Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

THIẾU IỐT Ở PHỤ NỮ MANG THAI potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.11 KB, 22 trang )

THIẾU IỐT Ở PHỤ NỮ MANG THAI

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thiếu iốt là vấn đề sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam. Thiếu iốt ở
thai phụ sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề nhưng đến nay vẫn chưa có số liệu về tình
trạng này ở thai phụ TP.HCM.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thiếu iốt (iốt niệu < 10g/dl) và các yếu tố liên quan
ở thai phụ TP.HCM.
Phương pháp: Điều tra cắt ngang trên 776 thai phụ tại TP.HCM. Đối tượng
được lấy một mẫu nước tiểu & một mẫu muối đang dùng tại nhà để định lượng iốt,
được phỏng vấn kiến thức & thực hành về phòng chống thiếu iốt.
Kết quả: Iốt niệu trung vị của thai phụ là 6,3g/dl, tỉ lệ thai phụ có iốt niệu
<10g/dl là 72,8%, với tỉ lệ thiếu iốt nhẹ (iốt niệu 5-9,9g/dl) là 33,6%, thiếu vừa
(2-4,9g/dl) là 27,3%, & thiếu nặng (iốt niệu <2g/dl)là 11,9%. Sống ở vùng ngoại
thành hoặc ven có nguy cơ thiếu iốt cao gấp 1,4 lần so với sống ở vùng nội thành. Cứ
thêm mỗi tháng tăng lên trong thai kỳ sẽ tăng nguy cơ bị thiếu iốt lên 20%. Dùng
muối iốt (MI) đủ tiêu chuẩn phòng bệnh giúp giảm 45% nguy cơ bị thiếu iốt. Tỉ lệ
thai phụ có sử dụng MI là 68,1%, & dùng MI đủ tiêu chuẩn phòng bệnh là 56,8%.
Kết luận: Bởi vì thiếu iốt gây nhiều hậu quả nặng nề, nghiên cứu này cho thấy
tỉ lệ thiếu iốt cao ở thai phụ & giai đoạn sau thai kỳ có nguy cơ thiếu iốt cao hơn so
với giai đoạn đầu chứng tỏ tình trạng thiếu hụt iốt ở thai phụ TP.HCM là rất đáng lo
ngại & cần được báo động. Nghiên cứu cũng cho thấy dùng MI có hàm lượng iốt đủ
tiêu chuẩn phòng bệnh là yếu tố bảo vệ đối với tình trạng thiếu iốt ở thai phụ.
ABSTRACT
IODINE DEFICIENCY IN PREGNANT WOMEN IN HCMC
Tran Thi Minh Hanh, Pham Ngoc Oanh, Phan Nguyen Thanh Binh, Nguyen
Nhan Thanh,
Nguyen Thi Tuyet Hanh, Nguyen Hong Vu, Phan Nguyen Thuy Hoang,
Nguyen Nhu Loan, Le Nguyen Trung Duc Son and Le Thi Kim Qui.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 135 - 140
Background: Iodine deficiency is a public health problem in Vietnam. Iodine


deficiency in pregnant women induce severe consequence. Up to now, there is no
information on iodine status of pregnant women in HCMC.
Objectives: To determine the prevalence of iodine deficiency (urinary iodine
<10g/dl) and relacted factors in pregnant women in HCMC.
Methods: A cross-sectional survey was conducted in 776 pregnant women in
HCMC. A casual spot urine in the morning of survey and a sample of using salt were
collected from each subject to measure iodine. Iodine deficiency was classified into 3
groups as severe (urinary iodine < 2g/dl), moderate (2-4.9g/dl), and mild (5-
9.9g/dl). A structured questionnaire was used to interview knowledge on iodine
deficiency prevention of pregnant women.
* Trung tâm dinh dưỡng TP.HCM

