Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Quá trình bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại BVHN part3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.37 KB, 7 trang )


15
tiết về việc bảo hiểm. Trong đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải
đề cập được các nội dung sau:
 Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo
hiểm hoặc người thụ hưởng.
 Đối tượng bảo hiểm
 Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản
 Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
 Thời hạn bảo hiểm
 Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
 Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
 Các qui định giải quyết tranh chấp
 Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Ngoài ra còn có thể có những nội dung khác do các bên thoả thuận.
1.2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng
bảo hiểm nào đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp
đồng bảo hiểm như đã đề cập ở phần lý luận trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù
của loại nghiệp vụ bảo hiểm này nên nó cũng có những đặc điểm riêng so với
các loại hợp đồng bảo hiểm khác. Trong phần lý luận sau, do phạm vi nghiên
cứu của đề tài này như đã đề cập ở phần giới thiệu, sẽ chỉ đề cập tới hợp đồng
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.

1.2.2.2.1.Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi
nhuận thuần, lợi nhuận gộp

16
"Doanh thu bán hàng là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá dịch vụ" [11, 83]. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng doanh thu. Ngoài ra, doanh thu còn từ các hoạt động khác bao gồm các


khoản từ hoạt động đầu tư tài chính (thu từ hoạt động đầu tư, thu về việc mua
bán chứng khoán, lãi kí quĩ, hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán, cho
thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay ), và từ hoạt động bất thường (thu
về nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu từ phạt vi phạm hợp đồng, nợ khó
đòi đã đòi được, nợ phải trả không xác định được chủ, thu nhập năm trước bị
bỏ sót ).
"Chi phí cố định là những chi phí có đặc trưng cơ bản là tổng số của nó không
thay đổi khi khối lượng kinh doanh thay đổi" [18,90]. Khoản chi phí này là
những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không tiến hành sản xuất kinh doanh,
ví dụ như tiền thuê nhà xưởng, thuê đất, tài sản cố định,
"Chi phí biến đổi là chi phí biến đổi thuận chiều với sự thay đổi khối lượng
kinh doanh của doanh nghiệp" [18,90], ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu,
chi phí thuê nhân công hợp đồng
"Lợi nhuận thuần là khoản lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi tất cả các
khoản dự phòng, các chi phí cố định kể cả những chi phí khấu hao, nhưng
phải được tính trước khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập" [5, appendix
A]
"Lợi nhuận gộp = [Doanh thu + (giá trị hàng tồn kho và hàng hoá đang trong
kì sản xuất ở cuối kỳ - giá trị hàng hoá đang trong kỳ sản xuất đầu kì) - tổng
chi phí sản xuất không được bảo hiểm]" [5, appendix A].
1.2.2.2.2.Đối tượng bảo hiểm
Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, đối
tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình.

17
Khác với các loại nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm
là hữu hình, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đặc
tính trừu tượng như vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây
cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ bảo hiểm rất quan trọng như bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh đã ra đời quá muộn so với các nghiệp vụ khác.

Theo đơn bảo hiểm qui chuẩn của Anh quốc mà ngày nay rất nhiều quốc gia
trên thế giới cũng đang sử dụng thì đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là "tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián
đoạn" [5, 6].
1.2.2.2.3.Số tiền bảo hiểm
Khác với số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất
được xác định dựa trên giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của bảo hiểm gián
đọan kinh doanh được xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong loại hình nghiệp vụ
này do người được bảo hiểm xác định, được tính từ số liệu kế toán của người
được bảo hiểm và phải thể hiện được giá trị lợi nhuận gộp ước tính trong
tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm. Để xác định giá trị đó, số liệu kế
toán của năm gần nhất sẽ được sử dụng. Tuy nhiên, thường thì người ta sử
dụng số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp nhằm tránh những biến
động bất thường có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của số liệu. "Khi thời
hạn bồi thường là 12 tháng hoặc thấp hơn, số tiền bảo hiểm phải là giá trị
hàng năm của lợi nhuận gộp. Nếu thời hạn bồi thường vượt quá 12 tháng số
tiền bảo hiểm phải là lợi nhuận gộp cho thời hạn bồi thường được chọn" [5,
7]. Ví dụ nếu thời hạn bồi thường là 3 năm thì số tiền bảo hiểm là 3 lần giá trị
lợi nhuận gộp hàng năm.
Tuy vậy, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không những bảo
hiểm phần lợi nhuận bị mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường

18
cho thêm cả phần lợi nhuận họ sẽ thu được theo tỉ lệ tăng doanh thu bình quân
năm kế tiếp. Để tránh sự đánh giá thấp của số tiền bảo hiểm, người ta còn
phải tính đến hệ số tăng bình quân doanh thu của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở kế toán
tính trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh. Bằng cách đó người ta
có thể tính được số tiền bảo hiểm như sau:

Số tiền bảo
hiểm
=

Lợi nhuận
gộp cả năm
x

hệ số tăng
bình quân

x

thời hạn bồi
thường tính bằng
tháng

1.2.2.2.4.Phạm vi bảo hiểm:
"Công ty bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất
mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh với điều kiện:
(1) tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của người được
bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất và:
(i) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đã xác nhận
trách nhiệm hoặc đã thanh toán bồi thường.
hoặc
(ii) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đáng nhẽ đã
xác nhận trách nhiệm hoặc đã thanh toán tiền bồi thường nhưng do
điều kiện của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất sẽ không bồi thường
cho những tổn thất nhỏ hơn mức trách nhiệm đã kê khai trong đơn
bảo hiểm.

(2) trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt
quá :

19
(i) Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi
khoản mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm
(ii) Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm
hay bất cứ số tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ
sung đính kèm và được ký xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay
người đại diện cho công ty bảo hiểm" [2, 1].
1.2.2.2.5.Điều khoản loại trừ
"Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu
quả của:
- Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề
kém; do những khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến
dạng, hao mòn tự nhiên; do việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các
nguồn nguyên liệu khác hay do sự hư hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn,
gỉ; do sự thay đổi độ ẩm hay khô của thời tiết; do nấm mốc mục nát; do hao
hụt bay hơi, do hư hại do tác động của ánh sáng, sâu bọ côn trùng; do các
hành động lừa dối không trung thực.
- Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi
kế toán, lỗi kiểm kê, quản lý hành chính.
- Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng
hơi, bình hay đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo
điện hay cơ khí; vỡ, tràn nước, tháo nước hay dò gỉ.
- Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất.
- Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận
chuyển ngoài khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân.

20

- Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính
hoặc các chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác.
- Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện
toán, các thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài
sản đang trong quá trình kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới
đang lưu hành trên đường.
- Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được
bảo hiểm hay bất kỳ ai đại diện cho họ.
- Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược,
các hành động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố
- Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời
hay vĩnh viễn do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm
quyền hợp pháp.
- Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh
hưởng một phần của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion
hoá hay do ô nhiễm phóng xạ" [2, 3].
1.2.2.2.6. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do
người được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một
hợp đồng bảo hiểm thiệt hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông
báo một loạt số liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh
doanh thực hiện một số năm trước đó. Căn cứ vào tài khoản này cộng thêm
với lời khai báo, hai bên thỏa thuận với nhau về số tiền bảo hiểm (cụ thể số
tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp). Việc thoả thuận được số tiền bảo hiểm
có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh được xác định như sau:

21
Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:

- Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm.
- Phạm vi bảo hiểm.
- Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây.
Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính
dựa trên tỉ lệ phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn.
Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn
bồi thường. Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường
của nhà bảo hiểm càng lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ,
theo biểu phí Bảo Việt Hà Nội hiện đang triển khai thì nếu thời hạn bồi
thường là 3 tháng thì tỉ lệ phí bảo hiểm là 50% tỉ lệ phí bảo hiểm của bảo
hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%, nếu 12 tháng là 100%. Tuy nhiên, thời
hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định thì phí bảo hiểm có xu hướng
giảm dần do cơ sở tính phí sẽ thay đổi.
1.2.2.2.6.Thời hạn và phương thức bồi thường
Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác
định cách giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán
của người được bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ thu được nếu như vụ hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó
không xảy ra.
Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường
trong thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các
đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như

×