Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC QUA ỐNG DẪN LƯU pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.26 KB, 24 trang )

LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC QUA ỐNG DẪN LƯU

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị và độ an toàn của làm dính màng phổi
bằng talc qua ống dẫn lưu trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát nguyên
phát (TKMPTPNP) biến chứng.
Phương pháp nghiên cứu: Thực nghiệm can thiệp điều trị lâm sàng
Kết quả: từ 01/2002 đến 12/2006, có 74 trường hợp TKMPTPNP biến
chứng (gồm 65 nam giới, 9 nữ giới). Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 7,22:1.
TKMPTPNP xảy ra chủ yếu là lứa tuổi dưới 40 tuổi (83,78%). Tuổi trung
bình là 30,4. (từ 17 – 45 tuổi). TKMPTPNP tái phát gặp nhiều hơn
TKMPTPNP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP
(thời gian đặt ODLMP kéo dài quá 7 – 10 ngày) (90,54% so với 9,46%). Tỉ
lệ thành công của bơm talc làm dính màng phổi là 86,47% cho lần thứ nhất
và 100% cho lần thứ hai, với thời gian trung bình lưu ODLMP sau bơm talc
làm dính màng phổi là 2,85 ngày (giới hạn từ 1 – 10 ngày). Ba biến chứng
sớm thường gặp là đau ngực (54,05%), sốt (32,43%) xảy ra trong vòng 4 giờ
đầu tiên và ho khan (32,43%) xảy ra trong 4 – 12 giờ sau bơm talc màng
phổi. Sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm, tỉ lệ TKMP tái phát là 9,46% và
44,59% trường hợp có biến chứng muộn (thường gặp là đau ngực nhẹ và
cảm giác khó thở nhẹ khi gắng sức) nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể
đến sinh hoạt và làm việc hàng ngày của bệnh nhân. Đồng thời, chúng tôi
không ghi nhận xảy ra những biến chứng trầm trọng (suy hô hấp cấp, tụt
huyết áp, mủ màng phổi,… kể cả tử vong) sau bơm dung dịch talc làm dính
màng phổi.
Kết luận: Làm dày dính màng phổi bằng bơm dung dịch talc bơm qua
ODLMP hiệu quả cao và an toàn trong điều trị TKMPTPNP biến chứng.
ABSTRACT
Objective: to evaluate the effect and the safety of pleurodesis by talc
through chest drainage tube in the treatment of complicated primary
spontaneous pneumothorax (PSP).


Method: Clinical experimental study
Result: From 01/2002 to 12/2006, there were 74 cases of complicated PSP
(included 65 male and 9 female patients). The incidence ratio of male:femal
was 7,22:1. The average age was 30,4 (range, 17 to 45). Recurrent PSP
occurred more than first PSP (which didn’t response with chest drainage;
time for chest drainage lasted over 7 – 10 days) (90,54% versus 9,46%).
Rate of success of talc pleurodesis was 86,47% in the first time and 100% in
the second time, with an average duration of drainage chest tube was 3,41
days (range, 1 to 21). Three early complicated symptoms were chest pain
(54,05%), fever (32,43%) in the first four- hour time and cough (32,43%) in
a 4 – 12 hour time after talc pleurodesis. After monitoring in 1-4 year period,
rate of recurrentpneumothorax was 9,46% and late complications was
44,59% (light chest pain and dysnea, only occurred after an excessive
action) but they didn’t influence patient’s activities significantly.
Simultaneously, we haven’t detected any severe complications (acute
respiratory failure, hypotension, empyema,…even death) after talc
pleurodesis.
Conclusion: Pleurodesis by talc through chest drainage tube was high
effective and safe in the treatment of complicated PSP.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát (TKMPTPNP) là tình trạng tràn khí
màng phổi (TKMP) xảy ra mà không tìm thấy nguyên nhân bệnh lý cơ bản ở
phổi. Tràn khí màng phổi tự phát (TKMPTP) thường gặp do hình thành lỗ
dò từ phế nang vào trong khoang màng phổi. Lỗ dò được tạo nên do vỡ một
bóng khí phế thũng (bullae) cạnh màng phổi hoặc do vỡ một hang nhiễm
trùng trong mô phổi gây rách lá tạng màng phổi hình thành một đường dò
thông thương khí giữa phế nang với khoang màng phổi
(1,5,9,10,11,12,23,25)
.
TKMPTPNP biến chứng bao gồm những trường hợp TKMPTPNP tái phát

