Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

PHÂN LOẠI CƠN ĐỘNG KINH TRẺ EM ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.75 KB, 19 trang )

PHÂN LOẠI CƠN ĐỘNG KINH TRẺ EM

TÓM TẮT
Mục đích: Phân loại cơn theo Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới 1981
(ICES) trên bệnh nhi động kinh mới được chẩn đoán hoặc chưa điều trị.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên bệnh nhi động kinh
(ĐK) tại Bệnh Viện Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh (BVNĐI) từ tháng 4/2006 đến
tháng 3/2007.
Kết quả: Có 99 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, gồm 53 nam và 46 nữ, tỷ
lệ nam nữ là 1,15:1. Đến từ các tỉnh là 77 ca (78%). Chúng tôi ghi nhận có 47 ca
(47,5%) có cơn cục bộ, trong đó cơn cục bộ đơn giản là 10 ca (10,1%), cơn cục bộ
phức tạp là 4 ca (4%), và cơn cục bộ toàn thể hóa là 33 ca (33,3%). Có 38 ca là
cơn toàn thể, chiếm tỷ lệ 38,4%. Cơn không phân loại được là 14 ca (14,1%). Có
33 ca (33,3%) là ĐK triệu chứng. Theo dõi từ 3 tháng trở lên có 86 ca (86,9%), bỏ
trị 13 ca (13,1%). Đáp ứng sớm có 63/86 ca (73,3%).
Kết Luận: Kết quả phân loại được chiếm tỉ lệ khá cao bằng phân loại cơn
động kinh theo ILAE 1981. Đây là cách phân loại đơn giản, dễ thực hiện và phù
hợp với hoàn cảnh của các nước đang phát triến như nước ta, khi mà các phương
tiện hỗ trợ chẩn đoán còn hạn chế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy,
cần có các chương trình giáo dục trong cộng đồng để nâng cao hiểu biết về bệnh
động kinh.
ABSTRACT
CLASSIFICATION OF PEDIATRIC EPILEPTIC SEIZURES IN
CHILDREN HOSPITAL No1
AT HO CHI MINH CITY
To Hong Duc, Nguyen Quang Vinh, Tran Diep Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 3 – 2008: 172 - 177
Objectives: To classify epileptic seizures based on the 1981 International
Classification of Epileptic Seizures (ICES) for children with newly diagnosed or
untreated epilepsy.
Methods: A case-series study of 99 epileptic children at Children Hospital


No1 HCMC from 4/2006 to 3/2007.
Results: Ninety-nine patients were enrolled in this study with 53 boys and
46 girls (male to female ratio is 1.15:1). There were 77 cases (78%) came from
provinces. Out of 99 patients, 47 (47.5%) were classified as partial seizures,
including simple partial seizures in 10 cases (10.1%), complex partial seizures in 4
cases (4%), and 33 cases (33.3%) with secondarily generalized seizures. Thirty-
eight patients (38.4%) were classified as generalized seizures. Unclassified
seizures comprised of 14 cases (14.1%). Thirty-three out of 99 patients were
symptomatic epilepsy. Eighty-six cases (86.9%) were followed up for more than 3
months, and early responding to antiepileptic drug was found in 63 out of 86
patients (73.3%).
Conclusions: Based on the 1981 ICES, the frequency of patients with
classifiable seizures were high in this study. This classification is rather simple
and suitable for developing countries such as Vietnam, where diagnostic facilities
are limited. Furthermore, the results also suggest that health education is necessary
to improve the awareness of epilepsy in the publics.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, động kinh (ĐK) chiếm từ 0,5-1% dân số
(14)
. Ở
các nước đang phát triển tỷ lệ này cao hơn gấp 2-5 lần, trong đó trước 6 tuổi chiếm
60%
(4)
. Bệnh lý ĐK tại các nước đang phát triển chưa thật sự được ngành y tế quan
tâm mặc dù đây là một bệnh có thể chữa khỏi được
(14)
. Tỷ lệ người bị ĐK được điều
trị chỉ chiếm 50%, trẻ nhỏ tỷ lệ này c̣òn thấp hơn
(4)
. Phần lớn bệnh nhân ở các nước

