Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

NHIỄM GIUN KIM Ở TRẺ EM NHÀ TRẺ, MẪU GIÁO ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.8 KB, 29 trang )

NHIỄM GIUN KIM Ở TRẺ EM NHÀ TRẺ, MẪU GIÁO


TÓM TẮT
Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ em, nhà trẻ, mẫu giáo tại
3 xã thuộc huyện Vũ Thư, Thái Bình .(2) Đánh giá hiệu quả của 2 biện pháp can
thiệp.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang và can thiệp có đối chứng.
Kết quả và kết luận: Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo 3 xã
rất cao (54,7%), giữa 3 xã (58,4% so với 53,5% và 52,3%) không có sự khác biệt
trong phòng chống bệnh giun kim ở trẻ em.Tỷ lệ nhiễm giun kim của chung ở
nhóm 37-72 tháng tuổi (60,5%) cao hơn nhóm 12-36 tháng tuổi (49,6%) có ý
nghĩa và giữa nam với nữ không có sự khác biệt (52,6% và 55,9%).• Hai xã được
can thiệp (Minh Quang và Tân Phong): tỷ lệ nhiễm giun kim đều giảm so với
trước can thiệp (32,5% so với 58,4% và 36,5% so với 53,5%) và so với xã chứng
(48,3%). • Can thiệp bằng điều trị thuốc tẩy giun (Minh Quang), tỷ lệ nhiễm giun
kim giảm được tương đương với biện pháp tuyên truyền GDSK về bệnh giun kim
(Tân Phong): 44,3% và 31,8%.Xã Tân Phong (can thiệp GDSK): nhận thức đúng
của người nuôi dạy trẻ về bệnh giun kim: đường lây nhiễm, vị trí ký sinh của giun
kim, về tác hại bệnh và về biện pháp phòng chống bệnh, sau can thiệp đều tăng có
ý nghĩa so với trước can thiệp và so với 2 xã chứng: Minh Quang và Việt Hùng
(không được tuyên truyền GDSK về bệnh giun kim).Thực hành của người nuôi
dạy trẻ về phòng chống bệnh giun kim tăng lên rõ so với trước can thiệp và với 2
xã chứng như không mặc quần thủng đũng cho trẻ, thường xuyên rửa tay trước khi
ăn, rửa hậu môn hàng ngày cho trẻ vào buổi sáng sớm, cắt móng tay thường xuyên
cho trẻ, dùng thuốc tẩy giun cho trẻ. • Hai xã chứng (không được can thiệp
GDSK): sau và trước khi nghiên cứu, tất cả các chỉ số trên, không có sự khác biệt.
Objectives: To define prevalence rate of Enterobius vermicularis infection
in children in kindergartens and preschool children in 3 communes in Vu Thu
district, Thai Binh province. To assess the effect of 2 interventional measures.
Methods: Cross- sectional and intervention control studies.


Results and conclusions: Prevalence of Enterobius vermicularis infection
among pre-school children were hight at 3 communes (54.7%), and not satistically
significant comparison between them each other (58.4% comparison with 53.5%
and 52.3%). Prevalence of Enterobius vermicularis infection group 37-72 months
was higher satistically significant group 12-36 months (60.5% comparison with
49.6%), and in female with male pre-school children were equivalent: 52.6% and
55.9%. Minh Quang and Tan Phong (2 communes with intervention): prevalence
of Enterobius vermicularis infection has reduced satistically significant after
comparison with before intervention (32.5% comparison with 58.4% and 36.5%
comparison with 53.5%) and control commune – Viet Hung (48.3%).• Minh Quang
commune (intervention by chemotherapy), prevalence rate of Enterobius
vermicularis infection has reduced equivalent Tan Phong commune (intervention
hygiene of habitat and healthy education) : 44.3% and 31.8%.• Tan Phong
commune (intervention hygiene of habitat and healthy education): the right
knowledges of children