và những trường hợp TKMPTPNP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với
điều trị đặt ống dẫn lưu màng phổi (ODLMP) (thời gian đặt ống dẫn lưu kéo
dài quá 7 – 10 ngày). TKMPTP tái phát là tình trạng TKMP xuất hiện trở lại
sau lần TKMP đầu tiên và tỉ lệ tái phát ở những lần tiếp theo sẽ cao hơn rất
nhiều lần
(3,5,9,23,25,26)
. Theo y văn, tỉ lệ tái phát của TKMPTPNP còn khá cao
(31,8%)
(5,11,23,25)
. Đồng thời, đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng nhiều phương
pháp điều trị TKMPTP tái phát như làm dày dính màng phổi (pleurodesis)
bằng hóa chất (như Tetracycline, Doxycycline, Bleomycine, talc,…), bằng
nội soi lồng ngực hoặc bằng phẫu thuật như cắt màng phổi từng phần hay
toàn bộ hoặc làm trầy xước màng phổi chủ động…
(3,5,7,10,11,15,18,19,23,24)
. Qua
tham khảo trong y văn
(1,3,10,11,25,26)
, phương pháp bơm talc làm dày dính
màng phổi được sử dụng nhiều ở các nước như Mỹ, Anh và nhiều nơi khác
trên thế giới. Tại Việt nam chưa có nhiều nghiên cứu làm dày dính màng
phổi bằng talc trong điều trị TKMPTP. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị và độ an toàn của phương pháp làm
dính màng phổi bằng talc qua ODLMP trong điều trị TKMPTPNP biến
chứng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân TKMPTPNP tái phát và những trường hợp
TKMPTPNP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ống dẫn lưu
màng phổi (ODLMP) (thời gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày) sẽ

được bơm dung dịch talc qua ODLMP để làm dày dính màng phổi từ
01/2002 đến 12/2006 tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và được theo dõi tiếp
về hiệu quả điều trị, biến chứng và tỉ lệ tái phát trong vòng 1 đến 4 năm theo
kiểu cuốn chiếu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
- Bệnh nhân có tiền sử hoặc đang mắc các bệnh lý nặng sau: nhồi máu cơ
tim, rối loạn nhịp tim, suy tim nặng; suy thận cấp và mạn; suy gan cấp và
mạn; suy hô hấp cấp, rối loạn thăng bằng kiềm toan; rối loạn đông máu, ung
thư máu; nhiễm HIV/AIDS.
- Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với thuốc tê, cơ địa dị ứng với hóa chất…
- Bệnh nhân đang có thai
Loại hình nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm điều trị can thiệp lâm sàng
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân và dung dịch talc trước khi tiến hành bơm vào
khoang màng phổi
Tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều đã được đặt ODLMP để giải
thoát hết khí trong khoang màng phổi và có đủ điều kiện trước khi được điều
trị làm dày dính màng phổi bằng talc:
- Cải thiện triệu chứng lâm sàng (hết đau ngực, hết khó thở)
- X-quang phổi thẳng kiểm tra: hết tràn khí màng phổi
- Giải thích cho bệnh nhân rõ ràng về tình trạng bệnh và phương pháp điều
trị
- Đo dấu hiệu sinh tồn (tri giác, mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ)
- Chụp X-quang phổi thẳng kiểm tra và lấy khí máu động mạch
- Tiền mê (tiêm dưới da 0,25 – 0,5 mg Atropin; và uống 5 – 10 mg
Diazepam) 30 – 60 phút trước khi thực hiện thủ thuật.
- Bột talc được sử dụng có nguồn gốc sản xuất từ Pháp có độ tinh khiết cao,
không chứa amiăng, được dùng trong ngành y tế. Liều dùng để bơm talc làm