đang phát triển không được điều trị bằng thuốc chống động kinh. Ước tính vào
khoảng 85% bệnh nhân này hoặc là không được điều trị hoặc là được điều trị không
thích hợp (Meinardi và cs 2001). Một trong những trở ngại chính đó là vấn đề chẩn
đoán bệnh ĐK.
Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới (International League Against Epilepsy:
ILAE) đã đưa ra hệ thống phân loại cơn ĐK (1981), phân loại ĐK và hội chứng ĐK
(1989) nhằm giúp thống nhất trong báo cáo, nghiên cứu và thực hành lâm sàng. Tuy
nhiên, tại Thành Phố Hồ Chí Minh (TPHCM) chưa có nghiên cứu nào thật sự sử dụng
hệ thống phân loại này trong ĐK trẻ em. Những năm gần đây, tuy có những hệ thống
phân loại khác đã được đề nghị, nhưng chưa được chấp nhận. Do đó, phân loại của
ILAE là phân loại được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Hệ thống phân
loại cơn ĐK của ILAE 1981 tuy đã sử dụng đến các phương pháp khách quan như đo
EEG lâu dài và ghi hình video, nó vẫn còn đơn giản hơn nhiều so với phân loại ĐK
và hội chứng ĐK của ILAE 1989. Phân loại ILAE 1989 đòi hỏi phải phân định được
hội chứng ĐK toàn thể hay cục bộ và bệnh sinh của ĐK. Phân loại cơn ĐK theo
ILAE 1981 đơn giản, chỉ dựa trên 3 yếu tố: (1) biểu hiện lâm sàng của cơn động kinh,
(2) biểu hiện của điện não đồ (EEG) trong cơn, và (3) biểu hiện của EEG ngoài cơn.
Tuy không giúp xác định được bệnh lý ĐK và hội chứng ĐK cụ thể, nhưng dựa trên
bệnh sử đáng tin cậy và EEG, các thầy thuốc thường có thể phân loại được cơn ĐK,
xác lập chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị thích hợp.
Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này để khảo sát khả năng áp dụng phân loại
cơn ĐK theo ILAE 1981 cho trẻ từ 1 tháng đến 15 tuổi tại Bệnh viện Nhi đồng 1.
Đồng thời khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị, và các yếu tố
liên quan đến đáp ứng sớm và bỏ trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành phân loại cơn ĐK theo hệ thống phân loại ILAE 1981 cho
99 trẻ từ 1 tháng tới 15 tuổi mới được chẩn đoán ĐK (chưa được chẩn đoán và điều
trị trước đó) tại khoa Nhiễm – Thần Kinh BVNĐI từ tháng 4/2006 đến tháng 3/2007.
Trẻ được chẩn đoán ĐK khi có ít nhất 2 cơn kịch phát (xuất hiện đột ngột, thời gian
ngắn, phục hồi nhanh, có tính định hình, liên quan đến vận động, cảm giác, giác quan,

ý thức và tâm thần) mà không có yếu tố kích gợi (yếu tố kích gợi là các yếu tố như
sốt, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, chấn thương, xuất huyết não, rối loạn điện
giải…). Hai cơn kịch phát phải cách nhau ít nhất là 24 giờ. Cơn ĐK của trẻ được
phân loại theo bảmg phân loại ILAE 1981, tuy nhiên, do chúng tôi không đủ điều
kiện để thực hiện các EEG theo dõi liên tục, EEG có kèm ghi hình vidéo, EEG nội sọ
… nên phân loại của chúng tôi chủ yếu dựa vào (1) khai thác bệnh sử cẩn thận và tỉ
mỉ và (2) EEG trong 20 phút theo qui cách đang thực hiện tại BVNĐI (đặt điện cực
theo hệ thống 10-20, bao gồm 2-3 nghiệm pháp tăng thông khí và kích thích ánh
sáng). Chủ yếu là các EEG được thực hiện ngoài cơn. Ban đầu chúng tôi ghi nhận có
129 bệnh nhi có thể đưa vào nhóm nghiên cứu, nhưng sau khi khai thác bệnh sử cẩn
thận và thực hiện EEG, thì 30 bệnh nhi bị loại khỏi lô nghiên cứu do hoặc là cơn kịch
phát của trẻ không phải là ĐK, hoặc có nguyên nhân kích gợi, hoặc đã được điều trị
trước đó, hoặc theo dõi không đầy đủ và khai thác được bệnh sử không đáng tin cậy.
Như vậy số bệnh nhi trong nghiên cứu của chúng tôi là 99. Ngòai ra, chúng tôi cũng
thực hiện xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh đối với trẻ nghi ngờ có tổn thương cấu trúc,
có 45 trẻ được thực hiện siêu âm no, 11 trẻ có CT (computed tomography) scan não
và 3 trẻ được thực hiện MRI (magnetic resonance imaging) não.
KẾT QUẢ
Có 99 bệnh nhi tham gia nghiên cứu, bé trai 53 ca và gái 46 ca. Tỷ lệ nam trên
nữ là 1,15:1. Có 77 bệnh nhi đến từ các tỉnh, chiếm tỷ lệ 78%. Lý do vào viện do co
giật là 92 ca (92,9%), cơn mất ý thức và ngã là 3 ca (3%), nhức đầu là 2 ca (2%), rối
loạn tiền đình – thị giác là 2 ca (2%), và mất ý thức là 1 ca (1%). Tiền sử bệnh lý thần
kinh là 40 ca (40,4%), chậm phát triển tâm vận là 26 ca (26,3%), sốt co giật là 14 ca
(14,1%). Số ngày trung bình trước khi đến cơ sở y tế sau cơn ĐK đầu tiên và đến
BVNĐI lần lượt là 83±216 ngày (dao động từ 1 đến 1460 ngày) và 212±466 ngày
(dao động từ 1 đến 3190 ngày). Chỉ có 22 (22,2%) trẻ được đưa ngay đến cơ sơ y tế
ngay sau cơn co giật đâu tiên. Trong khi đó, có đến 11 ca (11,1%) sau 6 tháng mới
được đưa đến cơ sở y tế lần đầu và 26 trẻ (26,3%) sau 6 tháng mới đến khám lần đầu
tiên tại BVNĐI.
Chẩn đoán động kinh chỉ dựa trên bệnh sử và biểu hiện lâm sàng mà không có