s parents and teachers about enterobiasis has increased
satistically significant comparison before intervention and 2 control communes
(Minh Quang and Viet Hung): intrusional ways, threaworm

s place in human,
harms of enterobiasis, and prevented ways. The right practices of children

s parent
and teachers about enterobiasis has increased satistically significant comparison
before intervention and 2 control communes: didn

t wear seat opened trousers for
children, always cleanse them hands before eating, cleanse anal everyday in the
early morning, always cut children


nails, helminthic for children. Minh Quang,
Viet Hung communes (no intervention hygiene of habitat and healthy education):
there is no remarkable change all above indexes after comparison with before
research.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh giun kim là một bệnh khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới,
nhất là những nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Theo ước tính, trên thế giới có
khoảng 1 tỷ người nhiễm giun kim, nhưng tập trung chủ yếu vào lứa tuổi học
đường, sống ở trong các tập thể có điều kiện sinh hoạt thấp kém như: quá đông
đúc, môi trường ô nhiễm, thiếu nước sạch trong sinh hoạt
Việt Nam chúng ta, bệnh lại càng phổ biến hơn vì: không những mang đầy
đủ nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới, mà còn có những thói quen trong ăn uống
sinh hoạt chưa khoa học và nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp: tỷ lệ nhiễm giun
kim khá cao từ 18 - 47%. Bệnh giun kim gặp ở hầu hết các lứa tuổi, nhưng tỷ lệ
nhiễm cao nhất là trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo [
2,4,5,7,8]
.
Tỷ lệ mắc bệnh giun kim, không những phụ thuộc vào điều kiện địa lý, khí
hậu, mà nó còn phụ thuộc chủ yếu vào tình hình vệ sinh cá nhân về phòng chống
bệnh. Bệnh giun kim rất dễ tái nhiễm, nếu như vệ sinh không tốt.
Ngược lại, nếu biết cách phòng, thì không cần dùng thuốc tẩy giun, bệnh
cũng có thể hết.
Giun kim chiếm một lượng thức ăn không đáng kể, nhưng gây ảnh hưởng trực
tiếp



đến sức khoẻ của trẻ nhỏ bằng cách kích thích, rối loạn tiêu hoá, rối loạn thần
kinh như làm trẻ ngủ không ngon giấc, hay bị mê hoảng, nghiến răng khi ngủ, có thể bị

đái dầm , nếu tình trạng bị nhiễm nặng sẽ làm cho trẻ suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến
sự phát triển về thể lực và trí tuệ của trẻ.
Để tăng cường ý thức vệ sinh của các bà mẹ, các cô nuôi dạy trẻ hàng ngày
đối với con, em và gia đình của họ, đặc biệt là để làm giảm gánh nặng về bệnh
giun kim cho trẻ em tại cộng đồng, mà ít tốn kém về kinh tế, chúng tôi nghiên cứu
đề tài nhằm mục tiêu:
- Xác định thực trạng nhiễm giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo tại 3 xã
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
- Đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp trong phòng chống
bệnh giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo tại 2 xã nghiên cứu.
ĐỐI TUỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu
Các trường mầm non của 3 xã Tân Phong, Minh Quang và Việt Hùng
huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình.
- Xã Tân Phong: nhận biện pháp can thiệp điều trị thuốc tẩy giun kim
- Xã Minh Quang: nhận biện pháp can thiệp tuyên truyền giáo dục sức khoẻ
(GDSK) về bệnh giun kim
- Xã Việt Hùng: xã chứng, không can thiệp bất cứ biện pháp gì
Đối tượng nghiên cứu
- Trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo tại 3 trường mầm non của 3 xã nghiên cứu
- Cha/ mẹ và cô nuôi dạy các cháu trên
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8/2005 đến tháng 7/2006
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả điều tra cắt ngang
- Nghiên cứu can thiệp: có đối chứng và tự chứng.
Chọn mẫu và cỡ mẫu
Chọn mẫu
- Chọn xã nghiên cứu