dày dính màng phổi là 2g, được tiệt trùng ở nhiệt độ cao 136
0
C trong 6 – 8
giờ, sau đó pha loãng với 50 ml nước muối sinh lý hoặc nước cất vô trùng
thành dung dịch talc. Dung dịch talc được chứa đựng trong ống tiêm nhựa
loại 50 ml, được lắc cho thật đều trước khi bơm vào khoang màng phổi.
Các bước tiến hành bơm dung dịch talc vào khoang màng phổi
- Sau khi nhu mô phổi nở hoàn toàn, bệnh nhân được tiêm 100 mg lidocaine
qua ống dẫn lưu vào trong khoang màng phổi trước.
- 15 phút sau, bơm từ từ 50 ml dung dịch talc qua ống dẫn lưu vào khoang
màng phổi.
- Kẹp ống dẫn lưu khoảng 1 – 2 giờ, chỉ dẫn bệnh nhân xoay đổi tư thế mỗi
15 phút để dung dịch talc tráng đều khắp bề mặt màng phổi.
- Sau đó mở ống dẫn lưu trong 24 giờ.
Các bước theo dõi sau bơm talc làm dày dính màng phổi
- Ghi nhận các dấu hiệu của biến chứng sớm (sốt, đau ngực, ho, khó thở), và
dấu hiệu sinh tồn (tri giác, mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ) ngay sau khi
thực hiện thủ thuật, và các thời điểm kế tiếp trong vòng 4 giờ, 12 giờ, 24 giờ,
48 giờ, 72 giờ và trên 72 giờ nếu thấy cần. Đồng thời xử trí kịp thời các biến
chứng xảy ra (nếu có).
- Theo dõi tình trạng hoạt động của ODLMP, chụp X-quang phổi và đo khí
máu kiểm tra 24 giờ sau. Nếu nhu mô phổi nở hoàn toàn, ống dẫn lưu ngưng
hoạt động thì rút ống dẫn lưu.
- Tiếp tục theo dõi thêm 24 giờ sau đó, kiểm tra lâm sàng, X-quang phổi,
nếu tiến triển thuận lợi thì cho bệnh nhân xuất viện.
- Nếu sau 48-72 giờ sau bơm talc lần thứ nhất, ODL còn hoạt động, tiến
hành bơm talc lần thứ hai, nếu vẫn thất bại thì chuyển sang phương pháp
khác.
- Nếu 7 – 14 ngày sau khi bơm bột talc màng phổi, ống dẫn lưu vẫn còn
thoát khí thì xem như phương pháp này thất bại cần chuyển sang dùng

phương pháp điều trị khác. Tuy nhiên, kéo dài thời gian lưu ống dẫn lưu sau
bơm talc còn tùy thuộc vào tổng trạng bệnh nhân.
Thống kê và xử lý số liệu
Dùng phần mềm EXCEL 2006, STATA version 6.0 để nhập, quản lý và xử
lý số liệu. Các biến số được phân tích bằng các test thống kê thích hợp, giá
trị P < 0,05 được đánh giá là có ý nghĩa thống kê. Các mối liên quan được
xem xét bằng chỉ số nguy cơ tương đối (RR: Relative Risk) với độ tin cậy
95%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2002 đến 12/2006, chúng tôi thu
nhận 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng nhập viện và thỏa điều kiện
điều trị bơm dung dịch talc làm dày dính màng phổi qua ODLMP tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch. Trong đó, tính chất của 74 trường hợp TKMPTPNP
biến chứng như sau:
Bảng 1: Tính chất của TKMPTPNP biến chứng
Tính chất Số trư
ờng
hợp (%)
TKMPTPNP tái phát 67
(90,54%)
TKMPTPNP lần đầu nh
ưng
không đáp
ứng với điều trị
đặt ODLMP
7 (9,46%)
Đa số các trường hợp TKMPTPNP tái phát nhưng cũng có 7 trường hợp
TKMPTPNP lần đầu nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP (thời
gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày).
Đặc điểm giới tính và tuổi

Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng, có 65 trường hợp (87,84%)
là nam giới, 9 trường hợp (12,16%) là nữ giới. Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là
7,22:1. Tuổi trung bình là 30,4. Tuổi lớn nhất là 45 và tuổi nhỏ nhất là 17.
Bảng 2: Phân bố lứa tuổi
Lứa tuổi Số trường hợp (%)
< 25 tuổi 11 (14,86%)
25 – 40 tuổi 51 (68,92%)
> 40 tuổi 12 (12,22%)
Đa số các trường hợp dưới 40 tuổi (62 trường hợp; 83,78%).
Triệu chứng lâm sàng và X-quang phổi trước khi làm dính màng phổi
bằng talc
Bảng 3: Thời gian khởi bệnh
Thời gian khởi bệnh

Số trư
ờng hợp
(%)
< 3 ngày 69 (93,24%)
3 – 7 ngày 5 (6,76%)
Đa số các trường hợp có thời gian khởi bệnh ngắn dưới 3 ngày (68,66%).
Bảng 4: Hoàn cảnh xuất hiện TKMP
Hoàn cảnh xuất hi
ện
TKMP
Số trư
ờng hợp
(%)
Sau hoạt động thể thao 34 (45,94%)
Sau g
ắng sức đột ngột

trong công việc
27 (36,49%)
Không rõ 13 (17,57%)
Đa số các trường hợp xuất hiện TKMP sau một vận động gắng sức
(82,43%), bệnh nhân cảm thấy đau ngực và/hoặc khó thở tăng lên phải đi
khám bệnh.
Bảng 5: Triệu chứng lâm sàng lúc nhập viện
Tri
ệu chứng lâm
Số trư
ờng hợp
sàng (%)
Khó thở 74 (100%)
Đau ngực 74 (100%)
Ho khan 46 (62,16%)
Ho khạc đàm 8 (10,81%)
H
ội chứng 2 giảm, 1
tăng
74 (100%)
Ran rít 12 (16,22%)
Đặc biệt, có 12 trường hợp TKMPTPNP khám phổi nghe được ran rít ở một bên
và các trường hợp này đều có biểu hiện TKMP lượng nhiều.
Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán xác định tràn khí màng phổi bằng
chụp X-quang phổi thẳng sau-trước qui ước.
Bảng 6: Vị trí và mức độ TKMP trên X-quang phổi
Vị trí và m
ức
độ TKMP
Số trư

ờng
hợp (%)
Vị trí TKMP Bên trái 25 (33,78%)
Bên phải

49 (66,22%)
Hai bên 0 (0%)
Lượng ít 8 (10,81%) Mức độ TKMP

(
theo BTS,
2003)
Lượng
nhiều
66 (89,19%)
TKMP bên phải gặp nhiều hơn bên trái và không có trường hợp TKMP hai
bên. TKMP lượng nhiều xảy ra nhiều hơn TKMP lượng ít.
Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng, chỉ có 24 trường hợp (chiếm
28,38%) được làm CT scan ngực sau khi đã hết TKMP trên X-quang phổi. Trong
đó, 21/24 trường hợp phát hiện kén khí phế thũng khu trú ở thùy trên phổi.
Kết quả điều trị và biến chứng ngay sau bơm dung dịch talc làm dính
màng phổi
Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng đã được bơm dung dịch talc
qua ODLMP để làm dày dính màng phổi, có 64 trường hợp (86,47%) thành
công trong lần bơm dung dịch talc đầu tiên, và 10 trường hợp (13,53%) còn
lại thất bại sau lần bơm talc đầu tiên phải tiến hành bơm dung dịch talc lần
hai ngay sau đó mới thành công.
Bảng 7: Thời gian lưu ODLMP bơm talc màng phổi
Thời gian lưu
ODL

