Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Nâng cao hiệu quả huy động vốn tiền gửi tại chi nhánh NHLD VID Public chi nhánh Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 69 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 4

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập
và hợp tác hóa kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình
phát triển nền kinh tế. Và nền kinh tế Việt Nam đang từng bước đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên quá trình hội nhập đó.
Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển kinh tế bền vững Chính phủ phải
tạo được các kênh huy động vốn hiệu quả, có khả năng đáp ứng cho nhu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh. Do vậy, các tổ chức tài chính nói chung, các
ngân hàng thương mại nói riêng cần thiết phải tăng cường hiệu quả huy động
vốn của mình đặc biệt là huy động vốn tiền gửi từ dân cư, cá nhân, tổ chức
kinh tế. Thực tế cho thấy, hoạt động huy động vốn hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế. Huy động vốn tiền gửi là một
trong những hoạt động cơ bản của ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng việc
huy động nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội nhằm phục vụ cho hoạt động kinh
doanh đối với các ngân hàng.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng liên doanh tại Việt Nam, Chi nhánh
NHLD VID Public Hải Phòng đã khẳng định được vị trí, thương hiệu của
mình trong toàn bộ hệ thống. Thông qua hoạt động huy động vốn tiền gửi, chi
nhánh NHLD VID Public Hải Phòng đã góp phần quan trọng đáng kể trong
việc cung ứng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của thành phố Hải Phòng .
Song vẫn tồn tại những hạn chế nhất định trong công tác huy động vốn tiền
gửi. Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của vốn tiền gửi đối với các ngân
hàng nói chung và thực tế tại Chi nhánh NHLD VID Public Hải Phòng nói


riêng, đề tài: "Nâng cao hiệu quả huy động vốn tiền gửi tại Chi nhánh
NHLD VID Public Hải Phòng" em đã lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về huy động vốn tiền gửi tại
NHTM.

4

- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn tiền gửi
tại chi nhánh. Xem xét, đánh giá thực trạng huy động vốn tiền gửi tại chi
nhánh. Trên cơ sở đó rút ra những thành công, hạn chế cùng với cơ hội và
thách thức trong hoạt động huy động tiền gửi tại chi nhánh.
- Đề ra những biện pháp nhằm nâng cao năng lực huy động vốn tiền
gửi tại chi nhánh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Với mục đích như vậy thì em đã thực hiện khảo sát tình hình tài chính
của chi nhánh qua các hoạt động cơ bản, cùng với việc phân tích tình hình
huy động vốn tiền gửi trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2011, các
nhân tố ảnh hưởng, điều kiện phát triển và môi trường pháp lý cho sự phát
triển huy động vốn tiền gửi tại chi nhánh trong bối cảnh tính cạnh tranh của
hoạt động này ngày càng gay gắt như hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê, so sánh và phân tích hệ
thống sơ đồ, bảng biểu. Trên cơ sở đó so sánh và phân tích kết quả hoạt động
qua các năm, các yếu tố tác động đến huy động vốn tiền gửi của chi nhánh.
Từ đó, đưa ra các giải pháp cần thiết để phát triển hoạt động huy vốn tiền gửi
của chi nhánh
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần tài liệu tham khảo, mục lục, lời mở đầu và kết luận nội
dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về huy động vốn tiền gửi của ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tiền gửi tại Chi nhánh NHLD
VID Public Hải Phòng giai đoạn 2009 - 2011.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Chi
nhánh NHLD VID Public Hải Phòng.

5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái niệm NHTM:
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã
có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng
hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là
nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Trong hoàn cảnh kinh tế mới, theo Điều 4 của Luật các tổ chức tín
dụng (Số: 47/2010/QH12) Việt Nam: " Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của
Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hành động, các loại hình ngân hàng bao
gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã" và
" Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật
nhằm mục tiêu lợi nhuận".
Khái niệm khẳng định rằng NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt,
hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý đồng thời, ngân hàng lại có khả năng tác

động trở lại một số yếu tố này. Không thể phủ nhận rằng, nền kinh tế của một
nước chỉ phát triển bền vững, ổn định khi có chính sách tài khóa đúng đắn và
hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có khả năng thu hút tập trung thu hút
các nguồn vốn và phân bổ hợp lý dòng chảy của vốn đó vào các ngành, khu
vực kinh doanh.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM.
NHTM là loại hình tổ chức tài chính được phép hoạt động kinh doanh
đa dạng nhất trên thị trường tài chính bao gồm hoạt động nhận tiền gửi, cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản, tư vấn tài chính,
kinh doanh ngoại tệ

6

1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Khác với các doanh nghiệp phi tài chính, nguốn vốn chủ sở hữu của các
NHTM chiếm rất nhỏ (< 10%) trong tổng nguồn vốn. Do vậy để đảm bảo cho
hoạt động thường xuyên của mình công tác quan trọng đầu tiên của các
NHTM chính là hoạt động huy động vốn. NHTM huy động các nguồn vốn
nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thông qua các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được Thống đốc
NHNN chấp nhận.
- Vay vốn của các TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và của các
TCTD nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
- Các hình thức huy động vốn khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ
tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng.