Results: Median of urinary iodine was 6.3g/dl. The prevalence of iodine
deficiency in pregnant women (urinary iodine <10g/dl) was 72.8%, in which mild
level was 33.6%, moderate was 27.3%, and severe was 11.9%. Pregnant women
living in rural or suburban areas was increased risk of iodine deficiency 1.4 times
higher than to those living in urban area. Increasing 1 month during pregnancy raised
the risk of iodine deficiency 20%. Using iodized salt (iodine between 15-50ppm)
decreased 45% risk of iodine deficiency. The prevalence of pregnant women using
iodized salt was 68.1%, iodized salt (with iodine between 15-50ppm) was 56.8%. The
prevalence of pregnant women has knowledge on iodine deficiency prevention was
very low.
Conclusions: Since iodine deficiency causes severe consequences. Our
findings indicated a high prevalence of iodine deficiency in pregnant women in
HCMC and pregnancy in the later stage has higher risk of iodine deficiency compare
to the early stage, thus requiring policy maker should pay more attention for this
vulnerable population. We also found that using salt with sufficient iodine was a
protective factor to iodine deficiency.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu iốt là vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng của nhiều nước trên thế

giới
(5)
, kể cả Việt Nam
(13)
. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, đây là nguyên nhân quan
trọng nhất gây tổn thương não & hệ thần kinh mà chúng ta có thể phòng ngừa được
(8)
.
Thiếu iốt gây ra nhiều hậu quả nặng nề, đặc biệt là ở thai phụ
(7)
. Thiếu iốt
trong quá trình mang thai sẽ làm tăng nguy cơ sẩy thai, chết chu sinh ở trẻ, hoặc trẻ
sanh ra sẽ bị thiểu năng tuyến giáp, bướu cổ, điếc, chậm phát triển cả trí não lẫn thể
chất. Một nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy trong vùng thiếu iốt có đến 55,0% thai phụ
có tình trạng thiếu iốt ở mức độ vừa và 13,2% bị thiếu nặng
(11)
. Ngay cả ở một số
vùng đủ iốt thì tình trạng thiếu iốt ở thai phụ cũng cao hơn so với các đối tượng
khác
(9,1,10)
.
Tại Việt Nam, mặc dù chương trình phòng chống các rối loạn do thiếu iốt
(PCCRLTI) đã được triển khai từ năm 1995 trên toàn quốc nhưng đến năm 2005 thì tỉ
lệ iốt niệu dưới mức đủ để phòng bệnh (<10g/dl) ở phụ nữ tuổi sanh đẻ (15-49 tuổi)
tại TP.HCM vẫn còn rất cao (59,9%). Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng muối iốt (MI) đủ hàm
lượng phòng bệnh là rất thấp (60,8%) (2). Như vậy, người dân thành phố không tránh
khỏi nguy cơ bị thiếu iốt. Khi đó, tình trạng thiếu iốt ở thai phụ có lẽ sẽ nặng nề hơn
do nhu cầu iốt tăng cao ở đối tượng này. Tuy nhiên, cho đến nay TP.HCM vẫn chưa
có số liệu về tình trạng thiếu iốt ở thai phụ. Điều này hướng đến việc cần thiết phải
khảo sát tình trạng thiếu hụt iốt & các yếu tố liên quan ở thai phụ TP.HCM nhằm định

hướng can thiệp thích hợp.
PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng
Điều tra cắt ngang được thực hiện tại 30 phường/xã (PX) tại TP.HCM được
chọn ngẫu nhiên theo phương pháp PPS. Tổng số 776 thai phụ (25-30 thai phụ ở mỗi
PX) tham gia điều tra được phỏng vấn kiến thức về tác hại khi bị thiếu iốt ở thai phụ,
cách phòng chống thiếu iốt, & cách bảo quản MI. Mỗi đối tượng được yêu cầu lấy
một mẫu nước tiểu trong buổi sáng điều tra để định lượng iốt bằng phương pháp động
học xúc tác dựa vào phản ứng Sandell-Kolthoff (6). Mẫu muối đang sử dụng tại nhà
(khoảng 20g) được thu thập để định lượng iốt bằng phương pháp chuẩn độ theo tiêu
chuẩn (Standard titration method). Định lượng iốt trong nước tiểu & trong muối được
phân tích tại labo của Trung tâm Dinh dưỡng (TTDD), là labo được kiểm định định
kỳ bởi Chương trình PCCRLTI quốc gia. Hệ số dao động (Coefficient of variation)
của xét nghiệm định lượng iốt niệu & muối tại labo của TTDD là < 10%.
Tiêu chuẩn chẩn đoán & phân loại
Thiếu iốt trong cộng đồng: khi iốt niệu trung vị <10g/dl
(14)
.
Nồng độ iốt trong nước tiểu được phân chia theo các mức độ sau:
Thiếu
nặng: < 2 g/dl
Thiếu
vừa:
2 - 4,9 g/dl
Thiếu
nhẹ: 5 - 9,9 g/dl
Đủ iốt:  10 g/dl
Hàm lượng iốt trong muối được phân như sau
(14)


