Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

THẨM MỸ Ở RĂNG TRƯỚC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.98 KB, 19 trang )

THẨM MỸ Ở RĂNG TRƯỚC

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu khảo sát vùng răng trước
hàm trên về mặt hình thái, qua đó tìm hiểu sự hiện diện của tỉ lệ vàng, hi vọng sẽ
góp phần cùng các nghiên cứu trước đây từng bước xây dựng những chuẩn mực
mang tính khách quan phục vụ cho việc chẩn đoán và cải thiện thẩm mỹ nụ cười.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, khảo sát qua ảnh chụp kĩ thuật số
trên 100 đối tượng (41 nam, 59 nữ), độ tuổi 18-28, là sinh viên Đại Học Y – Dược
Thành Phố Hồ Chí Minh. Các ảnh chụp được chuyển vào máy vi tính để đo đạc
bằng phần mềm AutoCAD và xử lý thống kê.
Kết quả: - Giá trị trung bình của các tỉ lệ ở vùng răng trước hàm trên: + Tỉ lệ về
chiều rộng giữa răng cửa bên và răng cửa giữa (R2/R1) là 0,73 (73%).+ Tỉ lệ về
chiều rộng giữa răng nanh và răng cửa bên là 0,83-0,85 (83%-85%).+ Tỉ lệ chiều
rộng/chiều cao của các răng cửa giữa hàm trên là 0,86 (86%).
Kết luận: - Các kích thước ở nam nhìn chung đều lớn hơn nữ. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê ở chiều cao của răng cửa giữa (p<0,05) và ở chiều rộng răng
nanh (p<0,01). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở chiều rộng răng cửa giữa
và răng cửa bên. Tuy nhiên, tỉ lệ các kích thước này lại giống nhau và có ý nghĩa
thống kê ở tất cả các trường hợp. - Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở tỉ lệ
đối tượng gần với tỉ lệ vàng giữa hai nhóm nam và nữ Không tìm thấy sự hiện
diện của tỉ lệ vàng ở vùng răng trước hàm trên.
ABSTRACT
Objectives: Analyze the width to length ratio of the clinical crown of the upper
central incisors (W/L) and the proportion of the mesiodistal width of the lateral
incisors to that of the central incisors (LI/CI) and that of the cuspids to the lateral
incisors (C/LI) (as they appeared on the frontal aspect of the maxillary anterior
teeth). Compare the esthetic proportions of the maxillary anterior teeth in
Vietnamese with the classical “golden proportion”.
Materials and Methods: 137 dental students who are confident of their smile
were examined order to some standard such as: No missing 8 maxillary anterior


teeth, no interdental spacing or crowding, no anterior restoration, no history of
orthodontic treatment. Using these criteria, 100 dental students (59 women and 41
men) from 18 to 28 years old were selected for evaluation. Standardized digital
photographs of frontal aspect were taken. AutoCad 2007 software was used to
measure the apparent mesiodistal width of the six maxillary anterior teeth
separately and the length of the central incisor. Esthetic proportions of the
maxillary anterior teeth were calculated. The data were statistically analyzed.
Results: On frontal aspect: W/L: 0.86 ± 0.07, LI/CI: 0.73 ± 0.06, C/LI: 0.84 ± 0.1.
The comparison between genders: All of the average measurements of men is
greater than women. The length of the central incisors and the width of the cuspids
were significantly greater in males (p<0.05 and p<0.01 respectively). Compared to
the classical “golden proportion” (0.618), the central incisor appeared shorter or
wider, the lateral incisors and the cuspids were more apparent.
Conclusion: The results of this study should be considered in the restoration of
the esthetic of the maxillary anterior teeth in Vietnamese.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các răng trước hàm trên được xem như tâm điểm, là chìa khóa trong việc đánh giá
và cải thiện vẻ thẩm mỹ của nụ cười. Tuy nhiên, thẩm mỹ mang tính chủ quan, vì
thế các nhà khoa học luôn nỗ lực tìm kiếm những chuẩn mực - nguyên tắc mang
tính khách quan, tạo sự dễ dàng, thống nhất trong việc đánh giá và phục hồi thẩm
mỹ nha khoa nói chung và thẩm mỹ vùng răng trước hàm trên nói riêng
(1,2,3)
.
Tỉ lệ vàng - tỉ lệ của cái đẹp đã được đề nghị như một công cụ phân tích toán học
nhằm cải thiện vẻ đẹp nụ cười dựa trên giả thuyết có mối liên hệ giữa nét đẹp
trong tự nhiên và trong toán học. Vậy, tỉ lệ vàng là gì? Theo Euclid, tỉ lệ vàng tồn
tại khi một đoạn thẳng được chia thành hai đoạn, tỉ số của phần nhỏ hơn với phần
lớn hơn bằng với tỉ số của phần lớn hơn so với tổng thể. Tỉ số này xấp xỉ 0,618
(62%)
(8)