Tín dụng ngân hàng là hoạt động cơ bản, thường xuyên nhất của ngân
hàng, chiếm trên 70% tổng tài sản của ngân hàng, đây là hoạt động đem lại
phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng.
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn
trả. Hoạt động cấp tín dụng của NHTM có ý nghĩa quan trọng đối với nền
kinh tế nhằm cung cấp các khoản vốn cho đầu tư phát triển hoặc thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Thông qua các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu thương
phiếu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp
vụ cấp tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước. Trong các hoạt
động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn
nhất.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam
kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định

7

trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi. NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức
sau:
Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và đời sống.
Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh ngân hàng: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD cam kết
với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng theo thỏa thuận. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo
lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ quy định so với vốn tự có của

NHTM.
Chiết khấu: Là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi
các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán.
Tái chiết khấu: Là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ
có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Bao thanh toán: Là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên
mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng
phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và
hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
Tài trợ nhập khẩu: Hiện nay, khá nhiều NHTM cung cấp tài trợ xuất
nhập khẩu bao trọn gói để hỗ trợ doanh nghiệp. Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu
nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện và giấy tờ liên quan để doanh
nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua

8

bán hàng hóa, bao gồm: Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu; cho vay ứng
trước thanh toán cho người bán; bảo lãnh và tái bảo lãnh thanh toán hối phiếu
khi đến hạn; chấp nhận hối phiếu; hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật giúp
soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển
và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa đơn chứng từ và hàng hóa
cả về số lượng, quy cách và chất lượng
Tài trợ xuất khẩu: Các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài
trợ từ các NHTM về các giao dịch kinh doanh cả trước và sau các thương vụ
xuất khẩu, bao gồm: cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu

sản xuất, cho vay đầu tư mua máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài; cho
vay nộp thuế xuất khẩu; hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo
hợp đồng thương mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và
chuyển giao hàng hóa, theo dõi kiểm tra hóa đơn chứng từ và hàng hóa cả về
số lượng, quy cách, chất lượng; cho vay hỗ trợ cần thiết khác do sự khác biệt
về tập quán, luật pháp, ; cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán nhờ thu
Các nghiệp vụ cấp tín dụng khác: Như là cho vay thấu chi, khi sử dụng
dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi khách hàng
tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay
tín chấp. Ngoài ra, còn có hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng theo đó
NHTM cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong
một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
1.1.2.3. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản:
Là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán
séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín
dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của
khách hàng. Các cá nhân, TCKT trên cơ sở mở tài khoản tiền gửi thanh toán
hay các khoản tiền gửi phục vụ giao dịch khi có nhu cầu thanh toán có thể ủy
quyền cho ngân hàng thực hiện thay mình: thu hộ, chi hộ
1.2. Huy động vốn tiền gửi của NHTM.
1.2.1. Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi.

9

Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi không mang lại lợi nhuận trực tiếp
cho ngân hàng nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Tiền gửi là nguồn vốn
huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng nhất đối với mỗi NHTM. Trong
cơ cấu vốn của các ngân hàng, tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn và có nhiều
ảnh hưởng đến các hoạt động của ngân hàng. Vốn huy động tác động mạnh

đến quy mô các hoạt động và quy mô tín dụng của ngân hàng. Thông thường
nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và
cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng
này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được ở thị trường
trong nước và ngoài nước thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi
nhỏ hơn, mà chủ yếu trong cộng đồng. Mặt khác, do khả năng vốn hạn hẹp
nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về
chính sách, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp
dân cư và các thành phần kinh tế.
Bên cạnh đó, vốn tiền gửi ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán và
đảm bảo uy tín của thị trường trong nền kinh tế. Để tồn tại và mở rộng quy
mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín trên thị trường là điều
trọng yếu mà trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho
khách hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng
càng lớn tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chính sách của ngân hàng, đảm
bảo uy tín, nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi không chỉ thu hút được một lượng
vốn lớn phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà thông qua
đó NHTM có thể biết được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối
với ngân hàng. Từ đó NHTM có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn tiền gửi cả về chất và lượng để giữ vững và mở rộng mối
quan hệ với khách hàng.
1.2.2. Đặc điểm của vốn tiền gửi.
Thứ nhất: Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách
hàng, ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn, chưa đến hạn. Hoạt động nhận tiền

10

gửi được nhìn nhận như là một nghiệp vụ kinh doanh của NHTM với nội

dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng thông qua mở cho khách hàng
một tài khoản như tài khoản gửi định kỳ (tiền gửi có kỳ hạn), tài khoản tiền
gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Giao dịch nhận tiền gửi của
ngân hàng được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM và khách hàng gửi
tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Và ngân hàng có thể
sử dụng số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lợi, với điều kiện là phải
hoàn trả cho khách hàng toàn bộ số vốn đã sử dụng kèm theo một khoản tiền
lãi nhất định tùy thuộc vào thời gian, hình thức mà ngân hàng giữ khoản tiền
đó. Giao dịch nhận tiền gửi đã được nhìn nhận là hành vi vay tiền từ công
chúng với cam kết đảm bảo an toàn cho số tiền đó mà quan trọng hơn hết là
ngân hàng có một lượng vốn đáng kể là cơ sở chính cho các khoản cấp tín
dụng của NHTM. Do đó khi người gửi tiền có nhu cầu thanh toán thì ngân
hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Thứ hai: Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng của ngân hàng.
Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân
hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho các
khoản vay, do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của
ngân hàng.
Thứ ba: Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc. Đây là số tiền mà
các TCTD phải gửi tại NHTW theo quy định của NHTW tùy thuộc vào chính
sách tiền tệ của từng thời kỳ. Nếu thiếu hụt lượng tiền dự trữ bắt buộc các
NHTM phải vay thêm tiền từ NHTW để đảm bảo tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Đây là
một trong những công cụ của NHTW nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng
cách làm thay đổi số nhân tiền tệ. Vì thế mà chi phí tiền gửi cao hơn lãi trả
cho tiền gửi. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và
sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có
thể sử dụng phần tiền gửi còn lại vào việc cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ
thanh toán. Hiện nay, hầu hết các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt
đối với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong việc định giá các dịch vụ liên