Chủ động chọn 3 xã Tân Phong (TP), Minh Quang(MQ) và Việt Hùng(VH)
huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình. Ba xã này có các điều kiện kinh tế, văn hoá, vệ sinh
môi trường , tương tự nhau và những xã này đều có các nhà trẻ, mẫu giáo.
- Chọn nhà trẻ, mẫu giáo
Chủ động chọn các nhà trẻ, mẫu giáo của 3 xã trên:
+ Nếu xã nào có số các cháu đang học ở các nhà trẻ, mẫu giáo tương đương
với cỡ mẫu nghiên cứu thì chọn hết các nhà trẻ, mẫu giáo đó.
+ Nếu xã nào có số các cháu đang học ở các nhà trẻ, mẫu giáo lớn hơn
nhiều so với cỡ mẫu, thì chọn ngẫu nhiên ít nhất 2/3 số nhà trẻ cho phù hợp với cỡ
mẫu.
- Chọn đối tượng nghiên cứu
Tại các nhà trẻ, mẫu giáo đã được chọn, chọn toàn bộ các cháu đang học tại
đó.
4. 2.2. Cỡ mẫu
- Cỡ mẫu cho nghiên cứu thực trạng nhiễm giun kim
Cỡ mẫu nghiên cứu áp dụng công thức tính cỡ mẫu nghiên cứu mô tả
p.q
n= Z
2

1-a\2
x
d
2

n = cỡ mẫu nghiên cứu
Z
1-a\2
độ tin cậy mong muốn » 1,96
p=0,5 (tỷ lệ trẻ bị nhiễm giun kim), q=1-p =0,5

d= sai số mong muốn theo p (d= 0,05)
Thay vào công thức ta có cỡ mẫu 384, vậy mỗi xã có 384 trẻ được lấy vào
nghiên cứu để xét nghiệm tìm trứng giun kim.
- Cỡ mẫu can thiệp về điều trị
Điều trị cho toàn bộ các cháu tại các nhà trẻ và mẫu giáo đã được lấy vào
danh sách nghiên cứu của xã Minh Quang:
- Cỡ mẫu can thiệp GDSK về phòng chống bệnh giun kim
Chính là cha/mẹ các trẻ và cô giáo dạy ở các nhà trẻ và mẫu giáo đó.
Phương pháp thu thập thông tin
Xác định thực trạng nhiễm giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo
Tất cả trẻ em được chọn vào danh sách nghiên cứu, được xét nghiệm bệnh
phẩm ở hậu môn để tìm trứng giun kim, theo phương pháp dùng tăm bông của
Đặng Văn Ngữ .
Đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp
Bước 1: Tiến hành các biện pháp can thiệp
- Can thiệp tuyên truyền Giáo dục sức khoẻ (GDSK) về bệnh giun kim
Tuyên truyền liên tục trong thời gian 6 tháng cho cha/ mẹ, cô giáo nuôi dạy
các cháu và các cháu đã được lấy vào danh sách nghiên cứu ở xã Tân Phong về
bệnh giun kim như đường lây truyền, tác hại và cách phòng chống bệnh, đặc biệt
nhấn mạnh về điều trị là phòng bệnh, không cần dùng thuốc, đỡ tốn kém cho cộng
đồng về mặt kinh tế cụ thể:
• Tăng cường vệ sinh tại gia đình như: nhà cửa, chăn, chiếu
• Tăng cường vệ sinh lớp học: lau nhà, lau bàn ghế, rửa đồ chơi.
• Tăng cường vệ sinh cho các cháu: rửa hậu môn vào sáng sớm, không mặc
quần hở đũng, rửa tay trước và sau khi ăn, cắt móng tay thường xuyên cho trẻ
- Can thiệp bằng dùng thuốc điều trị giun kim
Điều trị cho toàn bộ các cháu tại các nhà trẻ và mẫu giáo đã được lấy vào
danh sách nghiên cứu của xã Minh Quang: 4 tháng uống 1 lần x 2 lần.
Cho uống Mebendazole (Fugacar) 1 viên 500mg liều duy nhất, tại lớp dưới
sự hướng dẫn của cán bộ nghiên cứu, cô giáo chủ nhiệm. Theo dõi tác dụng phụ