Muối thư
ờng (không có
iốt) < 5 ppm

I
ốt trong muối không đủ
để phòng bệnh:
5 - 14
,9
ppm
I
ốt trong muối đủ để
phòng bệnh:
15 -
50
ppm
Iốt trong muối cao: >50ppm

Vùng cư ngụ được phân thành nội thành (Q.1, Q.3, Q.4, Q.5, Q.6, Q.8, Q.10,
Q.11, Tân Bình, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Phú) và ngoại thành & ven (Q.2, Q.9,
Q.12, Bình Chánh, Bình Tân, Củ Chi, Hóc Môn, Thủ Đức).
Phương pháp xử lý số liệu:
Số liệu được nhập bằng phần mềm EPI-INFO 6.0 & xử lý bằng phần mềm
SPSS 11.0. Test Chi bình phương được sử dụng để so sánh các tỉ lệ. t-test được sử
dụng để so sánh các số trung bình. OR, có được từ phân tích hồi qui đa biến, được sử
dụng để phân tích mối tương quan giữa thiếu iốt & các yếu tố liên quan. Giá trị
p<0,05 được xem như có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng tham gia điều tra
Tần số


Tỉ lệ (%)

3 tháng đầu 29 3,7
3 tháng giữa 248 32,0
Tam cá nguyệt
3 tháng cuối 499 64,3
Nội thành 449 57,9
Nơi cư ngụ
Ngoại thành & ven

327 42,1
< 20 47 6,1
20-29 420 54,1
Nhóm tuổi (năm)

30-39 299 38,5
Tần số

Tỉ lệ (%)

≥ 40 10 1,3
Toàn bộ 776 100
Đặc điểm của thai phụ tham gia điều tra được mô tả trong Bảng 1. Thai phụ ở
3 tháng cuối & 3 tháng giữa thai kỳ chiếm đa số, lần lượt là 64% & 32%. Hơn 50%
thai phụ tham gia điều tra ở nhóm 20-29 tuổi.
Tình trạng iốt niệu của thai phụ được thể hiện trong Biểu đồ 1. Mức iốt niệu
trung vị của thai phụ TP.HCM là 6,3g/dl. Tỉ lệ thai phụ có iốt niệu thấp là 72,8%.
Trong đó, 33,6% thiếu nhẹ, 27,3% thiếu vừa, & 11,9% thiếu nặng. Tỉ lệ thai phụ có
lượng iốt niệu đủ để phòng bệnh chỉ khoảng ¼ đối tượng (27,3%).


Biểu đồ 1: Nồng độ iốt trong nước tiểu ở phụ nữ mang thai. Đủ iốt: iốt niệu
≥10g/dl. Thiếu nhẹ: 5-9,9g/dl. Thiếu vừa: 2-4,9g/dl. Thiếu nặng: <2g/dl
Bảng 2: Mối tương quan giữa nồng độ iốt niệu & các yếu tố liên quan