.




Áp dụng vào việc tái tạo nụ cười khi nhìn từ phía trước, răng cửa bên rộng khoảng
62% răng cửa giữa, răng nanh bằng 62% răng cửa bên.
Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của tỉ lệ vàng trong nha khoa
nói chung và trong thẩm mỹ nụ cười nói riêng nhưng tỉ lệ vàng xét trong mối quan
hệ với vẻ đẹp của nụ cười mà tâm điểm là các răng trước hàm trên vẫn được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu.
Đề tài này được thực hiện với mục đích khảo sát vùng răng trước hàm trên về mặt
hình thái, qua đó tìm hiểu sự hiện diện của tỉ lệ vàng, hi vọng sẽ góp phần cùng
các nghiên cứu trước đây, từng bước xây dựng những chuẩn mực mang tính khách
quan phục vụ cho việc chẩn đoán và cải thiện thẩm mỹ nụ cười.
Các mục tiêu nghiên cứu được đặt ra như sau:
1. Xác định tỉ lệ chiều rộng/chiều cao thân răng lâm sàng của các răng cửa giữa
hàm trên (xét trong mặt phẳng đứng ngang).
2. Xác định tỉ lệ về chiều rộng giữa răng cửa bên so với răng cửa giữa và giữa răng nanh
so với răng cửa bên (xét trong mặt phẳng đứng ngang).
3. Khảo sát sự phân bố các tỉ lệ trên theo giới tính.
4. Xác định phần trăm các đối tượng có các tỉ lệ ở vùng răng trước hàm trên có tỉ
lệ vàng hay gần với tỉ lệ vàng.
5. Xác định có hay không mối quan hệ giữa tỉ lệ vàng với các tỉ lệ khảo sát ở người Việt
Nam.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số chọn mẫu
Sinh viên Đại học Y-Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
Kĩ thuật chọn mẫu

Chọn mẫu thuận tiện không xác suất
Cỡ mẫu
100 người (41 nam, 59 nữ)
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Tuổi từ 18 đến 28, người Việt Nam.
- Phải có đủ 8 răng trước hàm trên (từ răng 14 đến răng 24) và mất không quá 4 răng trên
toàn bộ hàm trên và hàm dưới (không tính răng 8).
- 8 răng trước hàm trên (từ răng 14 đến răng 24) tương đối nguyên vẹn về hình thái
giải phẫu:
+ Không mòn bất thường, không bị mẻ
+ Không trám, không dị dạng.
- Không có chấn thương hàm mặt, các dị hình hàm mặt hay phẫu thuật vùng hàm
mặt trước đó.
- Không có chỉnh hình răng mặt hoặc giải phẫu thẩm mỹ vùng hàm mặt trước đó.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả
Phương tiện nghiên cứu
- Máy ảnh kĩ thuật số Canon, loại SLR, hiệu EOS 300D, 6.3MP, ống kính 35mm,
có khoảng tiêu cự 28-105mm và hệ thống flash đi kèm.
- Máy vi tính với phần mềm đo đạc AutoCAD 2007.
- - Giá cố định đầu có gắn thước chia vạch milimet nằm trong mặt phẳng ngang.
Thước này có thể điều chỉnh vị trí lên xuống, trước sau, dùng để kiểm tra độ
phóng đại của ảnh và xác định kích thước thật của các số đo trên hình sau này
(máy chụp phim toàn cảnh ở bộ môn tia X- khoa RHM - ĐH Y-Dược TPHCM).
- Giá đỡ máy ảnh: có thể điều chỉnh lên xuống từng milimet để cho điểm AF (auto
focus) trên ống kính máy ảnh ngang mức với điểm lấy nét. Máy ảnh được cố định
bằng ốc vặn vào giá đỡ. Giá đỡ được thiết lập song song với mặt phẳng nằm
ngang.