của thuốc trong 3 ngày đầu.
Bước 2: Giám sát và đánh giá
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm giun kim của trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo trước, sau
nghiên cứu ở 3 xã, giữa xã can thiệp với xã chứng, giữa 2 xã can thiệp với nhau
dựa vào kết quả xét nghiệm tìm trứng giun kim ở hậu môn trẻ.
- Đánh giá nhận thức, thực hành của các cha/mẹ và cô nuôi dạy trẻ trước và
sau nghiên cứu ở 3 xã và xã can thiệp với xã chứng: dựa vào kết quả phiếu điều tra
để so sánh tỷ lệ đúng, sai về nhận thức, thực hành qua phỏng vấn trực tiếp người
nuôi/dạy trẻ những câu hỏi đơn giản dễ hiểu về bệnh giun kim như nguyên nhân
gây bệnh, tác hại, cách phòng chống đã được thiết kế từ trước.
C ác chỉ số cần nghiên cứu
- Tỷ lệ nhiễm giun kim trước, sau can thiệp
- Tỷ lệ nhận thức/thực hành đúng về bệnh giun kim
- Hiệu quả của can thiệp:
+ Chỉ số hiệu quả can thiệp về tỷ lệ nhiễm giun kim
+ Chỉ số hiệu quả can thiệp nhận thức, thực hành đúng về bệnh giun kim.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê dùng trong y sinh học và
chương trình phần mềm EPI-IFO 6.04 tại bộ môn Ký sinh trùng trường Đại học Y
Thái Bình.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Thực trạng nhiễm giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo tại 3 xã NC
Bảng 1: Tỷ lệ nhiễm giun kim chung và theo giới ở trẻ em 3 xã nghiên cứu
MQ
(n=387)
TP
(n=385)
VH
(n=390)
Chung

(n=1162)
G
iới
n

%
n

%
n

%
n

%
p
N
am
1
14/199
5
7,3
1
02/199
5
1,3
1
02/206
4
9,5

3
18/604
5
2,6
>
0,05
N

1
12/188
5
9,6
1
04/186
5
5,9
9
6/184
5
2,2
3
12/558
5
5,9
>
0,05
C
hung
2
26

5
8,4
2
06
5
3,5
2
04
5
2,3
6
36
5
4,7
>
0,05
p

>0,05 >0,05 >0,05 >0,05

Qua kết quả bảng 1 cho thấy:
- Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ em nhà trẻ, mẫu giáo 3 xã rất cao: 54,7% và
giữa 3 xã, không có sự khác biệt với p >0,05 (58,4% so với 53,5% và 52,3%).
So với nghiên cứu của Phạm Thị Hiển
[5]
ở trẻ em trường mầm non Đại học Y
Thái Nguyên, tỷ lệ nhiễm giun kim 45,6%, của Lê Bách Quang, Trịnh Trọng Phụng
[3]
, tỷ lệ nhiễm giun kim ở nhà trẻ tại một xã nông nghiệp thuộc tỉnh Hà Tây 46,7%
,thì các kết quả trên, thấp hơn trong kết quả của chúng tôi.

