Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

BÀNG QUANG TRỰC VỊ (THAY THẾ NỐI VỚI NIỆU ĐẠO) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.07 KB, 22 trang )

BÀNG QUANG TRỰC VỊ (THAY THẾ NỐI VỚI NIỆU ĐẠO)

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bàng quang trực vị cần được theo dõi trong thời gian dài hơn
những kết quả đã được báo cáo trước đây
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của bàng quang tân tạo trong thời gian tối
thiểu trên 3 năm sau mổ trên 2 mặt: chức năng và chất lượng sống
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Những trường hợp bàng quang
trực vị bằng hồi tràng có thời gian theo dõi tối thiểu là trên 3 năm và làm đủ
các xét nghiệm cần thiết theo tiêu chuẩn đặt ra
Kết quả: 84 bệnh nhân. Tỷ lệ tốt cao nhất ở tháng thứ 6 hậu phẫu. Sau đó vì
vấn đề tồn lưu nước tiểu nên có giảm đi chút ít trong thời gian sau.
Kết luận: Bàng quang trực vị là một lựa chọn tốt giúp bệnh nhân có thể đi
tiểu một cách tự nhiên sau mổ. Tuy nhiên cần theo dõi để phát hiện và khắc
phục tình trạng thể tích nước tiểu tồn lưu lớn.
ABSTRACT
Purpose: Evaluation of long term of orthotopic bladder reconstruction after
radical cystectomy, at least 3 years of follow-up, in 2 points: function of the
neobladder and quality of life of the patient
Material – method: all cases that satisfy the criteria of follow up: more than
3 years of survey, performing all requiring tests, full cooperation to reply the
questions about quality of life
Results: 84 cases. Best ratio occurs at 6 th month of post operation.
Aftermath, because of the post voiding volume so the outcome lightly
diminishes
Conclusion: orthotopic bladder substitution is the option that gives the
postoperative patient a normal voiding situation. Nevertheless, long- term
follow -up is needed to unveil and manage the large volume of post-voiding
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật tạo hình thay thế bàng quang bằng ruột hiện nay đã được thực
hiện thường xuyên tại BV Bình Dân. Một số kết quả, trên những đoạn ruột


khác nhau và bằng những kỹ thuật khác nhau, đã đuợc tập hợp và báo cáo
trước đây
(3,4)
. Tuy vậy, đa số những báo cáo này chỉ dựa trên những số liệu
thu thập trong khoảng thời gian 6 tháng đến 1 năm sau mổ. Bàng quang thay
thế gồm 2 nhóm:
Bàng quang trực vị: bàng quang thay thế nối với niệu đạo, giúp bệnh nhân
có thể đi tiểu một cách “tự nhiên” sau mổ.
Bàng quang chuyển lưu ra da: có một van chuyển lưu có kiểm soát ngoài da.
Bệnh nhân không phải đeo ống, mang bọc, nhưng được hướng dẫn phương
pháp tự thông cách quãng nhiều lần trong ngày.
Bàng quang thay thế là một cơ quan mới, do đó cần có thời gian để thích
ứng với nhiệm vụ mới. Người bệnh cũng cần có thời gian để làm quen, nhận
biết và điều khiển cơ quan mới.
Kinh nghiệm trong hơn 10 năm cho chúng tôi nhận xét: sự thành công của
phẫu thuật phụ thuộc rất nhiều vào việc theo dõi định kỳ sau mổ. Bàng
quang thay thế cần ít nhất 6 tháng để ổn định. Có nhiều thay đổi trong 6
tháng đầu sau mổ, và vẫn còn tiếp tục trong thời gian sau với tốc độ chậm
hơn. Do đó thời gian theo dõi vài năm là rất cần thiết để đánh giá lại bàng
quang tân tạo. Để theo dõi những thay đổi trên bàng quang tân tạo và phát
hiện sớm các biến chứng nếu có, chúng tôi có áp dụng lịch tái khám định kỳ
cho tất cả bệnh nhân sau mổ. Thực tế cho thấy những bệnh nhân nào giữ mối
liên hệ chặt chẽ với BS phẫu thuật thường có được kết quả khả quan hơn.
MỤC TIÊU
Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật và tính bền vững theo thời gian: những
thay đổi quan trọng cần chú ý và cách điều chỉnh, khắc phục. Sự đánh giá
thực hiện trên 2 mặt chính:
-Khả năng bàng quang tân tạo có thể đảm nhiệm một phần chức năng của
bàng quang bình thường về mặt thể tích chứa đựng, kiểm soát chủ động, bảo
vệ đường niệu trên…