Giá giữ đầu máy
chụp phim có gắn
thước chia vạch
milimet
Máy ảnh được cố
định trên giá đỡ nằm
ngang
Phương pháp thực hiện:
- Dùng phiếu thăm dò (bộ câu hỏi) để chọn lựa đối tượng phù hợp.
- Các đối tượng phù hợp sẽ được khám dựa theo những tiêu chuẩn đã đề ra nhằm
chọn lọc các đối tượng thật sự phù hợp với nghiên cứu.
- Chụp ảnh cận cảnh khuôn mặt nhìn thẳng của đối tượng ở tư thế cắn khớp trung
tâm (có cây banh miệng).
- Đo đạc các số liệu cần thiết bằng phần mềm AutoCAD 2007.
- Xử lý và phân tích số liệu bằng chương trình Microsoft Excel 2003, SPSS v.10.
* Phiếu thăm dò
Phát cho các sinh viên. Đối tượng phù hợp là những người quan tâm đến nghiên
cứu và tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.
* Khám
Theo các tiêu chuẩn chọn mẫu đã đề ra
* Kĩ thuật chụp ảnh
+ Chuẩn bị máy ảnh:
- Qui trình chụp ảnh được chuẩn hóa và giống nhau cho tất cả các lần
chụp.
- Máy ảnh kĩ thuật số với tiêu cự để ở 105mm, khẩu độ và tốc độ tự động phù hợp
với ánh sáng trong phòng.
- Máy được cố định trên giá đỡ máy ảnh. Trục dọc ống kính máy ảnh vuông góc
với đường thẳng nối hai điểm Orbital và song song với mặt phẳng nằm ngang.
Máy ảnh được điều chỉnh cho tâm ống kính cùng cao độ với điểm lấy nét, thể hiện

qua điểm AF trên khung ngắm máy ảnh trùng với điểm lấy nét.
- Khoảng cách từ máy ảnh đến đối tượng là 1,5m sao cho khuôn mặt nhìn thẳng
của đối tượng chụp nằm trọn trong khung ngắm.
+ Chuẩn bị đối tượng chụp ảnh
- Xác định điểm Orbital, dùng bút chấm một điểm nhỏ để đánh dấu
- Đối tượng đứng thẳng, hai tay buông thõng tự nhiên, mắt nhìn thẳng hướng về
ống kính máy ảnh.
- Nút tai của giá giữ đầu máy chụp phim được cài vào lỗ ống tai ngoài của đối tượng,
điều chỉnh sao cho ba điểm: bờ trên lỗ ống tai ngoài, điểm dưới ổ mắt, điểm định vị
phía mũi của máy chụp phim tia X nằm trên cùng một đường thẳng. Như vậy, đầu đối
tượng được cố định ở vị trí mặt phẳng Frankfort song song với sàn nhà.

Chấm điểm chuẩn Orbital

Điều chỉnh đầu đối tượng sao cho mặt phẳng Frankfort song song sàn nhà
+ Chụp cận cảnh khuôn mặt nhìn thẳng:
- Chụp ở tư thế cắn khớp trung tâm có cây banh miệng.
- Điểm ngắm lấy nét: điểm định vị phía mũi của cây chống mũi máy chụp phim tia
X.

Chụp ở tư thế cắn khớp trung tâm có cây banh miệng
- Trước và trong khi chụp hình, tạo không khí thoải mái, thân thiện giữa người
chụp ảnh với đối tượng được chụp
- Sử dụng ánh sáng tự nhiên trong phòng chụp và flash của máy ảnh.
- Tất cả các đối tượng đều do một người chụp.
* Thực hiện đo đạc
- Dữ liệu là ảnh chụp cận cảnh khuôn mặt ở tư thế cắn khớp trung tâm có cây banh
miệng.
- Lưu tất cả các hình ảnh chụp được vào máy vi tính.
- Sử dụng phần mềm AutoCAD để đo đạc với độ chính xác gần 0,1mm.