I
ốt niệu 
10g/dl
I
ốt niệu <
10g/dl
n % n %
Giá
trị p
*

Muối
thường
44

18,
3
19
6
81,
7
MI không
đủ phòng bệnh
5
15,

2
28

84,
8
MI đ

phòng bệnh
13
9
32,
5
28
9
67,
5
Loạ
i mu
ối
đang dùng

MI hàm
lượng cao
19

36,
5
33

63,

5
0,00
0

I
ốt niệu 
10g/dl
I
ốt niệu <
10g/dl
n % n %
Giá
trị p
*

Không
dùng MI
17

15,
0
96

85,
0
Thỉnh
thoảng dùng
12

19,

7
49

80,
3
T
ần
suất d
ùng
MI
Dùng MI
mỗi ngày
17
8
30,
3
40
9
69,
7
0,00
1
Nội thành

13
5
30,
1
31
3

69,
9
Địa

Ngoại
thành & ven
76

23,
3
25
0
76,
7
0,03
5

I
ốt niệu 
10g/dl
I
ốt niệu <
10g/dl
n % n %
Giá
trị p
*

3 tháng
đầu

10

34,
5
19

65,
5
3 tháng
giữa
89

35,
9
15
9
64,
1
Ta
m cá
nguy
ệt thai
kỳ
3 tháng
cuối
11
2
22,
5
38

5
77,
5
0,00
0
< 5 điểm

17
9
26,
6
49
4
73,
4
Ki
ến
thức ph
òng
ng
ừa thiếu
iốt
**

 5
điểm
32

32,
0

68

68,
0
0,25
8

I
ốt niệu 
10g/dl
I
ốt niệu <
10g/dl
n % n %
Giá
trị p
*


Cấp 2

14
6
29,
1
35
5
70,
9
Trìn

h đ
ộ văn
hóa
>
Cấp 2

65

24,
1
20
5
75,
9
0,13
2
*
Sử dụng phép kiểm chi bình phương.
*
Có tất cả 7 câu hỏi về kiến thức phòng chống thiếu iốt (tác hại khi bị thiếu iốt
ở thai phụ, biện pháp phòng chống thiếu iốt, cách bảo quản MI) được tính 1 điểm cho
mỗi câu đúng.
Bảng 2 cho thấy có mối liên quan giữa hàm lượng iốt trong muối đang sử
dụng & iốt trong nước tiểu. Thai phụ sử dụng muối thường hoặc MI không đủ hàm
lượng để phòng bệnh có tỉ lệ iốt niệu <10g/dl cao hơn so với thai phụ dùng MI đủ
hàm lượng phòng bệnh (81,7% & 84,8% so với 67,5%, p<0,01). Tỉ lệ iốt niệu
<10g/dl ở thai phụ sử dụng MI thường xuyên thấp hơn so với thai phụ không dùng
MI hoặc dùng MI không thường xuyên (69,7% so với 85,0% & 80,3%, p<0,01). Thai
phụ sống ở ngoại thành & vùng ven có tỉ lệ thiếu iốt cao hơn so với thai phụ ở nội
thành (76,7% so với 69,9%, p<0,05). Thai phụ ở 3 tháng cuối thai kỳ có tỉ lệ thiếu iốt

cao hơn so với thai phụ ở 3 tháng đầu & 3 tháng giữa (77,5% so với 65,5% & 64,1%,
p<0,01). Không quan sát được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ iốt niệu
thấp với kiến thức phòng chống thiếu iốt & trình độ văn hóa.
Theo Bảng 3, sống ở vùng ngoại thành & ven có nguy cơ thiếu iốt là 1,4 lần
so với thai phụ sống ở vùng nội thành. Trong suốt 9 tháng của thai kỳ, cứ thêm 1
tháng mang thai sẽ tăng thêm 21% nguy cơ bị thiếu iốt. Ngược lại, dùng MI với
hàm lượng iốt trong muối đủ tiêu chuẩn phòng bệnh giúp giảm 53% nguy cơ thiếu
iốt, cũng như dùng MI thường xuyên mỗi ngày sẽ giúp giảm 59% nguy cơ bị thiếu
iốt. Sau khi đưa các yếu tố trên vào phân tích đa biến, chỉ còn 1 yếu tố bảo vệ đối
với tình trạng thiếu iốt là dùng MI đủ tiêu chuẩn phòng bệnh. Trong khi đó, mối
tương quan giữa vùng cư ngụ và tháng mang thai với nguy cơ thiếu iốt vẫn còn ý
nghĩa thống kê (Bảng 3).
Bảng 3: Yếu tố tương quan với tình trạng thiếu iốt của thai phụ TP.HCM

OR
(95%
p
OR
hi
ệu chỉnh
(95% CI)
p
CI)
Loại muối đang dùng
Muối
thường
1 1
MI
không đ


phòng bệnh
1,26
(0,52-3,02)
0,595

1,46
(0,64-3,33)

0,346

MI đ

phòng bệnh
0,47
(0,30-0,73)
0,002

0,55
(0,33-0,91)

0,021

Muối
hàm lư
ợng iốt
cao
0,39
(0,21-0,74)
0,006


0,45
(0,21-0,97)

0,043

Tần
suất dùng MI


Không

dùng MI
1 1
Thỉnh
thoảng d
ùng
MI
0,72
(0,29-1,78)
0,463

0,91
(0,36-2,32)

0,835

Dùng
MI mỗi ngày
0,41
(0,24-0,69)

0,002

0,63
(0,35-1,13)

0,118

Địa dư


Nội
thành
1 1
Ngoại
thành & ven
1,42
(1,03-1,95)
0,032

1,41
(1,05-1,89)