-Đem lại cho bệnh nhân một cuộc sống có chất lượng tốt hơn, nhất là khi so
sánh với các phương pháp chuyển lưu không kiểm soát như đem 2 niệu quản
ra da.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những trường hợp bàng quang trực vị bằng hồi tràng do chính tác giả thực
hiện.
Thời gian theo dõi tối thiểu là trên 3 năm, chấp nhận làm đủ các xét nghiệm
cần thiết khi yêu cầu, hợp tác và trả lời rõ ràng những câu hỏi liên quan đến
chất lượng sống sau mổ.
Các xét nghiệm thực hiện
Ngoài các xét nghiệm thường quy, các xét nghiệm sau đây được làm trước
mổ, sau mổ và được lập lại nhiều lần trong các kỳ tái khám:
-Xét nghiệm sinh hóa chức năng thận, nước và điện giải
-Niệu ký nội tĩnh mạch (UIV) và âm vang ký (siêu âm) để biết hình ảnh
thận, bàng quang và bàng quang tân tạo
-Soi bàng quang để xác định tình trạng niệu đạo, cổ bàng quang và bàng
quang
-Xạ ký (X Quang) bàng quang tân tạo bằng thuốc cản quang để đánh giá
hình dạng bàng quang, thể tích nước tiểu tồn lưu, tìm hiện tượng ngược
dòng lên niệu quản
-Áp lực đồ bàng quang đánh giá chức năng của bàng quang tân tạo dựa trên:
thể tích, áp lực, độ mạnh của vòi nước tiểu, thể tích tồn lưu
Đặc biệt sau mổ khảo sát kỹ
Chú ý đến chỗ cắm 2 niệu quản, chỗ nối bàng quang tân tạo vào niệu đạo, những
đặc điểm của bàng quang mới như: dung tích, sức co bóp, chức năng đi tiểu, tình
trạng nước tiểu tồn lưu…
Theo dõi sự thay đổi của bàng quang mới theo thời gian: bàng quang tân tạo
có to dần ra không? hiện tượng nước tiểu tồn lưu diễn tiến thế nào? ảnh
hưởng lâu dài đến thận?

Riêng về áp lực đồ bàng quang, nhận xét thêm về
Áp lực bàng quang tối đa: cần phân biệt áp lực của tự thân bàng quang tân
tạo tương ứng với dung tích tối đa và không rặn tiểu, và áp lực lúc rặn tiểu
chủ động (có thêm áp lực của cơ hoành và các cơ thành bụng).
Quan sát và đánh giá dòng tiểu.
Đo thể tích nước tiểu tồn lưu.
Tiêu chuẩn đánh giá
Chức năng bàng quang
Bàng quang có 2 chức năng: chứa đựng và tống xuất nước tiểu.
Đây là chức năng chính của bàng quang, có thể đánh giá qua phép đo áp lực
đồ bàng quang và qua quan sát vòi nước tiểu khi bệnh nhân đi tiểu: độ mạnh
của vòi nước tiểu, đi tiểu làm một đợt hay nhiều đợt trong một lần đi tiểu và
có phải rặn nhiều không?
Chức năng chứa đựng của bàng quang dựa trên dung tích tối đa và thời gian
giữa 2 lần đi tiểu.
Khả năng kiểm soát nước tiểu dựa vào dấu hiệu són tiểu: thời điểm (ngày,
đêm) và số lần trong ngày. Đây là yếu tố mang tính chất xã hội và có giá trị
quan trọng đối với bệnh nhân.
Thể tích tồn lưu
Tiêu chu
ẩn
đánh giá
Tốt Trung
bình
Xấu
1/ Dung tích
> 300
ml
150-300
ml