- Tất cả việc đo đạc được thực hiện bởi một người đã được tập huấn trước, có
tính kiên định cao.
Thiết lập độ tin cậy:
+ Chọn ngẫu nhiên 30% tấm ảnh để đo lại lần hai vào một ngày khác.
+ So sánh các số liệu đo lại lần hai với lần đầu bằng phép kiểm thống kê
Cronbach’s alpha nhằm xác định độ kiên định của người đo.
+ Độ tin cậy giữa hai lần đo được chấp nhận khi α>=0,7
Đo chiều rộng gần xa của mỗi răng từ răng nanh bên này đến răng nanh bên kia
(trong mặt phẳng đứng ngang).
Chiều rộng gần xa: là khoảng cách rộng nhất giữa cạnh gần và cạnh xa của mỗi
răng trên đường thẳng góc với trục dọc.
Đo chiều cao thân răng cửa giữa hàm trên trong mặt phẳng đứng ngang.
Chiều cao thân răng: Là khoảng cách lớn nhất từ bờ
cắn của răng cửa giữa đến đường viền nướu, trên đường thẳng song song với
trục dọc.

Sơ đồ các kích thước cần đo
* Xử lý và phân tích số liệu
Xử lý và phân tích số liệu bằng chương trình Microsoft Excel 2003, SPSS 10.
- Tính tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao thân răng cửa giữa.
- Tính tỉ lệ về chiều rộng giữa răng cửa bên và răng cửa giữa (R2/R1), giữa răng
nanh và răng cửa bên (R3/R2).
- So sánh các số liệu giữa nam và nữ bằng phép kiểm t (Independent-samples T-
test)
- Xác định có hay không sự khác biệt về tỉ lệ đối tượng có tỉ lệ vàng hay gần với tỉ lệ
vàng giữa nam và nữ bằng phép kiểm chi bình phương.
- Xác định có hay không mối liên hệ giữa tỉ lệ vàng với tỉ lệ chiều rộng/chiều cao
các răng cửa giữa hàm trên và giữa tỉ lệ vàng với tỉ lệ về chiều rộng giữa các răng
trước hàm trên bằng phép kiểm t (One-sample T-test).
KẾT QUẢ

Chiều cao của hai răng cửa giữa hàm trên thay đổi nhiều hơn (khoảng tin cậy 9,83-
10,16 và 9,84- 10,17) so với chiều rộng sáu răng trước hàm trên. Điều đó chứng tỏ
chiều cao các răng cửa giữa thay đổi nhiều theo từng cá thể.
Tỉ lệ về chiều rộng giữa răng cửa bên và răng cửa giữa (R2/R1) có giá trị trung
bình là 0,73 (73%). Trong khi đó, tỉ lệ về chiều rộng giữa răng nanh so với răng
cửa bên là 0,83-0,85 (83%-85%). Tỉ lệ chiều rộng so với chiều cao của các răng
cửa giữa hàm trên có giá trị trung bình được ghi nhận là 0,86 (86%).
Các kích thước ở nam nhìn chung đều lớn hơn nữ, điều này phù hợp với vóc dáng
cơ thể nói chung. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở chiều cao của hai răng
cửa giữa hàm trên (p<0,05) và ở chiều rộng của răng nanh (p<0,01). Sự khác biệt
về chiều rộng răng cửa giữa và răng cửa bên giữa hai giới không có ý nghĩa thống
kê.
Mặc dù các kích thước ở nam và nữ nhìn chung có sự khác biệt nhưng tỉ lệ các
kích thước này lại giống nhau và có ý nghĩa thống kê ở tất cả các trường hợp.
Kiểm định chi bình phương cho kết quả p>0,05 ở tất cả các trường hợp, điều đó
cho thấy giới tính không có liên quan đến mức độ gần với tỉ lệ vàng của tỉ lệ về
chiều rộng giữa các răng trước hàm trên.
Tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao của răng cửa giữa hàm trên và tỉ lệ về chiều
rộng giữa các răng trước hàm trên khác biệt có ý nghĩa thống kê so với tỉ lệ vàng
(p<0,001).
BÀN LUẬN
Sự khác biệt về mặt kích thước giữa nam và nữ đã được ghi nhận, ở nam các răng
trước hàm trên dài và rộng hơn so với nữ. Với phương pháp đo đạc trên mẫu hàm,
Gillen và cộng sự (1994)
(3)
đã báo cáo rằng các răng trước hàm trên ở nam dài và
rộng hơn so với nữ ở cả dân da trắng lẫn da đen. Tương tự, Sterrett (1999)
(11)
thấy
chiều rộng và chiều cao trung bình thân răng lâm sàng của các răng trước hàm trên