Số trường hợp
(%)
 3 ngày
58 (78,38%)
> 3 ngày 16 (21,62%)
Thời gian trung bình lưu ODLMP sau bơm talc màng phổi là 2,85 ngày
(giới hạn từ 1 – 10 ngày).
Bảng 8: Biến chứng xảy ra ngay sau bơm talc màng phổi
Biến chứng Số trường hợp
(%)
Không có biến
chứng
31 (41,89%)
Sốt đơn thuần 3 (4,05%)
Sốt và đau ngực 19 (25,67%)
Đau ngực đơn
thuần
21 (28,38%)
Ho khan 24 (32,43%)
- Có 4,05% trường hợp biểu hiện sốt đơn thuần nhưng đáp ứng tốt với thuốc
hạ sốt thông thường dưới 3 ngày,
- 19 trường hợp sốt và đau ngực đều xảy ra ngay trong vòng 4 giờ sau khi
bơm talc. Trong đó, 15/19 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt
dưới 3 ngày, chỉ có 4/19 trường hợp kéo dài trong 5 – 7 ngày.
- 21 trường hợp đau ngực đơn thuần đều xảy ra ngay trong vòng 4 giờ sau khi
bơm talc. Trong đó, 11/21 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm đau dưới 3
ngày, 6/21 trường hợp kéo dài trong 7 – 14 ngày và 4/21 trường hợp kéo dài trên
14 ngày.
- Trong 40 trường hợp đau ngực, chỉ có 6 trường hợp là đau ngực nhiều phải
dùng kết hợp thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg

diazepam) tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
- 24 trường hợp xuất hiện ho khan, xảy ra trong khoảng thời gian 4 – 12 giờ
sau bơm talc màng phổi và đều đáp ứng tốt với thuốc giảm ho trong 3 ngày.
- Không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp cấp, hạ huyết áp, hạ oxy máu,
mủ màng phổi xảy ra ngay sau bơm bột talc màng phổi.
Tỉ lệ tái phát, và biến chứng sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Về tỉ lệ tái phát, sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi, 74 trường hợp
TKMPTP biến chứng được theo dõi tiếp (theo kiểu cuốn chiếu) trong vòng 1
– 4 năm, chúng tôi ghi nhận có 7 trường hợp (9,46%) biểu hiện TKMP tái
phát. Trong đó, 5 trường hợp tràn khí màng phổi tái phát xảy ra ở những
bệnh nhân trên 35 tuổi và hút thuốc lá trên 2 gói năm.
Bảng 9: Tỉ lệ tái phát sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Tỉ lệ tái phát Số trường hợp (%)
Có tái phát 7 (9,46%)
Không tái phát 67 (90,54%)
Về biến chứng, sau thời gian theo dõi trong vòng 1 – 4 năm, chúng tôi ghi
nhận:
Bảng 10: Biến chứng bơm talc màng phổi sau thời gian theo dõi 1 – 4 năm
Biến chứng S
ố tr. hợp
(%)
Không biến chứng 41 (55,41%)

Đau ng
ực nhẹ (âm ỉ hoặc
chỉ xảy ra khi gắng sức)
18 (24,32%)

Đau ngực nhẹ và c
ảm giác

12 (16,22%)

khó thở
chỉ xảy ra khi gắng sức
C
ảm giác khó thở chỉ xảy
ra khi gắng sức
3 (4,05%)
Khoảng 30 trường hợp khác (40,54%) có biểu hiện đau ngực (phía bên tràn
khí màng phổi đã được bơm talc trước đó) chỉ xảy ra khi gắng sức, khi làm
việc nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và lao động hàng
ngày. Triệu chứng này đều cải thiện nhanh chóng khi dùng thuốc giảm đau
thông thường. Đồng thời, có 15 trường hợp (20,27%) có cảm giác khó thở
khi gắng sức, khi hoạt động nhiều và hết cảm giác khó thở khi nghĩ ngơi.
Các trường hợp này được đo chức năng hô hấp có biểu hiện hạn chế hô hấp
mức độ nhẹ. Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp cấp, hạ
huyết áp, hạ oxy máu, mủ màng phổi xảy ra sau bơm bột talc màng phổi
trong suốt thời gian theo dõi 1 – 4 năm.
BÀN LUẬN
Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng, TKMPTPNP tái phát gặp nhiều
hơn TKMPTPNP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP
(thời gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày) (90,54% so với 9,46%).
Về giới tính và tuổi
74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng xảy ra ở nam giới nhiều hơn nữ giới
(87,84% so với 12,16%). Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 7,22:1. Tuổi trung bình
là 30,4 (từ 17 – 45 tuổi). Đồng thời, tỉ lệ TKMPTPNP xảy ra chủ yếu là lứa
tuổi dưới 40 tuổi (62 trường hợp; chiếm 83,78%) (bảng 2). Điều này cũng
phù hợp với trong y văn
(1,3,5,11,12,23,25)
, nhiều nghiên cứu khác cũng cho kết