So với nghiên cứu của Thân Trọng Quang
[6]
, ở một số nhà trẻ và trường
mẫu giáo của TP. Buôn Ma Thuột Đăklăk, tỷ lệ nhiễm giun kim 80,24%, của Kim
JS, Yoon CH, et al năm 1997
[1]
, tại 2 trường mầm non ở Inchon - Hàn Quốc, tỷ lệ
nhiễm giun kim là 68%, thì các kết quả trên cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng
tôi.
- Tỷ lệ nhiễm giun kim giữa nam với nữ của chung 3 xã (52,6% và 55,9%)
và giữa các xã với nhau, không có sự khác biệt, p>0,05.
Điều này cũng phù hợp với tác giả Lại Quang Sáng
[3]
, tỷ lệ nhiễm giun
kim của trẻ em nam tương đương nữ (33,3% so với 37,0%).
Bảng 2: Tỷ lệ nhiễm giun kim theo nhóm tuổi ở trẻ em 3 xã nghiên cứu
X
ã NC
< 12 tháng
tuổi
12-
36 tháng
tuổi
37-
72 tháng
tuổi
p

+)
%

N
(
+)
%
N
(
+)
%
M
. Quang

-
1
71
8
9
5
2,0
2
16
1
37
6
3,4
<
0,05
T
. Phong
0
,0

1
59
7
5
4
7,2
2
26
1
31
5
8,0
<
0,05
V
. Hùng 4
2
5,0
1
52
7
5
4
9,3
2
14
1
29
6
0,3

<
0,05
C
hung 5
2
4,0
4
82
2
39
4
9,6
6
56
3
97
6
0,5
<
0,05
p

- >0,05 >0,05
Qua kết quả bảng 2 cho thấy:
- Trẻ em < 12 tháng tuổi hầu như chưa gửi nhà trẻ, chỉ có xã Việt Hùng gửi
số lượng trẻ rất ít và tỷ lệ nhiễm giun kim thấp, nên chúng tôi không so sánh.
- Tỷ lệ nhiễm giun kim của chung 3 xã, ở các nhóm 37-72 tháng tuổi
(60,5%) cao hơn nhóm 12-36 tháng tuổi (49,6%) và trong từng xã, sự khác biệt có
ý nghĩa, p< 0,05.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Vũ Văn Thái

[8]
, tỷ lệ nhiễm
giun kim ở nhóm tuổi 12-36 tháng và nhóm 37-72 tháng là 29,0%; 37,5% và Phạm
Thị Hiển
[6]
, nhóm 1-3 tuổi là 30,6%, 4-6 tuổi là 48,8%.
Hiệu quả của các biện pháp can thiệp
Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm, giảm nhiễm giun kim trước và sau can thiệp
Trước can thiệp(CT)

Sau can
thiệp(CT)
X
ã
nghiên
cứu
(NC)
Mẫ
uNC
Số
(+)
%
M
ẫu NC
S
ố (+)
%
%
giảm
nhiễm

p
M
.
Quang
(1)
387

22
6
5
8,4
3
82
1
24
3
2,5
4
4,3
<0
,05
T
.
Phong
(2)
385

20
6
5

3,5
3
75
1
37
3
6,5
3
1,8
<0
,05
V
. Hùng
(3)
390

20
4
5
2,3
3
85
1
86
4
8,3
7
,6
>0
,05

p
>0,05 p
(1,2)
>0,05; p
(2,,3)
<0,05
p
(1,3)
< 0,05

Qua kết quả bảng 3 cho thấy:
Hai xã được can thiệp: tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ sau can thiệp đều thấp
hơn so với trước can thiệp: Minh Quang (32,5% so với 53,5% ), Tân Phong
(36,5% so với 58,4%) và so với xã Việt Hùng (xã chứng: 48,3%), sự khác biệt có
ý nghĩa, p<0,05.
Xã Minh Quang (can thiêp điều trị), tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ thấp hơn ở
xã Tân Phong (can thiêp GDSK): 32,5% so với 36,5%, nhưng sự khác biệt chưa có ý
nghĩa, p>0,05.
Như vậy, dù chỉ can thiệp đơn thuần bằng tuyên truyền GDSK (Tân Phong)
hoặc chỉ điều trị đơn thuần (Minh Quang), thì tỷ lệ nhiễm giun giảm tương đương
nhau, tuy nhiên phần trăm giảm được do điều trị cao hơn (44,3% và 31,8%). Điều
này phù hợp với lý thuyết trong y văn nói về giun kim “phòng bệnh chính là điều
trị”.
So với nghiên cứu của Phạm Thị Hiển
[6]
, sau khi điều trị và vệ sinh lớp học
cho trẻ em trường mầm non Đại học Y Thái Nguyên, phần trăm giảm nhiễm được
77,6%, của Kim BJ.
[2]
, tại hàn Quốc, sau điều trị phần trăm giảm được 83,8 và