<150 ml

2/ Th
ời gian
gi
ữa 2 lần đi
tiểu
> 2giờ

1-2 giờ < 1 giờ

3/ Th
ể tích tồn
lưu
< 50
ml
50-100
ml
>100 ml

4/ Vòi nư
ớc
tiểu
>20
ml/giây

5-20
ml/giây
<
5ml/giây


5/ Kh
ả năng
kiểm soát
hoàn
toàn
ban
ngày,
thỉnh
thoảng
không
được
ban
đêm
ban
ngày có
lúc
không
được,
ban đêm
không
được
không
đư
ợc cả
ngày lẫ
n
đêm
Chức năng bảo vệ đường niệu trên
Thận là một trong những cơ quan sinh tồn của cơ thể. Bảo vệ thận cũng là

một mục đích quan trọng giúp cải thiện dự hậu cho người bệnh. Sự đánh giá
dựa vào:
-Các kết quả xét nghiệm sinh hoá
-Hình ảnh của 2 thận và niệu quản qua UIV và qua siêu âm.
-Có hiện tượng ngược dòng lên niệu quản không?
-So sánh với tình trạng của thận-niệu quản trước mổ: vì có một số đơn vị
thận-niệu quản đã có dãn nở trước. Tốt: nếu giảm độ chướng nước; trung
bình: nếu giữ nguyên độ chướng nước; xấu: nếu chướng nước thêm.
Tiêu
chuẩn
tốt trung
bình
Xấu
1/ UIV bài ti
ết
tốt
bài tiết tốt bài ti
ết
kém
2/ Ngư
ợc
dòng
không

ch
ỉ có với
th
ể tích lớn
và áp l
ực

cao
thường
xuyên

3/
Siêu
âm
không
chướng
nước
ho
ặc có
cải
thi
ện độ
chướng
chướng

ớc nhẹ,
đ
ộ I hoặc
độ chư
ớng

ớc ổn
định,
không tăng

chướng


ớc độ
II, III
ho
ặc tăng
thêm
nước
Sự hài lòng của bệnh nhân
Tiêu chuẩn này mang tính chủ quan, khác 2 tiêu chuẩn trên có tính khách
quan hơn. Bệnh nhân được hỏi 2 câu:
Câu 1: ông có hài lòng với kết quả phẫu thuật không? chọn một trong 4 câu
trả lời: hài lòng, tạm được, không hài lòng, rất buồn.
Câu 2: so sánh với lúc bình thường, khi còn trẻ và chưa bị bệnh, ông đánh
giá sự đi tiểu bây giờ được bao nhiêu phần trăm?
Tiêu
chuẩn
tốt trung
bình
xấu
Câu 1 hài lòng

tạm
được
không hài
lòng
rất buồn
Câu 2 80% tr

lên
50 -
80%

dưới 50%
KẾT QUẢ
Có 84 bệnh nhân, tất cả là phái nam
Trường hợp đầu tiên thực hiện tháng 3/1993
Trường hợp cuối thực hiện tháng 11/2004
1 bệnh nhân tử vong
83 trường hợp được theo dõi tối thiểu 3 năm và ghi nhận
Tuổi trung bình = 57,43 ± 12,98 tuổi
Thời gian mổ trung bình = 5g 52 phút ± 34 phút

Biểu đồ phân phối theo tuổi

Biểu đồ phân phối theo thời gian mổ
Tai biến – biến chứng
Tử vong
1 trường hợp vì viêm phúc mạc hậu phẫu vì dò ruột. Bệnh nhân được mổ lại
2 lần, lần sau cắt bỏ bàng quang tân tạo và đem 2 niệu quản ra da nhưng
không phục hồi được sau mổ.
Tai biến trong lúc mổ
1 trường hợp rách trực tràng trong thì cắt bỏ bàng quang. Trường hợp này
được xử trí bằng mở đại tràng sigma ra da. Ống tiêu hóa được khâu phục hồi
lại 3 tháng sau, khi bàng quang tân tạo đã tương đối ổn định.
Biến chứng phải mổ lại
3 trường hợp (3/84 = 3,57%). Một bệnh nhân do penrose dẫn lưu khoang chậu trái
sau phúc mạc hoạt động không tốt, gây tụ dịch. Bệnh nhân sốt, đau, có phản ứng
phúc mạc và được mổ lại thám sát vào ngày hậu phẫu 9. Khoang sau phúc mạc
trái được rửa sạch bằng bétadine pha loãng và dẫn lưu bằng 2 penrose lớn đặt qua
1 đường rạch bên thành bụng. Sau đó diễn tiến ổn định, các thông được rút dần
nhưng bệnh nhân bị biến chứng hẹp niệu đạo do đặt thông kéo dài. Bệnh nhân này
có thời gian nằm viện lâu nhất (36 ngày). Hai bệnh nhân còn lại sau khi cắt chỉ