0,024

Tháng
thai
1,21
(1,11-1,32)
0,000


1,20
(1,09-1,31)

0,000

Bảng 4 cho thấy tỉ lệ thai phụ biết ít nhất 1 tác hại của thiếu iốt trong thai kỳ là
58,5%, biết từ 2 tác hại trở lên là 17,5%, & biết đầy đủ 3 tác hại trở lên chỉ có 1,4%.
Tỉ lệ thai phụ biết dùng MI để phòng ngừa thiếu iốt là 70,5% nhưng thực tế chỉ có
68,1% thai phụ có sử dụng MI. Trong đó, tỉ lệ sử dụng MI đủ tiêu chuẩn phòng bệnh
chỉ là 56,8%. Lý do không sử dụng MI chủ yếu là do thói quen dùng muối thường,
khoảng ¼ đối tượng cho là do mùi vị MI khó chịu.
Bảng 4: Kiến thức của thai phụ về phòng chống thiếu iốt

T
ần
số
Tỉ
lệ (%)
Bi
ết ít nhất
1 tác hại 454

58,5

Bi
ết ít nhất
2 tác hại
136

17,5


Bi
ết tác hại
c
ủa thiếu iốt đối
v
ới thai kỳ (n
chung =775)
Bi
ết từ 3
tác hại trở lên 11 1,4

T
ần
số
Tỉ
lệ (%)
Biết cách dùng MI phòng ng
ừa
thiếu iốt (n chung =775) 546

70,5

Hiện đang d
ùng MI (hàm
lượng iốt ≥5ppm) (n chung=754)
513

68,1


Hiện đang dùng MI 15-
50ppm
(n chung=754) 428

56,8

Bi
ết cách bảo quản MI (đậy
kín, để nơi mát) (n chung=775) 213

27,5

Lý do không dùng MI hoặc dùng không thường xuy
ên
(n chung=170)


Thói quen dùng mu
ối
thường 76 44,7


T
ần
số
Tỉ
lệ (%)


Mùi vị khó chịu 43 25,3




Không c
ần thiết phải
dùng MI 14 8,2


Dùng muối thư
ờng tiện
cho bán thức ăn 8 4,7


Nhà có người bị bư
ớu
cổ
6 3,5


Đắt tiền 2 1,2


MI không sạch 1 0,6
BÀN LUẬN
Iốt niệu từ mẫu nước tiểu bất kỳ có thể được dùng để đánh giá tình trạng
thiếu hụt iốt trên cộng đồng & được thể hiện bằng giá trị trung vị
(14)
. Mức iốt niệu
<10g/dl được đánh giá là thiếu hụt iốt
(14)

. Iốt niệu trung vị của thai phụ TP.HCM
là 6,3g/dl, dưới mức an toàn để phòng bệnh (iốt niệu ≥10g/dl) (Biểu đồ 1),
thấp hơn so với iốt niệu trung vị của quần thể chung ngoài cộng đồng tại TP.HCM
năm 2007 (7,2g/dl)
(4)
, và chỉ bằng một nửa so với iốt niệu trung vị toàn quốc
năm 2005 (12,2g/dl)
(3)
. Tỉ lệ thai phụ có iốt niệu <10g/dl là khá cao (72,8%).
Trong đó, mức độ thiếu nhẹ chiếm gần một nửa (33,6%), tỉ lệ thiếu vừa là 27,3%,
& thiếu nặng là 11,9% (Biểu đồ 1). Kết quả này cho thấy tình trạng thiếu hụt iốt ở
thai phụ TP.HCM là phổ biến & rất đáng lo ngại cần được giám sát thường xuyên
& có biện pháp phòng ngừa do hậu quả thiếu iốt ở đối tượng này là gánh nặng đối
với gia đình & xã hội.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, bổ sung iốt vào muối là cách hiệu quả nhất để
PCCRLTI. Tuy nhiên, tỉ lệ sử dụng MI tại TP.HCM nói chung rất thấp, tỉ lệ sử dụng
MI (hàm lượng iốt trong muối ≥15ppm) của người dân thành phố năm 2007 chỉ là
53,8%, rất thấp so với mục tiêu PCCRLTI mà Chương trình đã đề ra (≥90%)
(12)
. Do
iốt là một chất dễ bay hơi nên việc bảo quản trong quá trình sử dụng cũng rất quan
trọng. Dùng MI nói chung không đủ để bảo vệ khỏi thiếu hụt iốt mà cần quan tâm đến
nồng độ iốt đủ phòng bệnh (Bảng 3). Tỉ lệ dùng MI với hàm lượng iốt trong muối đủ
để phòng bệnh ở thai phụ cũng chỉ ở mức 56,8%.
Theo một số nghiên cứu trên thế giới
(1,10,2)
, ngay cả những vùng đủ iốt để
phòng bệnh bằng cách bổ sung MI cho cộng đồng thì quần thể chung ở cộng đồng
nhận đủ iốt nhưng tình trạng thiếu iốt ở thai phụ vẫn rất cao. Mang thai được xem như
“môi trường” thiếu iốt so với các trạng thái sinh lý khác