quả tương tự TKMPTPNP thường xảy ra ở nam nhiều hơn nữ và dưới 40
tuổi.
Về biểu hiện lâm sàng và X-quang phổi
Đa số các trường hợp có thời gian khởi bệnh ngắn dưới 3 ngày (93,24%),
thường xảy ra sau một hoạt động gắng sức (trong thể thao hoặc trong công
việc) (82,43%), bệnh nhân cảm thấy đau ngực vŕ/hoặc khó thở tăng lên phải
đi khám bệnh. Tuy nhiên, theo Berk J.L.
(5)
, TKMPTP nguyên phát xảy ra lúc
nghĩ ngơi là chủ yếu (> 90%), khoảng < 10% lúc vận động. Biểu hiện triệu
chứng lúc nhập viện, tất cả bệnh nhân đều có biểu hiện khó thở và đau ngực.
Một số trường hợp khác có biểu hiện ho khan (62,16%) hoặc ho khạc đàm
(10,81%). Điều này cũng phù hợp với y văn
(3,5,11,12,23,25)
, biểu hiện thường
gặp của TKMPTP là khó thở hoặc đau ngực cấp tính (90% trường hợp) và
2/3 trường hợp (75%) biểu hiện cả hai triệu chứng trên. Ngoài ra, có 12
trường hợp TKMPTPNP khi khám phổi nghe được ran rít ở một bên và đây
là các trường hợp TKMP lượng nhiều, đẩy lệch đáng kể trung thất sang bên
đối diện. Tất cả các trường hợp TKMPTPNP đều được chẩn đoán xác định
TKMP bằng chụp X-quang phổi thẳng sau-trước qui ước. Chưa có trường
hợp nào phải cần sự hỗ trợ thêm của X-quang phổi nghiêng hoặc CT can
lồng ngực. Tuy nhiên, trong y văn
(8)
, ghi nhận có gần 14 trường hợp TKMP
tự phát cần sự hỗ trợ của X-quang phổi nghiêng để giúp chẩn đoán. Đồng
thời, số trường hợp TKMP lượng nhiều chiếm tỉ lệ nhiều hơn TKMP lượng
ít (89,19% so với 10,81%) và tất cả là TKMP một bên, bên phải gặp nhiều
hơn bên trái (66,22% so với 33,78%).
Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng, chỉ có 24 trường hợp (chiếm

28,38%) được làm CT scan ngực sau khi đã hết TKMP trên X-quang phổi.
Trong đó, có 21/24 trường hợp (87,5%) TKMPTPNP phát hiện kén khí phế
thũng qua CT scan ngực và tập trung chủ yếu ở thùy trên phổi. Trong y
văn
(2,4,8,11,13,15,17,23)
, nhiều nghiên cứu cũng ghi nhận 80 – 90% các trường
hợp TKMPTP nguyên phát qua CT scan ngực phát hiện hình ảnh kén khí
phế thũng khu trú, tập trung thùy trên phổi và 90% trường hợp TKMPTP
nguyên phát phát hiện các bóng khí (bullae) phế nang cạnh màng phổi qua
nội soi khoang màng phổi (thoracoscopy) hoặc phẫu thuật mở lồng ngực
(thoracotomy).
Về hiệu quả điều trị bơm talc làm dính màng phổi
Trong 74 trường hợp TKMPTPNP biến chứng đã được bơm dung dịch talc
qua ODLMP để làm dày dính màng phổi, có 64 trường hợp (86,47%) thành
công trong lần bơm dung dịch talc đầu tiên, và 10 trường hợp (13,53%) còn
lại thất bại sau lần bơm talc lần thứ nhất phải tiến hành bơm dung dịch talc
lần thứ hai ngay sau đó mới thành công. Tỉ lệ thành công trong lần bơm talc
lần thứ nhất là 86,47% và nếu tính đến thời điểm xuất viện thì tỉ lệ bơm
dung dịch talc làm dính màng phổi thành công là 100%. Thời gian trung
bình lưu ống dẫn lưu sau bơm talc màng phổi là 2,85 ngày (giới hạn từ 1 –
10 ngày). Theo tác giả Tschopp J. M. et al
(26)
, tỉ lệ thành công khoảng 97%
(90/93 trường hợp TKMPTP biến chứng được bơm bột talc màng phổi qua
nội soi lồng ngực) và thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm bột talc
màng phổi là 5 ngày (giới hạn từ 2 – 40 ngày). Theo Kennedy L. và Sahn S.
A.
(14,22)
, tỉ lệ bơm bột talc màng phổi thành công 91%. Theo Henry T. et
al