11

quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân
hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định
trong lượng tiền gửi của khách hàng trong điều kiện diễn biến của lạm phát có
xu hướng tăng những năm gần đây. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn
chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm
năng của ngân hàng.
1.2.3. Phân loại tiền gửi trong ngân hàng thương mại.
Tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và phát
hành các chứng từ có giá.
Tiền gửi không kỳ hạn:
Đây là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào
và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ
hạn được trả lãi hoặc không được trả lãi bao gồm 2 loại sau:
- Tiền gửi thanh toán: Là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết
được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa,
dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách
thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Các giao dịch thanh toán qua ngân hàng
được thực hiện thông qua các phương tiện thanh toán như: Séc lĩnh tiền mặt,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, chuyển tiền điện tử Một số NHTM kết hợp tài
khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay thấu chi trên số dư có của tài
khoản tiền gửi thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn
là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất
cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp giữa xuất và
nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài
khoản của doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà
ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Là khoản tiền được ký gửi với mục

đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách
hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu, ngân hàng phải thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng tồn
khoản khi đã đảm bảo khả năng chi trả.

12

Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân
hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ
tích lũy và xét về bản chất thì chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định mà ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn để cho vay. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng
hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm:
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động
chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền
một cách an toàn và hưởng phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một
dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là sản phẩm này được thiết kế dành
cho đối tượng là cá nhân, hoặc tổ chức tạm thời có tiền nhàn rỗi muốn gửi
ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế
hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình
thức gửi tiền này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu
sinh lợi; khoản tiền gửi này khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào song
không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Do đó,
ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng nên các ngân hàng thương mại thường trả lãi suất thấp

cho loại tiền gửi này và thường cao hơn tiền gửi thanh toán.
Khi sử dụng hình thức tiết kiệm này, khách hàng sẽ được cấp sổ tiền
gửi và khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao
dịch, mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể
thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như là gửi tiền và rút tiền.
Mặc dù, số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thường
không lớn (do chỉ hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu ngân hàng thu hút

13

được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua hình
thức này có thể trở nên đáng kể.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ
được thiết kế dành cho khách hàng là cá nhân và tổ chức gửi tiền vì mục tiêu
an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai do có
sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền. Đa số khách hàng lựa chọn hình thức
gửi tiền này là công nhân, viên chức hưu trí mà mục tiêu quan trọng của họ là
lợi tức được nhận theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để
thu hút được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên, lãi suất trả cho loại tiền gửi
tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho tiền gửi không kỳ hạn. Ngoài ra,
mức lãi suất còn thay đổi tùy theo kỳ hạn gửi (1, 2, 3, 6, 9 hay 12 tháng ) và
loại đồng gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR hay vàng) và còn tùy theo uy tín,
rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi cũng tiến hành tương
tự như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng được rút
tiền theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút trước kỳ hạn. Tuy
nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền đôi khi ngân hàng cho
phép được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khi đó ngân hàng sẽ
trả lãi cho khách hàng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Loại hình tiết kiệm

này khá quen thuộc ở Việt Nam với các kỳ hạn và loại đồng tiền gửi phong
phú.
Phát hành giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn,
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện cam kết khác giữa TCTD và người
mua. Một giấy tờ có giá thường kèm theo: mệnh giá, thời hạn giấy tờ có giá,
lãi suất được hưởng.
Giấy tờ có giá có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào
quyền sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá ghi danh và giấy

14

tờ có giá hữu danh. Căn cứ vào thời hạn huy động có giấy tờ có giá ngắn hạn
và giấy tờ có giá dài hạn.
Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn có tính
ổn định cao, nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt do khả năng thu hút
bằng nguồn vốn tiết kiệm hạn chế. Ngân hàng thường sử dụng giấy tờ có giá
dưới các hình thức sau:
- Phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn: Xuất phát từ nhu cầu đầu
tư ngắn hạn của các nhà đầu tư rất khác nhau nên cần có nhiều hình thức khác
nhau để thu hút. Thứ đến là do tập quán và trình độ phát triển của thị trường
vốn ngắn hạn.
+ Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành kỳ phiếu: kỳ phiếu là
một loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành huy động vốn ngắn hạn.
Trong đó, ngân hàng cam kết sẽ trả lãi được hưởng và vốn gốc cho nhà đầu tư
khi kỳ phiếu đến hạn.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi
định kỳ ở một ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán lãi theo
kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau phát hành được lưu thông trên