sự hỗ trợ của EEG có thể thực hiện được trên 91 ca (91,9%). Trong đó, phân loại
được cơn động kinh là 32 ca, chiếm tỉ lệ 35,2% (32/91 ca).
Phân loại cơn động kinh theo bảng phân loại của ILAE 1981
Chúng tôi ghi nhận có 47 ca (47,5%) có cơn cục bộ, trong đó cơn cục bộ đơn
giản là 10 ca (10,1%), cơn cục bộ phức tạp là 4 ca (4%), và cơn cục bộ toàn thể hóa là
33 ca (33,3%). Có 38 ca là cơn toàn thể, chiếm tỷ lệ 38,4%. Cơn không phân loại
được là 14 ca (14,1%). (Xem Bảng 1).
Bảng 1. Phân loại cơn ĐK theo ILAE 1981 và phân bố theo nhóm tuổi
Loại cơn 1-
12 tháng

13-
23 tháng

2-
5 tuổi
6-
10 tuổi
11-
15 tuổi
Số
ca (tỉ lệ)
Đơn giản 10
(10,1%)
Cảm giác 1
a

2 2
Vận động 1 2 3 2 8
Thực vật

1.
Cục bộ
47
(47,5%)
Tâm thần
Loại cơn 1-
12 tháng

13-
23 tháng

2-
5 tuổi
6-
10 tuổi
11-
15 tuổi
Số
ca (tỉ lệ)
Phức tạp 4
(4,0%)
R
ối loạn ý thức
từ đầu
1 1 1 3
R
ối loạn ý thức
trong cơn
1 1
Toàn thể hóa

b
33
(33,3%)
Đơn giản 1 1 4 3 9
Phức tạp 4 5 6 5 2 22
Loại cơn 1-
12 tháng

13-
23 tháng

2-
5 tuổi
6-
10 tuổi
11-
15 tuổi
Số
ca (tỉ lệ)
Đơn giản-ph
ức
tạp
2 2
Cơn v
ắng ý
thức
1 1
Cơn giật cơ 2 2
Cơn co cứng 3 2 2 7
Cơn co c

ứng
co giật
12 6 4 2 24
Cơn co giật 2 1 3
2.
Toàn thể

38
(38,4%)
Cơn m
ất
trương lực cơ
1 1
Loại cơn 1-
12 tháng

13-
23 tháng

2-
5 tuổi
6-
10 tuổi
11-
15 tuổi
Số
ca (tỉ lệ)
3. Không xếp loại được 2 4 5 3 14
(14.1%)
Tổng cộng 27 19