ngoài da thì thành bụng bị hở, phải khâu lại.
Biến chứng gần
Liệt ruột kéo dài
10 trường hợp (11,9%) phải đặt thông mũi-dạ dày quá 5 ngày.
Xuất huyết tiêu hoá
1 trường hợp xuất huyết do loét dạ dày đã được xử trí bằng nội soi chích
thuốc cầm máu.
Dò dỉ nước tiểu
5 trường hợp (5,95%) dò dỉ nước tiểu qua dẫn lưu kéo dài, trên 10 ngày mới rút
được hết các dẫn lưu 2 bên hố chậu. 1 trường hợp dò dỉ trên mu tại vị trí đặt thông
bàng quang cũ, mặc dù đi tiểu khá tốt. Bệnh nhân này được hướng dẫn tự đặt
thông niệu đạo để lấy hết nước tiểu tồn lưu sau mỗi lần đi tiểu. Khoảng 1 tháng
sau, khi bệnh nhân tái khám thì nơi dò dỉ đã lành hẳn.
Biến chứng xa
1 trường hợp (1/84 = 1,19%) tiểu không kiểm soát ngày và đêm, trên cơ địa
đái tháo đường. Những cố gắng điều trị nội khoa không hiệu quả, sau cùng
phải chuyển qua tạo hình van chuyển lưu ra da.
3 trường hợp (3/84 = 3,57%) hẹp niệu đạo trước do đặt thông. Một bệnh
nhân được xử trí bằng nong niệu đạo định kỳ, hai bệnh nhân còn lại được xẻ
rộng niệu đạo qua nội soi. Sau 4-6 tháng, cả 3 bệnh nhân đi tiểu khá dễ và
vòi nước tiểu chấp nhận được
9 trường hợp (10,71%) hẹp cổ bàng quang tân tạo (chỗ nối bàng quang vào
niệu đạo) được cắt rộng chỗ hẹp qua nội soi 2-3 tháng sau.
Đánh giá hiệu quả theo thời gian
Chức năng bàng quang
3 tháng
s
ố bệnh
nhân (%)


6 tháng
s
ố bệnh
nhân (%)

Trên 6
tháng
s
ố bệnh
nhân (%)

tốt 48 (57,83)

71 (85,54)

68 (81,93)

Trung
bình
33 (39,76)

11 (13,25)

14 (16,87)

xấu 2 (2,41) 1 (1,20) 1 (1,20)
Tiêu chuẩn để đánh giá là 5 yếu tố: dung tích, thời gian giữa 2 lần đi tiểu, thể
tích tồn lưu, vòi nước tiểu, khả năng kiểm soát.
Có sự cải thiện rõ theo thời gian. Tỷ lệ quanh 6 tháng là khả quan nhất, tỷ lệ
tốt là 85,54%. Sau 6 tháng, bàng quang tân tạo có khuynh hướng dãn rộng

và thể tích tồn lưu có khuynh hướng tăng lên, ảnh hưởng đến tiêu chí đánh
giá. Tỷ lệ tốt giảm còn 81,93%.
Chỉ có 1 trường hợp (1,20%) được đánh giá là xấu: tiểu không kiểm soát cả
ngày lẫn đêm trên bệnh nhân đái tháo đường.
Chức năng bảo vệ đường niệu trên
83 bệnh nhân = 166 đơn vị thận – niệu quản

3 tháng:
s
ố đvị
thận-
6 tháng:
s
ố đvị
thận-
Trên 6
tháng: s

đvị thận-
nquản
(%)
nquản
(%)
nquản(%)
tốt 65
(39,16)
117
(70,48)
133 (80,12)
trung

bình
91
(54,82)
41
(24,69)
25 (15,06)
xấu 10 (6,02)

8 (4,82) 8 (4,82)
Có sự cải thiện dần theo thời gian, số trường hợp được đánh giá là trung bình (3
tháng sau mổ) thay đổi về hướng tốt (6 tháng và trên 6 tháng sau mổ). Nguyên
nhân có thể là do sự thay đổi của bàng quang tân tạo, bớt những cơn co thắt và áp
lực thấp hơn trong kỳ chứa đựng, nhờ vậy ít ảnh hưởng trên khúc nối niệu quản -
bàng quang.
Sau hơn nửa năm, tỷ lệ tốt (thận bài tiết tốt, không ứ nước hoặc có cải thiện
độ ứ nước, niệu quản mềm mại) là 80,12% và trung bình (thận bài tiết tốt,
còn ứ nước nhẹ, niệu quản còn dãn nở) là 15,06%. Tỷ lệ này thường ổn định
từ sau 6 tháng, nếu tồn lưu nước tiểu ít và bàng quang không dãn lớn.
Sự hài lòng của bệnh nhân
Với câu hỏi 1: sự hài lòng của bệnh nhân sau mổ
1 -
3
tháng:
s
ố bệnh
nhân
(%)
3 -
6
tháng:

s
ố bệnh
nhân
(%)
6
tháng-
1năm:
s
ố bệnh
nhân
(%)
1-3
năm:
s
ố bệnh
nhân
(%)
tốt 57
(68,67)

61
(73,49)

77
(92,77)
72
(86,75)

trung
bình

19
(22,89)

17
(20,48)

3 (3,61)

10
(12,05)

xấu
7 (8,43)

5 (6,02)

3 (3,61)

1 (1,20)

Với câu hỏi 2: so sánh động tác đi tiểu trước và sau mổ
1 -
3
tháng:
s
ố bệnh
nhân
(%)
3 -
6

tháng:

s

bệnh
nhân
6
tháng-
1năm:
s

bệnh
nhân
1-3 năm:

s
ố bệnh
nhân
(%)
(%) (%)
tốt 47
(56,63)

60
(72,29)

68
(81,93)

59

(71,08)
trung
bình
26
(31,33)

15
(18,07)

12
(14,46)

21
(25,30)
xấu
10
(12,05)

8
(9,61)
3
(3,61)
3 (3,61)
Bệnh nhân tự đánh giá kết quả đạt được sau mổ.
Theo thời gian tỷ lệ bệnh nhân hài lòng với cuộc mổ tăng lên, từ khoảng
50% khi mới rút thông, tăng dần đến trên 60% lúc 3 tháng sau mổ. Tỷ lệ lên
cao nhất trong thời gian 6 tháng – 1 năm sau mổ, với khoảng 90% hài lòng
sau đó hạ xuống chút ít vì có một số bệnh nhân phải tự thông kết hợp với
những lúc đi tiểu qua niệu đạo (để tránh hiện tượng dãn nở của bàng quang).
BÀN LUẬN

Có sự thay đổi rõ của bàng quang tân tạo theo thời gian
Ở giai đoạn sớm ngay sau rút thông, bàng quang tân tạo bị kích thích bởi rất
nhiều yếu tố: quá trình viêm hậu phẫu, sự cọ sát của ống thông, nhiễm trùng
niệu ngược dòng, sự ứ đọng nhiều dịch ruột dẫn đến sự gia tăng co bóp của
thành bàng quang Kết quả là dung tích còn nhỏ và áp lực còn cao.
3 tháng sau dung tích bàng quang tân tạo tăng và áp lực giảm dần.
Sau 6 tháng, thể tích bàng quang tân tạo ổn định dần, thay đổi chậm lại.
Khuynh hướng chung là những cơn co bóp tự phát giảm dần. Phần lớn các
trường hợp đạt được kết quả tốt về khả năng chứa đựng và tống xuất nước
tiểu.
Trên 1 năm trở đi, đa số là ổn định, ít thay đổi. Vấn đề quan trọng nhất là
cần theo dõi lượng nước tiểu tồn lưu, vì đây là nguyên nhân cơ bản sẽ gây
dãn nở dần bàng quang.
Tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được
Nếu so sánh với một số tác giả như Melchior
(5)
, Wenderoth
(9)
, Stein
(7)
,
Studer
(8)
, Skinner
(6)
là những tác giả cũng sử dụng hồi tràng để tạo hình thay
thế bàng quang thì chúng tôi có tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được.
Những công bố của các tác giả trên cho thấy tỷ lệ tử vong là 1 – 1,6%, tỷ lệ
biến chứng sớm là 7,5 – 42%, tỷ lệ biến chứng muộn là 2,4 – 17,2%.
Thể tích tồn lưu nước tiểu cần được đánh giá và theo dõi kỹ