thị trường tiền tệ.
- Phát hành giấy tờ có giá dài hạn: Với nhu cầu vốn lên đến 5 năm, 10
năm rõ ràng các ngân hàng không thể sử dụng các hình thức huy động vốn
tiền gửi hay phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn được. Trong trường
hợp này, NHTM có thể phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là công cụ nợ dài hạn do nhà phát hành phát hành nhằm huy
động vốn dài hạn, theo đó nhà phát hành cam kết trả cho người nắm giữ trái
phiếu một số tiền lãi nhất định và trả lại số tiền gốc khi trái phiếu đến hạn.
Việc phát hành trái phiếu, các NHTM chịu sự quản lý của NHTW, của
các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy
tín của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán
cho các nhà đầu tư, trong đó có một thỏa thuận đến một thời điểm nào đó sau
khi phát hành các nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ

15

lệ chuyển đổi nào đó. Loại trái phiếu này được xem như một loại chứng
khoán lai, vừa có tính chất của một chứng khoán nợ và vừa có tính chất của
một chứng khoán vốn. Nó phổ biến ở các nước có thị trường vốn phát triển
nhưng chưa được phổ biến lắm ở Việt Nam. Ưu điểm của loại trái phiếu này
là nhờ đính kèm quyền chuyển đổi thành cổ phiếu nên có thể giúp tổ chức
phát hành giảm được chi phí huy động một cách đáng kể. Vì thế nhiều NHTM
cổ phần như ACB, Sài Gòn Bank cũng đã phát hành thành công loại trái phiếu
này.
Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá các NHTM phải
trả với lãi suất cao hơn so với lãi suất huy động vốn tiền gửi thông qua tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Vì vậy, nghiệp
vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy
động. Như vậy, khi thực hiện hình thức này các NHTM phải căn cứ vào đầu

ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn, và phương
pháp huy động.
1.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn tiền gửi của
NHTM.
Vì tính chất đặc biệt quan trọng của vốn tiền gửi trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng mà khi đánh giá tình hình huy động vốn tiền gửi nhà
quản trị cần phân tích đầy đủ các nội dung sau đây:
a. Tổng vốn tiền gửi huy động / Tổng nguồn vốn.
Đây là tỉ số phản ánh lượng vốn huy động tiền gửi so với tổng nguồn
vốn. Nếu chỉ số này càng cao thì khả năng huy động vốn của ngân hàng càng
hiệu quả. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng huy động vốn mạnh hay yếu, chiếm
bao nhiêu phần trăm so với tổng nguồn vốn.
b. Tiền gửi có kì hạn / Tổng vốn tiền gửi huy động.
Đây là chỉ tiêu phản ánh tính ổn định, vững chắc của ngân hàng trong
kinh doanh. Nguồn vốn có kì hạn là nguồn vốn mang tính ổn định, ngân hàng
dễ dàng hơn trong việc lập kế hoạch sử dụng giảm thiểu được rủi ro trong quá
trình kinh doanh.

16

c. Chi phí huy động vốn tiền gửi / Tổng tiền gửi huy động.
Chỉ tiêu này phản ánh công tác quản lý chi phí huy động vốn tiền gửi
mà chủ yếu là thông qua lãi suất và hình thức huy động vốn tiền gửi. Chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ chi phí huy động vốn càng lớn và ảnh hưởng đến lợi
nhuận của ngân hàng.
d. Cơ cấu nguồn vốn tiền gửi huy động.
Thể hiện tỷ trọng của từng loại tiền gửi huy động, sự thay đổi về quy
mô trong tổng vốn tiền gửi huy động. Qua đó phản ánh mối quan hệ giữa các
loại tiền gửi và xu hướng huy động vốn tiền gửi của ngân hàng qua các năm.
Không chỉ thể hiện ở việc tăng quy mô, thị phần vốn tiền gửi huy động mà cả

ở khía cạnh phù hợp giữa cơ cấu vốn tiền gửi huy động và sử dụng vốn. Sự
biến đổi trong cơ cấu huy động sẽ kéo theo biến đổi trong cơ cấu cho vay, đầu
tư. Những thay đổi trong cơ cấu huy động vốn tiền gửi không chỉ phụ thuộc
chính sách điều chỉnh của ngân hàng mà trên thực tế nó cũng luôn chịu tác
động từ bên ngoài như tình hình kinh tế xã hội trong và ngoài nước, các chính
sách tiền tệ, đầu tư của Nhà Nước, thu nhập, thói quen tiêu dùng của người
gửi tiền Do đó ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Ngoài ra hiệu quả huy động vốn còn thể hiện qua khả năng đáp ứng của
nguồn tiền gửi huy động với nhu cầu sử dụng vốn và sự đa dạng của các hình
thức huy động vốn tiền gửi.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tiền gửi của NHTM.
1.3.1. Nhóm các nhân tố chủ quan:
1.3.1.1.Chính sách huy động vốn tiền gửi.
Để phát huy và nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tiền gửi ngân
hàng cần có chính sách huy động vốn phù hợp và đúng đắn. Ngân hàng muốn
dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hóa hình thức huy
động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy động
hơn. Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,
tiền gửi tiết kiệm trong đó đưa ra nhiều thời hạn khác nhau cho các loại tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn

17

Bên cạnh đó phải kể đến chính sách về lãi suất. Đối với người gửi tiền
là các doanh nghiệp, họ gửi tiền vào ngân hàng mục đích thanh toán thì lãi
suất không phải là vấn đề mà họ quan tâm, điều mà họ quan tâm nhất là việc
sử dụng các dịch vụ từ ngân hàng, và loại tiền gửi này gọi là tiền gửi không
kỳ hạn. Tuy nhiên, bên cạnh loại tiền gửi không kỳ hạn thì vốn huy động của
ngân hàng còn bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tiền
tiết kiệm của dân cư. Bộ phận tiền gửi này họ gửi vào ngân hàng với mục đích

là hưởng lãi, vì vậy lãi suất là điều mà họ rất quan tâm và bộ phận tiền gửi
này rất nhạy cảm với lãi suất. Ngoài ra, khi huy động mà chưa đủ vốn để sử
dụng thì ngân hàng còn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ NHTW Để
tạo được nhiều vốn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của mình, các ngân hàng
phải có chính sách lãi suất hợp lý, sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo kích
thích người gửi tiền, vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh tình trạng huy
động với giá cao mà đầu tư với giá thấp. Đồng thời kết hợp với các chính sách
như marketing, chính sách nhân sự chính sách khác liên quan đến mối quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
1.3.1.2. Hình thức cho vay.
Nếu hình thức cho vay của ngân hàng càng mở rộng chẳng hạn như
không chỉ là cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn mà còn mở rộng các hình
thức khác như cho vay hợp vốn, liên doanh, liên kết, mua bán các khoản nợ
thì buộc ngân hàng phải lo lắng nguồn vốn cho chính mình, huy động thế nào
cho phù hợp. Ví dụ, nhu cầu sử dụng vốn dài hạn lớn thì phải tìm cách huy
động vốn dài hạn chứ không được sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay
dài hạn. Mặt khác, quá trình sử dụng vốn tốt sẽ giúp ngân hàng cải thiện được
thu nhập, làm cho khả năng tạo dựng vốn từ chính hoạt động kinh doanh của
mình cũng được thực hiện.
1.3.1.3. Công nghệ trong thanh toán và tin học.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ thông tin là sự thay
đổi vượt bậc trong lĩnh vực ngân hàng. Trước đây, công nghệ thanh toán còn
lạc hậu, khách hàng chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt thì ngày nay do áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt

18

ngày càng chiếm ưu thế, thay vì thanh toán bằng tiền mặt, khách hàng chuyển
sang thanh toán bằng séc, thẻ Để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt,
khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng nên ngân hàng thực hiện được

việc huy động vốn trên tài khoản của khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, việc thu thập thông tin là rất
cần thiết. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại ngân hàng có thể thu thập thông
tin về khách hàng, về thị trường từ đó xác định thị trường đầu tư vốn có
hiệu quả, phát triển dịch vụ và nghiệp vụ của mình. Mặt khác, nhờ thu thập
thông tin tốt nên hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tăng lợi nhuận, ngân hàng
có điều kiện mở rộng vốn tự có.
1.3.1.4. Năng lực, trình độ và thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng.
Để hoàn thiện mối quan hệ trao đổi với khách hàng, đó là sự kết hợp
của ba yếu tố: Khách hàng, kỹ thuật công nghệ và nhân viên ngân hàng. Do
đó, ngân hàng cần phải có chiến lược nhân sự hợp lý nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả công việc, xây dưng môi trường văn hóa kinh doanh ngân
hàng nhằm duy trì và phát triển mối quan hệ gắn bó lâu dài với khách hàng là
một trong những chiến lược quan trọng của ngân hàng.
- Về phương diện quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự,
tài sản Nợ, tài sản Có tức là trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình
ngân hàng dự đoán được những rủi ro xảy ra, dự đoán được môi trường đầu tư
của mình có hiệu quả hay không, nắm bắt được những biến đổi ngoài thị
trường một cách nhanh chóng để có thể tư vấn được cho khách hàng của mình
nên đầu tư vào đâu để có hiệu quả cao nhất. Từ đó thu hút được khách hàng
làm cho môi trường đầu tư ngày càng mở rộng. Mặt khác, do quản lý tốt nên
trong quá trình hoạt động ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín,
từ đó có điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền. Hoặc khi
ngân hàng làm dịch vụ chứng khoán, do phán đoán, thu thập và sử lý thông
tin tốt nên khi mua chứng khoán ngân hàng dễ thành công, thu hút khách hàng
đến ủy thác ngân hàng kinh doanh hộ chứng khoán. Khi đó, ngân hàng có thể
sử dụng được số tiền mà khách hàng ký gửi ngân hàng mua hộ chứng khoán
mà chưa sử dụng đến.

