipp Franz

von Walther (1782-1849). Với phép này, nguời ta chỉ gỡ lớp ngoài cũng
của giác mạc ra và để lại lớp phía sau đó là cơ chất (stroma) và màng
Descemet. Kết quả khả quan hơn.
Cải thiện kỹ thuật

Máy khoan tròn Trépan
Arthur Von Hippel (1841-1916) áp dụng nguyên tắc của Theodor
Leber (1840-1917) giải nghĩa sự trong suốt của giác mạc là do tính toàn vẹn
của nội bì (endothélium} khi tiếp xúc với dịch pha lê (humeur aqueuse), và
màng Descemet. Ông chỉ thực hiện phép ghép từng lớp mỏng (greffes
lamellaires) với kết quả đáng ghi nhớ.
Sự phát minh ra máy khoan tròn Trépan tự động để cắt giác mạc của
người cho và giác mạc người nhận làm kỹ thuật ghép giác mạc tiến một
bước khá xa.
Henri Power (1829-1911) khác hẳn Von Hippel, ông thích ghép
nguyên cả bề dày của giác mạc, gọi là kératoplastie transfixiante. Vị bác sĩ
nhãn khoa người Anh này cho rằng các giác mạc của thú vật quá khác biết
so với giác mạc người nên ông khuyên người ta dùng các giác mạc lấy từ
các con mắt bị rớt tròng vì những nguyên nhân khác nhau. Mặc dù vậy vẫn
thường xuyên thất bại.
Tìm hiểu hiện tượng
Ernst Fuchs (1851-1955) nghiên cứu trên phương diện mô học
những
phép ghép giác mạc. Khác với Von Hippel, ông không nghĩ là sự lu
mờ của mắt sau khi ghép giác mạc là do dịch pha lê thấm xuyên qua mà
cho rằng đó là do các tế bào của giác mạc người cho ùa đến.
F. Salzer, giữa những năm 1900 và 1937 mô tả các phép ghép khác
nhau: autoplastie trên cùng một người, homoplastie trên những động vật
cùng loài, hétéroplastie giữa các loài. Đương nhiên ông khuyên là nên
dùng những giác mạc người


Ngày 7/12/1905, Eduard Konrad Zirm (1887-1944) ghép thành
công kératoplastie transfixiante đầu tiên cho người. Một bệnh nhân 45 tuổi
gần như mù do các vảy cá vì bị phỏng. Vị bác sị nhãn khoa này gỡ giác
mạc của con mắt bị tai nạn một đứa bé trai 11 tuổi (cơ thể lạ intra-oculaire)
Ông có thể ghép hai bên của tròng mắt bằng cách cắt giác. Gây mê toàn
thân mạc người cho ra hai phần. Giải phẫu thành công tốt đẹp và bệnh
nhân thấy rõ ràng và vống cuộc đời bình thường.
Mặc dù sự thành công rực rỡ này, người ta phát triển ghép từng lớp
giác mạc (kératoplasties lamellaires) và phải đợi đến những công trình của
Anton Elschnig ở Prague.

Năm 1914 Anton Elschnig giải phẫu thành công kératoplastie
transfixiante. Trong suốt cuộc đời ông đã thực hiện 180 cuộc ghép bằng
cách dùng máy trépan của Von Hippel và làm 22% bệnh nhân của ông
được thấy được.
Tiếp theo, Vladimir Filatov (1875-1956) thực hiện 3500 giải phẫu
mắt và thành công 65% trong các trường hợp. Ông cải thiện các dụng cụ
máy móc khác nhau và trình bày sự ích lợi của giác mạc các tử thi.
Các nhà nghiên cứu nhãn khoa phát triển ngành ghép giác mạc nổi
tiếng như Arruga, Barraquer, Castroviejo, Franceschetti, Sourdille hay
Vannas.
Ngày nay
Từ năm 1960, thành công tiến bộ rõ ràng với Alberth nhờ dùng các
corticoïdes. Năm 1963, giác mạc ghép của Strampelli (kératoprothèse de
Strampelli ) cải tiến phép chẩn đoán
Kỹ thuật được cải tiến, có ngân hàng giác mạc và các dụng cụ phẫu
thuật tinh vi , lại nữa, kính hiển vi nghiên cứu sinh học do Maurice cho ra
ggời năm 1968 để quan sát nội bì và đếm các tế bào bội bì.
Ngoài ra ngày nay người ta dùng tia laser đễ giải phẫu mắt cận

thị, gọi là lasik
Trang web đọc thêm:



Mắt và màu sắc
Phan Chiêu Quân
1) Sự cảm nhận một tác nhân kích thích (stimulus):
Mắt ta có một chủ đích chính xác khi nhìn những đồ vật chung quanh
ta : nhận một tác nhân kích thích màu sắc đến võng mạc (rétine), là phần
nhạy cảm với tia sáng.Muốn vậy, nhiều yếu tố được dùng mà chủ yếu là giác
mạc (cornée), tròng đen (iris), thủy tinh thể (cristallin) và thủy tinh dịch
(humeur aqueuse).

Nhỡn cầu
Tác nhân đi xuyên qua những thứ này: Giác mạc , khi nó bẻ gãy tia
sáng, là yếu tố đầu tiên tham gia vào sự tạo thành hình ảnh trên võng mạc.
Con ngươi (pupille) là trung tâm của lòng đen, kiểm soát lượng ánh sáng
phải đi vào trong mắt. Thủy tinh thể, kiểm soát bởi những cơ mí (muscles
ciliaires) (ở phía trong mắt), thi hành sự điều chỉnh: nó điều tiêu (focaliser)
hình của vật nó quan sát (gần hay xa) để thành hình ảnh chính xác nơi võng
mạc.
2) Võng mạc:
Những hình ảnh mà ta nhận được , thí dụ từ một phim hay một tuồng
hát mà ta đã quan sát, sẽ truyền đến đây. Võng mạc chứa hai loại cơ quan
tiếp thu, những tế bào nhạy cảm với những tia sáng, gọi là tế bào hình nón
(cône) hay hình que (bâtonnet) bởi hình dáng của chúng. Hai loại tế bào này
khác nhau, chúng không cùng độ nhạy nơi quang phổ. Võng mạc còn chứa
nhiều loại tế bào khác, nhất là những tế bào lưỡng cực (cellule bipolaire),
được hoạt động nhờ những phân tử neurotransmetteurs tạo thành bởi những

tế bào hình nón và hình que. Những phân tử này tạo ra những khớp thần
kinh (synapse). Sau đó những tế bào lưỡng cực liên lạc với những tế bào
hạch (cellule ganglionnaire) có chứa những sợi trục (axone) để tạo thành dây
thần kinh mắt (nerf optique).Ngoài ra, trong võng mạc còn có những tế bào
dọc (cellule horizontale) và những tế bào amacrine (xem hình). Chúng phát
từ nguồn gốc thần kinh và dùng để giữ cho nối giữa những tế bào lưỡng cực
và tế bào hạch chắc chắn.

Võng mạc (cắt dọc mắt)
a) Cắt dọc mắt
b) Cắt ngang võng mạc, mô tả cấu trúc từng lớp của nó
c) Cấu trúc một tế bào nón và một tế bào que riêng rẽ
d) Nối khớp thần kinh (liaison synaptique) ở vùng cơ sở tế bào que
e) Những khúc ngoài của tế bào que
f) Nối khớp thần khinh que với những tế bào mõng mạc khác.
3) Hố màng lưới (fovéa), tế bào hình nón và hình que:
Lấy bất kỳ một vật. Ta biết là chúng truyền những tia sáng. Những tia
này hội tụ trên một vùng của giác mạc: hố màng lưới, là một vùng mà nơi đó
mắt thu nhận cao nhất. Hố màng lưới chứa một số lớn tế bào tiếp thu là
những neurone đẵ được bổ túc như ta vừa nói.
Có 3 loại Tế bào hình nón:
Nón S nhạy cảm với những sóng ngắnNón M: nhạy cảm với những
sóng trung bình
Nón L: nhạy cảm với những sóng dài.
Những nón S nhạy cảm với màu xanh dương
Trong mắt có 100 triệu tế bào que, 4 triệu tế bào nón và chỉ 1 triệu tế
bào hạch đủ bảo đảm sự dẫn truyền của thần kinh não .



×