25 21 7 99
(100%)
a
1 ca vừa có cơn vận động vừa có cơn cảm giác;
b
Trong đó cơn vận động
là 30 ca và cơn cảm giác là 3 ca (1 ca vừa có cơn vận động vừa có cơn cảm giác),
và 1 cơn tâm thần. Trong số này có 1 ca có biểu hiện mất trương lực cơ và 2 ca có
biểu hiện của động tác tự động.
Động kinh không co cứng hoặc co giật – Phân loại khi không có EEG
Điểm đáng lưu ý là chúng tôi ghi nhận 8 bệnh nhân không có biểu hiện co
cứng hoặc co giật trong nghiên cứu này, chiếm tỉ lệ là 8%. Trong đó biểu hiện lâm
sàng là mất trương lực cơ có 2 ca; động kinh thể cảm giác gồm nhức đầu 2 ca, tiền
đình 1 ca, và thị giác 1 ca; động kinh thể tâm thần 1 ca; và cơn vắng ý thức là 1 ca.
Điện não đồ và hình ảnh não (siêu âm não xuyên thóp, CT scan và
MRI)
Tất cả 99 ca đều được thực hiện EEG ngoài cơn. Kết quả EEG với sóng ĐK
điển hình (sóng gai, sóng nhọn, đa gai, phực hợp sóng gai-sóng chậm, phức hợp đa
sóng gai-sóng chậm, đợt sóng ức chế, đợt sóng chậm, sóng hypsarrythmia trong
hội chứng West) l 56 ca (56,6%), không điển hình (hoạt động điện bất thường
nhưng không điển hình cho ĐK) là 15 ca (15,2%), không bất thường l 28 ca
(28,3%) (Xem bảng 2).
Bảng 2. Kết quả EEG theo loại cơn ĐK
Tính
ch
ất EEG
(số ca)\
ĐK
cục bộ

ĐK
toàn thể
ĐK
không
phân loại

Sóng
ĐK đi
ển
hình (56)

Cục
bộ 1 bên
6
Cục
bộ 2 bên –
đa ổ
2
Toàn
thể hóa
14
Toàn
thể
34
Sóng
ĐK không
điển h
ình
(15)
13 2

EEG
không b
ất
thường (28)

12 2 14
T
ổng
cộng
47
ca
38
ca
14
ca
Siêu âm não xuyên thóp được thực hiện trên 45 trẻ nhũ nhi, trong đó 11 ca
có bất thường, gồm dãn não thất, dị tật não bẩm sinh và khối choán chỗ bất
thường. Hình ảnh CT scan não được làm trên 11 ca, bất thường gặp trên 8 ca, gồm
u não, xuất huyết não, di chứng chấn thương sọ não, u xơ củ và dị tật teo một bán
cầu đại não trong hội chứng Sturge-Weber. MRI được thực hiện trên 3 ca, và đều
cho kết quả bình thường. Bằng cách kết hợp các chi tiết trong khai thác bệnh sử,
thăm khám thần kinh tổng quát và kết quả hình ảnh học, chúng tôi ghi nhận động
kinh triệu chứng trong 33 ca (33,3%). Trong đó nguyên nhân bất thường não bẩm
sinh là 6 ca (6,1%), chu sinh
là 19 ca (19,2%), và sau thời kỳ chu sinh là 8
ca (8,1%).
Kết quả điều trị bước đầu
Điều trị ban đầu đa số là đơn trị. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 97 ca
(98%) là đơn trị. Trong đó chủ yếu là dùng valproic acid gồm 82 ca (82,8%), ngoài ra
còn có carbamazepin, phenobarbital và phenytoin. Theo dõi từ 3 tháng trở lên thực