Hầu hết các kết quả đều cho thấy có sự dãn nở dần dần của bàng quang tân
tạo. Sự dãn nở này được giải thích bằng định luật Laplace mà trong giai
đoạn đầu được xem như là một đáp ứng tốt (vì làm tăng thể tích, giảm áp
suất nhờ đó sẽ tăng tỷ lệ kiểm soát nước tiểu, tránh tiểu són) và thường sẽ ổn
định sau nửa năm trở đi. Tuy vậy vẫn có những báo cáo về nhiều bàng quang
thể tích rất lớn. Điều này đã được giải thích do một lượng thể tích tồn lưu
nước tiểu tăng dần rồi trở nên quá lớn.
Nếu thể tích tồn lưu ổn định từ 50 ml trở xuống thì bàng quang tân tạo ổn
định rất lâu. Nếu thể tích tồn lưu trên 100 ml thì phải tìm ra nguyên nhân để
phòng tránh. Các nguyên nhân có thể là:
(1) thoát vị thành bụng sau cuộc đại phẫu (vì tuổi cao, thể trạng kém, suy
dinh dưỡng ) đưa đến sức rặn kém.
(2) hiện tượng ngược dòng nhiều lên niệu quản.
(3) hẹp chỗ nối niệu đạo vào bàng quang.
Hẹp chỗ nối niệu đạo vào bàng quang tân tạo là nguyên nhân thường gặp
nhất. Chúng tôi gặp biến chứng này với tỷ lệ 10,71% (9TH). Cách giải quyết
cũng khá đơn giản, có thể dễ dàng xẻ rộng chỗ hẹp qua nội soi. Chú ý vị trí
xẻ là ở nửa trên của vòng tròn nhìn qua thị kính: 12 giờ nếu chỉ cần xẻ tại
một vị trí, hoặc 10 giờ và 2 giờ nếu cần xẻ tại hai vị trí. Không nên xẻ quá
rộng ngay ở thì đầu để tránh hiện tượng tiểu són. Nếu cần thiết sẽ xẻ thêm
lần nữa, qua việc theo dõi mức độ cải thiện của động tác đi tiểu và thay đổi
thể tích nước tiểu tồn lưu.
Dù có tìm và giải quyết những nguyên nhân gây tiểu khó, có thể vẫn còn
một số ít bệnh nhân chưa tự tiểu được ngay, kể cả sự hỗ trợ bằng áp dụng
thủ thuật Vasalva. Vì vậy tất cả phải được báo trước về khả năng tự thông
tiểu khi cần thiết. Nguyên tắc “tự thông tiểu sạch và cách quãng” phải được
giải thích và hướng dẫn cho mọi bệnh nhân tạo hình bàng quang bằng ruột,
mở rộng lẫn thay thế. Thực tế cho thấy, đối với bàng quang trực vị, “tự
thông tiểu sạch và cách quãng” là phương pháp tốt để giải quyết vấn đề tồn
lưu nước tiểu. Cần theo dõi thường xuyên thể tích nước tiểu tồn lưu. Có thể

đánh giá thể tích này bằng siêu âm hay bằng thông tiểu sau khi đi tiểu. Cách
thức sau chính xác và đơn giản hơn. Để phát hiện sớm tình trạng này, nên
thông mỗi tháng ít nhất một lần để đánh giá lượng nước tiểu tồn lưu.
KẾT LUẬN
Bàng quang thay thế nối với niệu đạo (bàng quang trực vị) là một lựa chọn
tốt và cần thiết cho những bệnh nhân khi phải cắt bỏ bàng quang. Phương
pháp này giúp cho bệnh nhân có thể đi tiểu một cách tự nhiên, tránh mặc
cảm tật nguyền và hội nhập đời sống xã hội sau mổ. Tuy là một phẫu thuật
khá lớn nhưng tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được.
Bàng quang tân tạo có những kết quả khá tốt từ tháng thứ 6 sau mổ. Để bàng
quang có thể ổn định lâu dài theo thời gian, phải giữ thể tích nước tiểu tồn
lưu ở mức thấp nhất.
Tuy vậy, bàng quang trực vị chỉ có thể thay thế tốt bàng quang thiên nhiên
về mặt chức năng chứa đựng. Về mặt chức năng tống xuất, bệnh nhân cần
phải tập để vận động tốt cơ bụng nhằm hỗ trợ động tác đi tiểu. Bệnh nhân
cũng cần phải được giải thích sự cần thiết theo dõi và phát hiện thể tích tồn
lưu lớn, đồng thời khuyến cáo trước phương pháp tự thông cách quãng có
thể được áp dụng để tránh hiện tượng dãn nở quá mức của bàng quang tân
tạo.

×