19


- Về trình độ nghiệp vụ: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên cao
thì quá trình hoạt động kinh doanh, mọi thao tác nghiệp vụ đều được diễn ra
một cách nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả. Từ đó giúp ngân hàng có
điều kiện mở rộng kinh doanh, giảm thấp chi phí hoạt động và thu hút được
khách hàng.
- Về thái độ phục vụ: Đây là những yếu tố chủ quan tác động đến quy
mô tiền gửi. Nếu ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân
viên ngân hàng luôn cởi mở, nhiệt tình đối với khách hàng, luôn tạo thuận lợi
cho khách hàng thì sẽ gây được uy tín tốt đối với khách hàng, thu hút được
nhiều khách hàng tìm đến. Thêm vào đó, một ngân hàng có cơ sở vật chất
vững mạnh, trụ sở làm việc khang trang sạch đẹp, phương tiện làm việc hiện
đại sẽ gây cho người gửi cảm giác an tâm hơn.
Cách thức phục vụ của cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc
huy động vốn cho ngân hàng. Khách hàng đánh giá chất lượng dịch vụ ngân
hàng không chỉ qua cơ sở vật chất, công nghệ kỹ thuật mà còn qua thái độ
phục vụ của cán bộ nhân viên ngân hàng. Hơn ai hết, nhân viên ngân hàng
đặc biệt là nhân viên giao dịch, người trực tiếp giao tiếp với khách hàng, tạo
uy tín cho ngân hàng để phục vụ khách hàng. Vì vậy, để thu hút khách hàng
gửi tiền không phải chỉ có trình độ chuyên môn về nghiệp vụ mà còn phải chú
ý đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng. Các nhà quản
lý ngân hàng cần phải phổ biến kiến thức marketing cơ bản cho các nhân viên
của mình, xây dựng một môi trường làm việc năng động, sáng tạo, xây dựng
môi trường văn hóa kinh doanh ngân hàng
1.3.1.5. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn.
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hay gần với trung tâm thương
mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động của các ngân
hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có
tiền nhàn rỗi, họ thường đưa ra quầy tiết kiệm gần nhà họ nhất để gửi. Mạng
lưới huy động cần rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền.

1.3.1.6. Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng.

20

Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế
hơn các ngân hàng khác có dịch vụ giới hạn.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, tạo nên những phương
thức sản xuất cho các ngành nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Đồng
thời là sự thay đổi trong kết cấu nhu cầu của khách hàng khi mà các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng hiện đại nhanh chóng, thuận tiện, chính xác đang được sử
dụng ngày càng tăng và càng quen thuộc với người dân Việt Nam như việc
thực hiện các giao dich trực tuyến như internet banking, ngân hàng điện tử,
máy ATM gửi và rút tiền tự động, phát triển các dịch vụ thanh toán điện,
nước, cước điện thoại trực tuyến nhằm đáp ứng tối đa cho nhu cầu khách
hàng, thu hút khách hàng.
Một lợi thế của ngân hàng là địa điểm tại vị trí quan trọng, nơi đông
dân cư, giao thông thuận tiện, gần trung tâm mua sắm của thành phố, các hệ
thống chi trả tự động làm việc suốt ngày đêm và các dịch vụ nhận tiền gửi
được cải tiến và tốn ít thời gian.
1.3.1.7. Mức độ thâm niên của một ngân hàng.
Không phải lúc nào ngân hàng có từ lâu đời cũng luôn có lợi thế so với
ngân hàng mới thành lập. Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một
ngân hàng thì bao giờ họ cũng tin tưởng vào một ngân hàng có thâm niên hơn
là ngân hàng mới thành lập. Bởi họ nghĩ rằng, một ngân hàng hoạt động lâu
đời thì có thế lực, uy tín trên thị trường, có kinh nghiệm trong việc thực hiện
các nghiệp vụ, có nguồn vốn lớn và có khả năng thanh toán nhanh. Do vậy,
mức độ thâm niên về một khía cạnh nào đó cũng tạo ra được lòng tin đối với
khách hàng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Hành lang pháp lý, chính sách tiền tệ, đầu tư của Nhà nước.

Hành lang pháp lý có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của
NHTM. Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng như: Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà Nước
Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có,
quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của

21

NHTM đối với một khách hàng Có những bộ luật tác động gián tiếp đến
hoạt động ngân hàng như luật đầu tư nước ngoài Hoặc các NHTM không
được nhân tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng hay giảm lãi suất, mà phải
dựa vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được phép xê dịch trong biên độ nhất
định mà NHNN cho phép
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc
gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM. Nó thể
hiện ở các khía cạnh:
 Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm: Kiểm soát lạm phát, bình ổn
giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm. Tùy thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ mà sự ảnh
hưởng của nó đến nghiệp vụ tạo vốn của NHTM khác nhau. Chẳng hạn, khi
nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách
tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng thương
mại huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người
có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng. Hoặc khi
nền kinh tế càng phát triển, khối lượng hàng hóa luân chuyển trong xã hội
ngày càng nhiều, Nhà nước khuyến khích nhân dân thanh toán không dùng
tiền mặt bằng cách mở tài khoản thanh toán cá nhân tại ngân hàng. Nếu càng
có nhiều người đến mở tài khoản thanh toán cá nhân thì ngân hàng càng có

khả năng tạo dựng nguồn vốn hơn thông qua lượng tiền mà nhân dân ký gửi
lại ngân hàng
Trong quá trình vận hành các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ
của NHTW, mỗi một công cụ đều tác động dến nghiệp vụ tạo vốn của
NHTM, cụ thể:
+ Dự trữ bắt buộc: Khi tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là NHTW
cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền trung ương bị coi là
thiếu hay dư thừa, tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các
NHTM.