hiện được trên 86 ca (86,9%), bỏ trị 13 ca (13,1%). Trong 86 ca được theo dõi trong 3
tháng thì có 63 ca có đáp ứng sớm (sau 3 tháng dùng thuốc có giảm ≥ 75% cơn động
kinh trở lên so với ban đầu), chiếm tỉ lệ 73,3%. Trong 23 ca thuộc nhóm không đáp
ứng sớm, thì có 17 ca có giảm về tần số cơn và thời gian của mỗi cơn; và 6 ca hoàn
toàn không đáp ứng nhưng không có ca nào có tăng tần số cơn so với trước khi điều
trị.
BÀN LUẬN
Tỉ lệ phân loại được trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 85,9%. Đây là
một tỉ lệ khá cao. Các nghiên cứu được thực hiện tại các nước phát triến và đang
phát triển có tỉ lệ phân loại được dao động từ 71% đến gần 98%
(9)
. Nghiên cứu của
Shah
(10)
có phương pháp gần giống chúng tôi nhất như về phân loại, lứa tuổi và địa
điểm là tại bệnh viện, các tỷ lệ gần giống về ba nhóm lớn, tuy nhiên trong nhóm
ĐK cục bộ có tỷ lệ ĐK đơn giản thấp hơn và phức tạp cao hơn của chúng tôi.
Nghiên cứu trong nước có của Lê Thị Khánh Vân (2003), tuy nhiên chưa theo
cách phân loại của ILAE nên kết quả cũng khác (không có nhóm không phân loại
được). Nghiên cứu của Hoàng Viết Bôn (2001) có cách phân loại theo ILAE cho
tỷ lệ tương tự như nghiên cứu của chúng tôi, nhưng đây là nghiên cứu chủ yếu về
kiến thức thái độ hành vi, chưa đi sâu vào các thể lâm sàng.
Tỉ lệ ĐK cục bộ trong nghiên cứu của chúng tôi là 47,5%. Theo
Sananayake, tỷ lệ ĐK cục bộ ở các nước đang phát triển (54 -73%) cao hơn ở các
nước phát triển (33 – 66%)
(9)
. Kết quả của chúng tôi cho tỷ lệ cục bộ cao phù hợp
với nhận định này, lý do có thể là do tỷ lệ này phản ảnh tần suất khá cao của ĐK
triệu chứng tại các nước đang phát triển, mắc phải sau tổn thương chu sinh, nhiễm
trùng và chấn thương đầu. Chúng tôi tin rằng tỉ lệ ĐK cục bộ ở lô nghiên cứu của

chúng tôi cơ lẽ còn cao hơn, nhưng do chúng tôi phân loại chủ yếu dựa vào bệnh
sử biểu hiện lâm sàng mà không có các phương tiện trợ giúp khác như video, nên
có thể đã phân loại một số trường hợp ĐK cục bộ toàn thể hóa vào nhóm ĐK toàn
thể. Trong nhóm ĐK cục bộ thì cơn cục bộ toàn thể hóa chiếm ưu thế (33/47 ca).
Giải thích lý do có tỷ lệ cao hơn các nhóm khác trong ĐK cục bộ có thể là sau khi
bị thể cục bộ đơn giản hoặc phức tạp ban đầu bệnh nhân không đi khám và điều trị
cho tới lúc họ chuyển qua giai đoạn toàn thể hóa.
Tỉ lệ ĐK toàn thể trong nghiên cứu của chúng tôi là 38,4%. Trong đó chỉ
có một ca là ĐK cơn vắng ý thức. Theo một số nghiên cứu thì ĐK cơn vắng ý thức
ít gặp ở các nước nhiệt đới hơn ở các nước vùng ôn đới
(9)
. Ngoài ra, ĐK cơn vắng
cũng thường gặp ở lứa tuổi lớn hơn. Chúng tôi cũng ghi nhận 3 ca ĐK với cơn co
giật, là một dạng cơn ĐK tương đối hiếm. Phần lớn các cơn toàn thể là cơn co
cứng co giật gồm 24 ca.
Tỉ lệ không phân loại được trong nghiên cứu của chúng tôi là 14,1%, có cao
hơn so với nghiên cứu của Sananayake
(9)
. Trong các trường hợp được chẩn đoán
ĐK khi chưa đo EEG (91 bệnh nhân - 91,9%), nếu không có EEG chỉ phân loại
cơn được 35,2%, nếu có EEG phân loại được 85,9%. So sánh với Sananayake
(1250 bệnh nhân trẻ em và người lớn), tỷ lệ này lần lượt là 95,6% và 97,1%; đây
là một trong những báo cáo có tỷ lệ phân loại được cao nhất trên thế giới
(9)
.
Sananayake phân loại cơn toàn thể khi không có EEG bằng lâm sàng, sau khi có
EEG phải chuyển 30 ca (2,4% trên tổng số) sang loại cục bộ (nhóm toàn thể hóa
thứ phát). Vì vậy để tránh lầm lẫn này, chúng tôi xếp những ca có biểu hiện lâm
sàng toàn thể (không có yếu tố giúp xác định khác) khi chưa có EEG hoặc sau đo
EEG có kết quả bình thường vào loại không phân loại được, cũng do sự khác nhau