(11)
, tỉ lệ thành công là 85% – 92%. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng
tôi đã cho thấy hiệu quả điều trị bơm talc làm dày dính màng phổi cũng
tương tự như các nghiên cứu khác.
Về tỉ lệ tái phát của bơm bột talc màng phổi sau thời gian theo dõi 1 – 4
năm
Chúng tôi phát hiện có 7 trường hợp TKMPTPNP (9,46%) tràn khí màng
phổi tái phát. Trong đó, 5 trường hợp có TKMP tái phát xảy ra ở những bệnh
nhân trên 35 tuổi và hút thuốc lá trên 2 gói năm. Đồng thời, khi tham khảo
các tài liệu trong y văn, cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào về tỉ lệ tái
phát TKMP sau bơm dung dịch talc màng phổi qua ODLMP để làm dính
màng phổi. Chúng tôi chỉ ghi nhận được tỉ lệ tái phát của TKMPTPNP nói
chung còn khá cao 31,8%, và tỉ lệ TKMP tái phát của một số phương pháp
làm dày dính màng phổi khác như Bauman M.H. et al
(3)
, tỉ lệ tái phát TKMP
sau làm dày dính màng phổi bằng tetracycline là 25% so với nhóm chứng là
41%; và Berk J.L.
(5)
cũng ghi nhận tỉ lệ TKMP tái phát sau làm dày dính
màng phổi bằng tetracycline ở những bệnh nhân có bệnh lý phổi cơ bản là
28% so với 43% nhóm chứng và ở những bệnh nhân không có bệnh lý phổi
cơ bản là 11% so với 32% nhóm chứng. Theo Henry T. et al
(11)
, ghi nhận tỉ
lệ TKMP tái phát sau cắt màng phổi là 0,4% (n=752); sau làm trầy xước
màng phổi chủ động (n=301)là 2,3% và tỉ lệ TKMP tái phát sau phẫu thuật
nội soi lồng ngực với sự trợ giúp của màng hình vô tuyến (VATS) là 5 –
10%. Trong khi tỉ lệ TKMP tái phát sau bơm dung dịch talc màng phổi trong
nghiên cứu của chúng tôi là 9,46%.

Về biến chứng sớm xảy ra ngay sau bơm dung dịch talc màng phổi
Chúng tôi ghi nhận các biến chứng thường gặp, đó là đau ngực (40/74
trường hợp, 54,05%), sốt 22/74 trường hợp; 29,73%) và ho khan (24/74
trường hợp; 32,43%). Trong đó, có 19 trường hợp (25,67%) đau ngực và sốt
xảy ra cùng lúc. Đa số các biến chứng đau ngực và sốt đều xảy ra trong vòng
4 giờ sau bơm talc màng phổi, và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt
thông thường trong vòng dưới 3 – 5 ngày. Theo Kennedy L.và Sahn S. A.
(14)
,
16 – 69% trường hợp sốt xảy ra trong vòng 4 – 12 giờ sau bơm talc và kéo
dài trong 3 ngày. Tác giả Rush V. W. et al
(21)
, có 46/73 trường hợp sốt
(63%). Trong khi biến chứng sốt trong nghiên cứu của chúng tôi là 29,73%.
Trong 40 trường hợp đau ngực, chỉ có 6 trường hợp là đau ngực nhiều phải
dùng kết hợp thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg
diazepam) tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Theo Walker-Renard P. B. et al
(27)
,
cho thấy tỉ lệ đau ngực (từ ít đến nhiều) gây ra sau bơm bột talc màng phổi
khoảng 7% (9/131 trường hợp) thấp hơn rất nhiều khi so sánh với tỉ lệ đau
ngực gây ra do Bleomycin là 28% (56/199 trường hợp) và Doxycycline là
40% (24/60 trường hợp), chủ yếu là đau ngực nhiều.Đối với biến chứng suy
hô hấp cấp, nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào suy
hô hấp cấp xảy ra sau bơm dung dịch talc màng phổi. Trong khi các tác giả
khác có ghi nhận những trường hợp suy hô hấp cấp như Rehse D. H. et al
(20)
, (33% suy hô hấp hoặc tử vong trong tổng số 78 bệnh nhân được bơm
talc màng phổi);hoặc Compos et al
(6)