22

+ Nghiệp vụ thị trường mở: Là việc NHTW mua và bán các chứng
khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay đổi
lượng tiền cung ứng.
+ Chính sách chiết khấu: Là công cụ NHTW thực thi chính sách tiền tệ,
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi các NHTW
cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm lượng tiền dự trữ cho hệ
thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.
+ Kiểm soát hạn mức tín dụng.
+ Quản lý lãi suất của NHTM.
Tóm lại: việc điều hành chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ có ảnh
hưởng trực tiếp đến môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng và ngân hàng.
 Chính sách đầu tư của Nhà nước:
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lý hay không hợp lý đều ảnh
hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. Bởi vì, trên thực tế những
chính sách này sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh không chỉ đối với
các khách hàng mà ngay cả đối với ngân hàng.
Vì vậy, để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà nước cần có những

chính sách hợp lý như chính sách trợ giá, bảo hộ cho hàng sản xuất trong
nước. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho sản xuất phát triển dẫn đến ngân hàng có
môi trường đầu tư thuận lợi và đòi hỏi các ngân hàng phải tìm mọi cách để
thu hút vốn phục vụ mở rộng kinh doanh của mình. Mặt khác, khi sản xuất có
lãi, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện tích lũy cao, từ đó lại tạo môi
trường cho ngân hàng huy động vốn.
1.3.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
Nền kinh tế vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều
kiện tích lũy nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của ngân
hàng thuận lợi. Mặt khác, nó cũng tạo ra môi trường đầu tư cho ngân hàng từ
đó ngân hàng phải tìm ra biện pháp huy động vốn thiết thực cho hoạt động
kinh doanh của mình. Khi môi trường đầu tư ngân hàng được mở rộng thì thu

23

nhập của ngân hàng không ngừng phát triển, tạo tiền đề cho việc mở rộng vốn
tự có của ngân hàng.
Mặt khác, khi nền kinh tế không tăng trưởng, sản xuất bị đình trệ, nền
kinh tế bị suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng
bị thu hẹp, thua lỗ nên không doanh nghiệp nào vay vốn của ngân hàng để sản
xuất. Do đó, thu nhập của ngân hàng bị giảm làm cho quá trình tạo vốn của
ngân hàng gặp khó khăn. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho đồng tiền bị mất giá
người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng mà họ dùng tiền để mua hàng cất
trữ, vì vậy cũng gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động tạo vốn của ngân hàng.
1.3.2.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền.
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ huy động vốn của
ngân hàng. Nếu ở những vùng dân cư người ta quen sử dụng dưới hình thức
cất trữ là chính thì việc huy động vốn của ngân hàng gặp khó khăn. Chẳng
hạn vào thời kỳ vàng còn có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi để mua
vàng cất trữ

Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng
phát triển. Hầu hết những người dân có nhu cầu đều mở tài khoản séc để
thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên, những nước kém phát triển, thu nhập
của người dân thấp, nhu cầu thanh toán qua ngân hàng còn hạn chế nên ít
người mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến khả
năng tạo tiền của hệ thống NHTM.
Mức thu nhập của người dân là một yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến
lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng cao,
nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu
dùng và lúc này nhu cầu mở tài khoản như tiền gửi vào ngân hàng ngày một
tăng lên.

24

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI TẠI CHI
NHÁNH NHLD VID PUBLIC HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2009 - 2011.
2.1. Khái quát về Chi nhánh NHLD VID Public Hải Phòng .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHLD VID
Public Hải Phòng .
2.1.1.1. Giới thiệu chung về VID Public Bank:
VID Public bank là ngân hàng được thành lập ngày 30 tháng 9 năm
1991 và là Ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) và Ngân hàng PUBLIC BANK BERHAD - Malaysia (PBB)
với tỷ lệ góp vốn 50:50. Khai trương hoạt động tại Hà Nội tháng 5 năm
1992, ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình tại thành phố
HCM vào tháng 4 năm 1993, Đà Nẵng tháng 4 năm 1994, Hải Phòng
tháng 5 năm 1996, Bình Dương tháng 11 năm 2003, Chợ Lớn tháng 6 năm
2006, Chi nhánh Đồng Nai năm 2008. Ngân hàng đã có một mạng lưới
rộng khắp trên toàn quốc với 7 chi nhánh. Đặc biệt, tất cả các chi nhánh
của ngân hàng đều hoạt động trong cả giờ nghỉ trưa nhằm tạo sự thuận lợi

cho quý khách về thời gian đến giao dịch, vì lợi ích và sự thỏa mãn cao
nhất của quý khách.
BIDV là một trong 4 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh lớn nhất
của Việt Nam trong khi PBB là một trong ba ngân hàng lớn nhất của
Malaysia căn cứ vào tài sản hiện có và được xếp thứ hai căn cứ vào lợi
nhuận đạt được. Cả hai bên đối tác đều có uy tín rất cao, tình hình tài chính
lành mạnh, có nhiều kinh nghiệm và tiềm năng để hỗ trợ cho các hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng liên doanh VID Public.
NHLD VID Public là ngân hàng liên doanh đầu tiên được nhận bằng
khen của thủ tướng Chính Phủ năm 2001 và năm 2007 cho những đóng
góp của ngân hàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế , hiện đại hóa và công
nghiệp hóa đất nước. NHLD VID Public cũng liên tục nhận được các bằng
khen về các thành tích xuất sắc của các cơ quan hữu quan.
Với số vốn điều lệ năm 2007 là 20 triệu Đô La Mỹ đến nay số vốn
điều lệ đã là 62,50 triệu Đô La Mỹ và kết quả tài chính đạt được đáng phấn