ở nam lớn hơn so với kích thước ở nữ đối với dân da trắng. Khi khảo sát trên
nhóm dân số Thổ Nhĩ Kì bằng phương pháp đo trên ảnh chụp, Hasanreisoglu
(2004)
(4)
cũng tìm thấy kết quả tương tự, răng cửa giữa và răng nanh thể hiện sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu này, tất cả các kích thước ở nam
đều lớn hơn nữ, trong đó giá trị trung bình của chiều rộng răng nanh và chiều cao
răng cửa giữa khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới (p<0,05), răng cửa giữa
lớn nhất ở cả hai giới. Những phát hiện này đều thống nhất với các nghiên cứu liên
quan. Tuy nhiên, không thấy sự khác biệt về chiều rộng của răng cửa giữa và răng
cửa bên ở hai giới.
Tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao thân răng được chấp nhận là yếu tố tham khảo
ổn định nhất, nó cho thấy sự khác biệt ít nhất giữa hai giới và giữa các răng
(4)
.
Gillen (1994)
(3)
cho rằng tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao răng cửa giữa hàm trên
không ảnh hưởng bởi giới tính ở cả dân da trắng lẫn da đen. Điều đó tương đồng
với kết quả được ghi nhận, tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao răng cửa giữa hàm
trên ở nam và nữ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao của răng cửa giữa hàm trên trong khoảng 84%-
87% so với tỉ lệ 76%-86% đã được ghi nhận trong y văn nha khoa
(11)
. Tỉ lệ này ở
cả hai giới hơi lớn hơn so với những đề nghị trong các nghiên cứu trước đây. Điều
đó thể hiện các răng cửa giữa hàm trên của nhóm dân số nghiên cứu có dạng hơi
vuông hơn tùy theo răng ngắn hơn hay rộng hơn so với nhóm dân số khác. Giá trị
trung bình của tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao của răng cửa giữa hàm trên được
ghi nhận trong nghiên cứu này là 0,84-0,85 ở nam và 0,87 ở nữ. Với cùng phương

pháp nghiên cứu, Hasanreisoglu (2004)
(4)
ghi nhận tỉ lệ này ở nam là 0,89 và ở nữ
là 0,91. Sterrett JD (1998)
(11)
nghiên cứu trên nhóm dân số người Mỹ bằng cách đo
trên mẫu hàm cho kết quả với giá trị trung bình của tỉ lệ này là 0,85 ở nam và 0,86
ở nữ. Một số tác giả đề nghị tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao răng cửa giữa hàm
trên trong khoảng 75%-78% được ưa thích hơn
(12)
. Điều đó chứng tỏ rằng các răng
trước hàm trên, đặc biệt là răng cửa giữa hàm trên nên có tỉ lệ giữa chiều rộng và
chiều cao gần bằng 80% để đạt được sự thể hiện tốt nhất về mặt thẩm mỹ. Ở đây,
tỉ lệ giữa chiều rộng và chiều cao răng cửa giữa hàm trên vượt quá 80% được đề
nghị như là chỉ số lý tưởng cho sự thể hiện một cách lôi cuốn ở cả nam và nữ.
Tỉ lệ về chiều rộng giữa răng cửa giữa và răng nanh so với răng cửa bên có giá trị
trung bình được ghi nhận là 1,35-1,37 (R1/R2) và 0,84-0,87 (R3/R2) ở nam; 1,37
(R1/R2) và 0,82-0,84 (R3/R2) ở nữ. Trong khi đó, với cùng phương pháp nghiên
cứu, Ufuk Hasanreisoglu và cộng sự (2004)
(4)
khảo sát trên nhóm dân số Thổ Nhĩ
Kì cho kết quả 1,52 (R1/R2) và 0,80 (R3/R2) ở nam; 1,54 (R1/R2) và 0,78
(R3/R2) ở nữ. Như vậy, nhìn chung, khi nhìn từ trước răng cửa giữa của nhóm dân
số Thổ Nhĩ Kì sẽ trông rộng hơn và răng nanh trông hẹp hơn so với nhóm dân số
người Việt. Điều này có thể giải thích là do chiều rộng răng cửa giữa của nhóm
dân số Thổ Nhĩ Kì rộng hơn, răng nanh hẹp hơn; hay có thể do cung răng của
nhóm dân số Thổ Nhĩ Kì hẹp hơn làm cho sự chuyển tiếp các răng trở nên đột ngột
hơn so với nhóm dân số người Việt. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên
cứu được thực hiện trên các nhóm dân số khác nhau
(2,5,9)