này chúng tôi có tỷ lệ không phân loại được cơn cao hơn của Sananayake. Ngoài
ra, có lẽ còn do thời gian theo dõi của chúng tôi ngắn chỉ trong 3 tháng.
Về 8 ca không co cứng hoặc co giật, khả năng chẩn đoán ĐK chủ yếu là
dựa trên lâm sàng, tuy nhiên không thể xác định sớm đây là ĐK nếu không có
EEG. Điều này cho thấy khi áp dụng bảng phân loại chỉ cần dựa trên lâm sàng và
EEG, hiệu quả phân loại cơn rất tốt. Tuy nhiên cần chú ý dù có EEG, một số ca
không co gòng hoặc co giật vẫn có thể bị bỏ sót nếu EEG bình thường hoặc không
nghĩ tới nên không chỉ định.
Chúng tôi nhận thấy với 28,3% EEG bình thường, 15,2% không điển hình
đã khẳng định việc chẩn đoán ĐK không bao giờ bị loại trừ chỉ vì kết quả EEG
không thấy sóng ĐK điển hình
(1,13)
. Siêu âm não có 24,2% bất thường trên tổng số
được chỉ định (11/45 ca), xét nghiệm này đơn giản, vô hại, ít tốn kém và hữu ích
khi cho biết những thông tin quan trọng về dãn não thất, khối bất thường, dị tật
não bẩm sinh… giúp định hướng chẩn đoán nguyên nhân và cho thêm xét nghiệm
khác. Về nguyên nhân gây ĐK triệu chứng, nhiều nhất là bệnh lý chu sinh với
19,2% (ngạt, sinh non…), kế tới mới là bệnh lý thần kinh, chứng tỏ vấn đề quản lý
và đề phòng bệnh lý chu sinh còn cần được quan tâm.
Trong nghiên cứu, chúng tôi đánh giá tỷ lệ đáp ứng sớm vì đây là yếu tố
tiên lượng thuyên giảm về lâu dài, bất kể nguyên nhân
(3)
. Dù chủ yếu là đơn trị
(98%), tỷ lệ đáp ứng sớm khả quan trên số theo dõi điều trị đầy đủ trong 3 tháng
đầu (63/86 ca, 73,3%), nhóm không đáp ứng sớm cũng không thấy tăng tần số
cơn. Tỷ lệ bỏ trị còn rất cao (13,1%) và không liên quan với nhóm tuổi, giới, địa
chỉ, tiền sử bệnh lý thần kinh. Do đó, cần chú ý tư vấn và giúp người thân hiểu rõ
về sự cần thiết của quá trình điều trị và theo dõi lâu dài trong điều trị ĐK.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng ghi nhận tỷ lệ vào cơ sở y tế lần đầu
ở ngày đầu là 22,2% dù co giật là tình trạng gây lo lắng cho thân nhân. Đây là một

tỷ lệ thấp đáng ngạc nhiên. Tỉ lệ bệnh nhi được đưa đến cơ sở y tế cao nhất ở tuần
2-4 (25 ca, chiếm 25,6%), có thể do một số ca có cơn thưa hoặc chỉ sau 2-4 tuần
đầu thì tần số cơn mới tăng đáng kể. Trong khi đó, có đến 11 ca (11,1%) sau 6
tháng mới được đưa đến cơ sở y tế lần đầu và 26 trẻ (26,3%) sau 6 tháng mới đến
khám lần đầu tiên tại BVNĐI. Điều trị chậm càng có nguy cơ khó trị
(1)
và trẻ nên
được đến khám chuyên khoa ngay sau khi có cơn co giật không kèm sốt đầu
tiên
(11)
.
KẾT LUẬN
Đây là nghiên cứu phân loại cơn ĐK theo ILAE 1981 ở trẻ em được khám
và điều trị tại BVNĐ1. Với khai thác bệnh sử chi tiết và EEG ngoài cơn, kết quả
phân loại được chiếm tỉ lệ khá cao, tuy có thể có một số lầm lẫn khi xếp loại do
chúng tôi không có EEG liên tục và video để quay phim theo dõi. Dù vậy, đây là
phân loại mà chúng ta có thể xử dụng được, đặc biệt là tại một nước đang phát
triến và thiết các phương tiện chẩn đoán khác như nước ta. Với việc phân loại cơn
như vậy, tuy không giúp xác định được bệnh lý ĐK và hội chứng ĐK cụ thể,
nhưng dựa trên bệnh sử đáng tin cậy và EEG, các thầy thuốc thường có thể phân
loại được cơn ĐK, xác lập chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị thích hợp. Điều trị
với đơn trị cho tỷ lệ đáp ứng sớm cao, nhưng tỷ lệ bệnh nhân đến điều trị muộn và
bỏ trị cũng rất cao, chứng tỏ công tác tuyên truyền về bệnh ĐK cần được chú ý
quan tâm hơn nữa.

×