67,7%, thì đều cao hơn trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi(44,3% và 31,8%),
có thể do tác giả kết hợp cả 2 biện pháp hoặc tiến hành diều trị thường xuyên trong
thời gian dài.
Bảng 4: Tỷ lệ người nuôi dạy trẻ nghe nói về giun kim trước và sau nghiên
cứu
X
Trước CT Sau CT
H
p
ã NC
M
ẫu NC
S
ố đúng

%
M
ẫu NC
S
ố đúng

%

i
ệu quả
CT (%)

M
. Quang


4
06
3
68
9
0,6
4
01
3
67
91
,5
0,
9
>0
,05
T
ân
phong
4
00
3
95
9
8,8
3
90
3
90
10

0,0
1,
2
>0
,05
V
iệt Hùng

4
01
3
84
9
5,8
3
96
3
91
98
,7
2,
9
>0
,05
p

>0,05 >0,05
Qua kết quả bảng 4 cho thấy: Tỷ lệ người nuôi dạy trẻ được nghe nói về
giun kim của cả 3 xã, sau can thiệp đều tăng lên so với trước can thiệp (90,6%;
98,8% và 95,8% so với 91,5%; 100% và 98,7%), tuy nhiên sự khác biệt, không có

ý nghĩa thống kê, p>0,05.
Thực ra số nghe nói về giun kim ở các xã trước can thiệp hầu như đã gần là
tuyệt đối rồi, nên tăng lên một vài người không có ý nghĩa gì.
So với nghiên cứu của Nông Thanh Sơn
[5]
, sự hiểu biết về giun kim của
các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại tỉnh Thái Nguyên, sau so với trước can thiệp cũng
không có sự thay đổi (57,6% và 51,8%), thì tương đương như trong kết quả nghiên
cứu của chúng tôi.
Bảng 5: Tỷ lệ nhận thức đúng về bệnh giun kim trước và sau nghiên cứu
1.
Đư
ờng lây
truyền
2. V
ị trí
ký sinh
3. Tác
hại
4. Bi
ện
pháp phòng
X
ã NC
Th
ời gia
n
NC
n
%

n
%
n
%
n
%
Trư
ớc CT
(N=368) (1)

2
72
7
3,9
1
60
4
3,5
2
98
8
1,0
2
57
6
9,8
M
Q
Sau
CT (N=367)

(2)
2
85
7
7,7
1
61
4
3,9
3
08
8
3,9
2
68
7
3,0
p >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
Trư
ớc
CT(N=39
5) (3)
2
62
6
6,3
2
01
5
0,9

3
12
7
9,0
2
79
7
0,6
Sa
u CT (N=
390)(4)
3
66
9
3,8
3
45
8
8,5
3
72
9
5,4
3
74
9
5,9
T
P
<0,05 <0,05 <0,05 <0,05

V
H
Trư
ớc
NC(N=38
4)(5)
2
57
6
6,9
1
80
4
6,9
3
08
8
0,2
2
41
6
2,8
Sau
NC
(N=391) (6)

2
77
7
0,8

2
01
5
1,4
3
24
8
2,9
2
64
6
7,5
>0,05 >0,05 >0,05 >0,05
p
p
(1,3,5)
>0,05
p
(2, 6)
>0,05
p
(4, 2 or 6)
<0,05
p
(1,3,5)
>0,05
p
(2, 6)
>0,05
p

(4, 2 or 6)
<0,05
p
(1,3,5)
>0,05
p
(2, 6)
>0,05
p
(4, 2 or 6)
<0,05
p
(1,3,5)

>0,05
p
(2, 6)
>0,05
p
(4, 2 or 6)
<0,05
1. Một trong các đường sau: ăn, uống và tự nhiễm.
2.