25

khởi trong hơn 20 năm qua, NHLD VID Public đã được xếp vào một trong
7 ngân hàng hàng đầu có vốn đầu tư nước ngoài đạt thành tích cao nhất ở
Việt Nam và là ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài duy nhất được Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trao giải thưởng cho những đóng góp vào sự
nghiệp đổi mới ngành ngân hàng và tuân thủ chính sách pháp luật của Việt
Nam.
2.1.1.2. Lịch sử hình thành và phát trển của Chi nhánh NHLD VID Public
Hải Phòng :
Chi nhánh NHLD VID Public Hải Phòng là một trong số 7 chi nhánh
của NHLD VID Public. Chi nhánh đi vào hoạt động từ tháng 5 năm 1996.
Qua hơn 16 năm hoạt động chi nhánh đã từng bước ổn định, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh doanh, được lãnh đạo Ngân hàng VID Public đánh

giá là hoạt động có hiệu quả.
Vào giai đoạn mới thành lập, hoạt động của ngân hàng vẫn còn nhiều
khó khăn, nhân viên còn ít và công tác giao dịch còn gặp những hạn chế,
các dịch vụ khách hàng còn chưa đa dạng. Tuy nhiên cùng với sự nỗ lực
của ngân hàng và các chi nhánh ngày càng phát triển, bên cạnh các sản
phẩm truyền thống, chi nhánh còn phát triển các dịch vụ mới: Chiết khấu,
bảo lãnh, internet banking, dịch vụ phone banking, SMS banking… nhằm
phục vụ nhu cầu của khách hàng. Cùng với đó là sự đầu tư của ngân hàng,
chi nhánh nhanh chóng áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại tạo
nhiều tiện ích trong công tác giao dịch với khách hàng.
Trải qua hơn 16 năm hoạt động Chi nhánh Hải Phòng đã luôn khẳng
định vai trò, vị trí quan trọng của mình. Với phương châm “Sự hoàn hảo là
cam kết của chúng tôi” – “excellence is our commitment” được xây dựng
trên sự chuyên nghiệp, tận tụy, khác biệt cùng với khao khát vươn lên của
tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh NHLD VID Public Hải Phòng , chúng
ta hoàn toàn có thể tin tưởng Chi nhánh NHLD VID Public Hải Phòng sẽ
trở thành một đơn vị có sự nghiệp thành công và khẳng định được vị trí của
mình trong toàn hệ thống. Chi nhánh đã không ngừng nâng cao chất lượng
dịch vụ, triển khai các chương trình tín dụng trọng điểm, đẩy mạnh cho

26

vay, khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành
phố. Chi nhánh Hải Phòng đã tạo được sự tín nhiệm của đông đảo khách
hàng, đồng thời chi nhánh cũng luôn ý thức được rằng: Được khách hàng
tín nhiệm là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chi nhánh mình.
2.1.2. Các hoạt động kinh doanh Chi nhánh NHLD VID Public Hải
Phòng .
VID Public Bank luôn cung cấp cho khách hàng đầy đủ các dịch vụ
ngân hàng và tài chính như:

- Nhận tiền gửi: Nhận tiền gửi bằng USD và VND theo nhiều hình thức
linh hoạt với lãi suất hấp dẫn.
- Tài trợ thương mại: Cung cấp tất cả các dịch vụ tài trợ xuất nhập khẩu
bao gồm thư tín dụng, cho vay thanh toán L/C, tài trợ trước và sau khi xuất
bán.v.v
- Tín dụng: Cung cấp tất cả các hình thức tín dụng và bảo lãnh ngân hàng
với các loại hình sản phẩm đa dạng.
- Ngoại hối: Thực hiện tất cả các giao dịch ngoại hối theo chế độ quản lý
ngoại hối hiện hành.
- Dịch vụ chuyển tiền: Chuyển tiền nhanh chóng và hiệu quả trong và
ngoài nước.
- Đổi séc du lịch: Đổi các loại séc du lịch bằng ngoại tệ mạnh.
- Dịch vụ phụ trợ khác: ATM, Phone banking, VIDPB e-Banking là dịch vụ
ngân hàng trực tuyến giúp khách hàng thực hiện các giao dịch trên tài
khoản mở tại VID Public Bank thông qua một máy tính kết nối Internet.
Với công nghệ bảo mật Entrust (hãng bảo mật hàng đầu thế giới), khách
hàng có thể hoàn toàn yên tâm thực hiện giao dịch trực tuyến mọi lúc, mọi
nơi mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng.
- Một số sản phẩm dịch vụ mới: Thực hiện chương trình VNPAY kết nối
với các mạng viễn thông cho phép khách hàng nạp tiền trực tuyến. Với
dịch vụ thanh toán hóa đơn , khách hàng của VID Public Bank có thể thanh
toán các khoản phí sử dụng với nhà cung cấp một cách nhanh chóng, an
toàn bằng cách nhắn tin hoặc truy cập Internet Banking. Dịch vụ hiện đang

27

×