.
Tỉ lệ vàng khi được áp dụng ở vùng răng trước hàm trên, cho thấy rằng nếu chiều
rộng nhìn thấy được của mỗi răng trước gần 62% kích thước của răng gần kề nó,
lúc đó nó sẽ đạt được vẻ thẩm mỹ
(6,7)
. Kết quả nghiên cứu không tìm thấy sự hiện
diện của tỉ lệ vàng ở tỉ lệ về chiều rộng giữa các răng trước hàm trên. Với sự thừa
nhận có sự tồn tại khái niệm tỉ lệ vàng ở vùng răng trước hàm trên; ở cả nam và
nữ, răng cửa giữa trông hẹp hơn, răng nanh rộng hơn khi so sánh với răng cửa bên
ngăn cản việc đạt được tỉ lệ vàng. Hơn nữa, một số tác giả tin rằng tỉ lệ vàng xuất
hiện ở nụ cười thẩm mỹ
(5)
. Trong nghiên cứu, nụ cười thẩm mỹ không là tiêu
chuẩn để chọn đối tượng, do đó khó làm sáng tỏ việc thiếu vắng tỉ lệ vàng trong
nhóm này.
Trong nghiên cứu khảo sát sự ưa thích của nha sĩ Bắc Mỹ về tỉ lệ chiều rộng giữa
các răng trước hàm trên, Ward (2007)
(12)
nhận thấy nụ cười với chiều dài răng bình
thường, tỉ lệ 70% được ưa thích. Trong nghiên cứu Internet-based, Rosenstiel và
cộng sự (2000)
(10)
đã báo cáo rằng đối với thân răng dài, tỉ lệ vàng 62% được ưa
thích hơn; trong khi đó, tỉ lệ 80% được đề nghị sử dụng đối với các thân răng ngắn
hoặc rất ngắn. Các tác giả trên cho rằng khi sử dụng tỉ lệ 62% đến 80% cho vùng
răng trước hàm trên dựa vào độ lệch so với chiều dài bình thường giúp xác lập tính
thẩm mỹ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều được thực hiện bằng cách biến đổi các tỉ
lệ ở vùng răng trước hàm trên thông qua chương trình xử lý ảnh của máy tính,
không phải có được từ việc khảo sát dựa trên bộ răng tự nhiên. Ngoài ra, các
nghiên cứu khảo sát trên bộ răng tự nhiên của các nhóm dân số khác nhau đều