(11)
. Điều này có thể do nhu
cầu sử dụng iốt để tạo hormon tuyến giáp ở thai phụ tăng cao hơn so với các đối
tượng khác, iốt lại tăng đào thải qua nước tiểu trong suốt thai kỳ, trong khi đó chế độ
ăn của thai phụ lại cần hạn chế muối. Như vậy, với tỉ lệ sử dụng MI quá thấp ở thai
phụ TP.HCM (chỉ 68,1% dùng MI & chỉ một nửa đạt hàm lượng đủ để phòng bệnh)
thì tình trạng thiếu iốt ở thai phụ sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Thiếu iốt ở thai phụ sẽ ảnh hưởng đến việc tổng hợp hormon tuyến giáp ở cả
bà mẹ & thai nhi. Và sự thiếu này sẽ khác biệt trong các giai đoạn thai kỳ. Trong giai
đoạn đầu thai kỳ, sự phát triển của thai nhi dựa vào hormon do tuyến giáp của mẹ sản
xuất là chủ yếu. Từ khoảng giữa thai kỳ, tuyến giáp của thai nhi mới bắt đầu sản xuất
hormon tuyến giáp & hoạt động này là tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển hoàn chỉnh
của thai nhi. Do vậy, khi sự thiếu iốt xảy ra từ trước, trong suốt nửa đầu thai kỳ sẽ dẫn
đến thiếu hụt trầm trọng trong giai đoạn sau do nhu cầu tăng cao ở giai đoạn sau thai
kỳ nhằm đáp ứng cho sự phát triển nhanh của thai nhi. Kết quả từ nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy thai phụ ở những tháng sau thai kỳ có nguy cơ cao hơn bị thiếu iốt
so với những tháng đầu có thể do sự thiếu iốt đã xảy ra từ trước khi mang thai, tương
ứng với độ phủ MI các năm qua đều rất thấp tại TP. HCM
(4)
.
Sự thiếu iốt ở thai phụ TP.HCM cũng không đồng đều giữa các vùng cư ngụ.
Thai phụ sống ở vùng ngoại thành & ven có nguy cơ cao hơn bị thiếu iốt so với thai
phụ ở vùng nội thành (Bảng 3) dù sự khác biệt về tỉ lệ dùng MI đủ tiêu chuẩn phòng
bệnh tại hộ gia đình của thai phụ cả hai vùng là không đáng kể (số liệu không trình
bày trong bài này). Điều này có thể do việc tiêu thụ MI có khác nhau giữa từng cá
thể hoặc do việc sử dụng iốt để tạo hormon giáp của các bà mẹ (hoặc thai nhi) bị
thiếu iốt có khác nhau ảnh hưởng đến việc đào thải iốt ra nước tiểu có khác biệt
(12)
.
KẾT LUẬN

Iốt niệu trung vị của thai phụ TP.HCM là 6,3g/dl. Tỉ lệ thai phụ bị thiếu iốt
là 72,8% với các mức độ thiếu nhẹ, vừa, & nặng lần lượt là 33,6%, 27,3%, & 11,9%.
Tình trạng thiếu hụt iốt ở thai phụ tại TP.HCM hiện nay rất đáng lo ngại & cần được
báo động. Dùng MI đủ tiêu chuẩn phòng bệnh là yếu tố bảo vệ đối với tình trạng thiếu
iốt ở thai phụ. Mang thai ở giai đoạn sau thai kỳ có nguy cơ thiếu iốt cao hơn so với
giai đoạn đầu. Thai phụ ở vùng ngoại thành & ven có nguy cơ thiếu iốt cao hơn so với
thai phụ ở vùng nội thành.

×