(7/550 trường hợp suy hô hấp cấp,
trong đó có 4 trường hợp tử vong sau bơm talc màng phổi). Tuy nhiên, cơ
chế suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm talc màng phổi thì chưa được biết rõ và
có nhiều nguyên nhân đưa đến suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm bột talc
(16,22)
.
Ngoài ra, các biến chứng khác cũng được ghi nhận trong y văn như Berk
J.L.
(5)
: ghi nhận có dưới 3 % trường hợp mủ màng phổi và Light R.W.
(16)

ghi nhận 7/29 trường hợp hạ oxy máu và tụt huyết áp xảy ra sau bơm bột
talc màng phổi. Trong khi, kết quả nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận
trường hợp nào hạ huyết áp, hạ oxy máu, hoặc mủ màng phổi xảy ra sau
bơm bột talc màng phổi.
Về biến chứng muộn xảy ra trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Chúng tôi ghi nhận Khoảng 55,41% các trường hợp không biến chứng sau
bơm talc màng phổi, bệnh nhân vẫn sinh hoạt bình thường. Một số trường
hợp có biểu hiện chủ yếu là các biến chứng nhẹ chiếm 44,59% (bao gồm đau
ngực nhẹ hoặc cảm giác khó thở nhẹ khi gắng sức, khi làm việc nặng hoặc
cả hai) nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và làm việc hàng
ngày của bệnh nhân và các trường hợp này cũng đáp ứng tốt với thuốc giảm
đau thông thường và nghỉ ngơi. Điều này cũng được ghi nhận trong nhiều
nghiên cứu trong y văn
(6,10,11,14,15)
. Ngoài ra, chúng tôi không ghi nhận dấu
hiệu nào khác trong thời gian theo dõi.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tỉ lệ thành công của bơm dung

dịch talc qua ODLMP làm dày dính màng phổi là 86,47% cho lần thứ nhất
và 100% cho lần thứ hai, với thời gian trung bình lưu ODLMP sau bơm
dung dịch talc làm dính màng phổi là 2,85 ngày (giới hạn từ 1 – 10 ngày).
Hai biến chứng sớm là đau ngực (54,05%), sốt (32,43%) thường xảy ra ngay
trong vòng 4 giờ đầu tiên và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt trong
vòng 3 – 5 ngày; ho khan (32,43%) đều xảy ra trong khoảng 4 – 12 giờ sau
bơm talc màng phổi và đáp ứng tốt với thuốc giảm ho trong vòng 3 ngày.
Sau thời gian theo dõi 1 – 4 năm, tỉ lệ TKMP tái phát là 9,46% và 44,59%
trường hợp có biến chứng muộn (thường gặp là đau ngực nhẹ và cảm giác
khó thở nhẹ khi gắng sức) nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể đến sinh
hoạt và làm việc hàng ngày của bệnh nhân. Các biến chứng muộn này cũng
đáp ứng tốt với thuốc giảm đau thông thường và nghỉ ngơi. Đồng thời chúng
tôi không ghi nhận xảy ra những biến chứng trầm trọng (suy hô hấp cấp, tụt
huyết áp, mủ màng phổi,… kể cả tử vong) sau bơm talc màng phổi. Cùng
với nhiều nghiên cứu khác, đã chứng tỏ phương pháp làm dày dính màng
phổi bằng talc dễ thực hiện, đơn giản, đạt hiệu quả cao và an toàn. Chúng ta
nên tiếp tục nghiên cứu cũng như ứng dụng rộng rãi phương pháp này trong
điều trị TKMPTPNP biến chứng nói riêng và TKMPTP nói chung.

×