không thấy sự tồn tại của tỉ lệ vàng hay bất cứ tỉ lệ liên tiếp nào liên quan đến
những tỉ lệ đã được đề nghị. Điều đó tương đồng với kết quả được ghi nhận trong
nghiên cứu này.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là có nên áp dụng những mô thức toán học, đặc biệt là tỉ lệ
vàng vào việc tái lập vẻ thẩm mỹ vùng răng mặt nói chung và thẩm mỹ nụ cười
nói riêng hay không? Vì qua nghiên cứu của nhiều tác giả đều không tìm thấy sự
hiện diện của tỉ lệ vàng ở vùng răng trước hàm trên ở bộ răng tự nhiên của nhiều nhóm
dân số khác nhau. Có lẽ cần phối hợp thêm nhiều nghiên cứu liên quan đến việc đánh
giá sự thu hút của các chuẩn tỉ lệ khác nhau ở vùng răng trước hàm trên, đặc biệt là tìm
hiểu mối tương quan giữa các tỉ lệ này với các cấu trúc vùng răng mặt, để có thể có cái
nhìn sâu rộng và toàn diện hơn trong việc mang lại nụ cười tự tin và thu hút cho bệnh
nhân. Đúng như nhận định của Hoàng Tử Hùng (2003): “Công việc của thầy thuốc nha
khoa có vẻ không “cao siêu” và “quan trọng” lắm, nhưng đó là công việc can thiệp đến
một trong những vùng nhạy cảm nhất của con người, cả về khía cạnh sinh học và chức
năng lẫn khía cạnh nhân văn và xã hội”.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên ảnh chụp 100 sinh viên Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
(41 nam,59 nữ), độ tuổi từ 18-28, về sự hiện diện của tỉ lệ vàng ở vùng răng trước
hàm trên, nghiên cứu đạt được một số kết quả như sau:
- Tỉ lệ chiều rộng so với chiều cao thân răng lâm sàng của các răng cửa giữa hàm
trên có giá trị trung bình là 0,86 (86%).
- Tỉ lệ về chiều rộng giữa răng cửa bên so với răng cửa giữa (R2/R1) có giá trị
trung bình là 0,73 (73%). Tỉ lệ về chiều rộng giữa răng nanh so với răng cửa bên
(R3/R2) là 0,83-0,85 (83%-85%).
- Các kích thước ở nam nhìn chung đều lớn hơn nữ. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê ở chiều cao của hai răng cửa giữa hàm trên (p<0,05) và ở chiều rộng của
răng nanh (p<0,01). Sự khác biệt về chiều rộng răng cửa giữa và răng cửa bên giữa
hai giới không có ý nghĩa thống kê.
Mặc dù các kích thước ở nam và nữ nhìn chung có sự khác biệt nhưng tỉ lệ các
kích thước này lại giống nhau và có ý nghĩa thống kê ở tất cả các trường hợp.

- Không tìm thấy sự hiện diện của tỉ lệ vàng ở vùng răng trước hàm trên. Và giới
tính không ảnh hưởng đến việc có hay không sự hiện diện của tỉ lệ vàng.
Trong nghiên cứu này, không tìm thấy mối liên hệ nào giữa tỉ lệ ở vùng răng trước
hàm trên với các mô thức toán học, đặc biệt là tỉ lệ vàng - tỉ lệ đã được đề nghị
như chỉ số lý tưởng mang lại tính thẩm mỹ, kết quả tương đồng với nhiều nghiên
cứu được thực hiện trên những nhóm dân số khác nhau trên thế giới
(3)(4)(7)(9)
. Điều
này góp phần khẳng định tính đa dạng của tự nhiên, cái đẹp trong nha khoa không
thể được xác định một cách toán học. Con người không nên được chuẩn hóa theo
một cách nào đó
(7)
.
Mặc dù nha sĩ nên theo những nguyên tắc cơ bản trong quá trình điều trị, và các
nhà nghiên cứu luôn nỗ lực không ngừng nhằm tìm kiếm những yếu tố khách quan
trong việc đánh giá cũng như tái lập vẻ thẩm mỹ nói chung và thẩm mỹ nụ cười
nói riêng, nhưng cái đẹp ở mỗi người rất khác nhau và nụ cười đặc trưng cho từng
cá thể, gắn liền với đặc điểm tâm sinh lý của mỗi người, đó là điều không thể phủ
nhận.
Do đó, khi tái lập vẻ thẩm mỹ ở vùng răng trước nên chú ý những đặc trưng răng
mặt ở từng người, tính đa dạng của các tỉ lệ răng tự nhiên, đặc biệt là đặc trưng
văn hóa cũng như quan điểm về vẻ đẹp của mỗi người.

×