Một trong các vị trí: manh tràng, đại tràng.
3

. Một trong các tác hại: ngứa hậu môn, rối loạn tiêu hoá, ngủ hay giật
mình,
4. Đúng một trong các biện pháp: vệ sinh cá nhân (rửa hậu môn vào buổi

sáng, cắt móng tay ); vệ sinh môi trường (giặt quần áo, lau nhà ); tẩy giun định
kỳ.
Qua kết quả bảng 6 cho thấy:
- Trước can thiệp
Nhận thức đúng của người nuôi dạy trẻ của 3 xã về bệnh giun kim đều
tương đối cao và giữa các xã không có sự khác biệt, p>0,05.
So với nghiên cứu của Vũ Văn Thái
[9]
, nhận thức đúng của người chăm sóc
trẻ tại tại trường mầm non Sao Sáng - Hải Phòng về: đường lây nhiễm giun kim là
là 71,1%, tương đương, về tác hại bệnh giun kim là 23,04%, thì thấp hơn, về
phòng chống bệnh giun kim là 80,4%, thì cao hơn, so với kết quả trong nghiên cứu
của chúng tôi.
- Sau can thiệp
Xã Tân Phong (can thiệp GDSK), tỷ lệ nhận thức đúng của người nuôi dạy
trẻ, về bệnh giun kim, sau can thiệp tăng lên so với trước và so với 2 xã không
được can thiệp, như: đường lây nhiễm giun kim là 93,8% so với 66,3%; 77,7% và
70,8%; vị trí ký sinh là 88,5% so với 50,9%; 43,9% và 51,4%, tác hại bệnh giun
kim là 95,4% so với 79,0%; 83,9% và 82,9%, biện pháp phòng chống là 95,9% so
với 70,6%; 73,0% và 67,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,05.
Hai xã: Minh Quang và Việt Hùng (không được can thiệp GDSK): tỷ lệ
nhận thức đúng về bệnh giun kim, của người nuôi dạy trẻ trước, sau nghiên cứu và
giữa 2 xã đều không sự khác biệt, p>0,05.
So với nghiên cứu của Nông Thanh Sơn
[5]
, sự hiểu biết đúng về cách phòng bệnh
giun kim của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi, tại Thái Nguyên sau so với trước can thiệp
(88,7% và 85,3%), thì kết quả ở xã can thiệp của chúng tôi tăng rõ (95,9% so với 70,6%).
Bảng 6: Thực hành đúng về bệnh giun kim trước và sau nghiên cứu
1 2 3 4 5

ã NC

T
h
ời gian
NC
Q
Tr
ư
ớc CT
(n=368)
76 5,0 54 1,8 0 4,5 10 7,1 9 6,9
1 2 3 4 5
ã NC

T
h
ời gian
NC
Sa
u CT
(n
= 367)
86 7,9 69 6,0 07 9,2 14 8,3 42 3,2
p

>
0,05
>
0,05

>
0,05
>
0,05
<
0,05
P
Tr
ư
ớc CT
(n=395)
73 9,1 46 7,0 17 9,6 06 2,2 7 4,6
1 2 3 4 5
ã NC

T
h
ời gian
NC
Sa
u CT
(n
= 390)
75 6,2 85 3,1 83 2,6 65 7,9 02 1,8
p

<
0,05
<
0,05

<
0,05
<
0,05
<
0,05
Tr
ướcNC
(n=384)
72 0,8 34 4,9 03 6,8 92 0,0 14 9,7
H
Sa
u NC
(n=391)
93 4,9 55 9,6 11 8,4 03 1,9 34 4,3

×