Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

QUÁ TRÌNH TẠ ONƯỚC TIỂU ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.42 KB, 7 trang )

QUÁ TRÌNH TẠO NƯỚC TIỂU




Để có được nước tiểu, ở thận có ba quá trình: siêu lọc ở tiểu cầu thận, tái hấp thu và bài tiết
tích cực ở tiểu quản thận.

1. QUÁ TRÌNH SIÊU LỌC.
Quá trình siêu lọc thực hiện ở tiểu cầu thận. Qúa trình này là một quá trình thụ động, lọc nước
và các chất hoà tan trong nước từ huyết tương mao mạch cuộn mạch sang khoang bao
Bowman qua màng siêu lọc. Như vậy, muốn có dịch siêu lọc ( dịch lọc, nước tiểu đầu) , cần phải

có hai yếu tố cơ bản là màng siêu lọc và áp lực lọc.
Màng siêu lọc và áp lực lọc quyết định số lượng và thành phần các chất dịch siêu lọc.
1.1. Màng siêu lọc.
Màng siêu lọc còn gọi là màng tiểu cầu thận. Màng này ngăn cách giữa huyết tương mao mạch
cuộn mạch và dịch siêu lọc trong khoang bao Bowman. Màng có ba lớp: lớp tế bào nội mô mao
mạch, lớp màng nền và lớp tế bào biểu mô (lá trong) bao Bowman.
Lớp tế bào nội mô mao mạch láng trên lớp màng đáy. Trên tế bào này có những lỗ thủng gọi là
cửa sổ (fenestra). Đường kính cửa sổ này là 160 A
0
.
Lớp màng nền là một mạng lưới các sợi collagen và proteoglycan, có tạo ra các lỗ nhỏ các
đường kính 110 A
0
. Các lỗ này tích điện âm (do cấu trúc của proteoglycan).
Lớp tế bào biểu mô bao Bowman là một lớp tế bào biểu mô có chân (tua) mỗi tế bào có rất
nhiều chân bám lên màng nền. Giữa các tua nhỏ này có các khe nhỏ (slit-pore) có đường kính
khoảng 70-75 A
0


. Trên siêu cấu trúc, các lỗ này không phải thông trực tiếp mà trên bề mặt
chúng có một màng bịt siêu mỏng
Màng siêu lọc có rất nhiều lớp như vậy nhưng lại là một màng sinh học có tính thấm chọn lọc
rất cao. Kích thước phân tử và sự tích điện âm của các phân tử đã quyết định khả năng thấm
của nó qua màng siêu lọc:
Chất hoà tan Trọng lượng phân tử Khả năng thấm qua
Inulin 52000 1,000
Các protein phân tử nhỏ 30.000 0,500
Albumin 69.000 0,005
Inulin có trọng lượng phân tử nhỏ nên thấm qua 100%. Albumin có trọng lượng phân tử lớn, lại
tích điện âm nên chỉ thấm qua có 0,5%. Các tế bào máu, đương nhiên là không thể qua được
màng siêu lọc. Vì vậy trong dịch siêu lọc không có các tế bào máu, không có các hợp chất hữu
cơ có phân tử lượng cao trên 70.000. Các protein phân tử lượng thấp có thể thấm qua màng

siêu lọc, nhưng rất ít, vì vậy hàm lượng của nó trong dịch siêu lọc chỉ là 0,03%, có nghĩa là nó chỉ
bằng 1/240 hàm lượng protein huyết tương. Do có sự chênh lệch về hàm lượng protein giữa
huyết tương và dịch siêu lọc (chênh lệch diện tích âm) nên trong dịch siêu lọc sẽ có nồng độ ion
Cl
-
và HCO
3
-
cao hơn 5% so với huyết tương để giữ cân bằng điện tích âm (cân bằng Donnan).
Nhìn chung, trừ những thành phần đã mô tả trên đây không qua được màng siêu lọc, còn lại
gần như toàn bộ các chất trong huyết tương và dịch siêu lọc có nồng độ ngang nhau và dịch
siêu lọc có áp suất đẳng trương so với huyết tương.
1.2. Áp lực lọc: FP (filtration pressure).
Áp lực lọc là áp lực tác động lên huyết tương của mao mạch cuộn mạch, để đẩy nước và các
chất hoà tan trong nước sang khoang bao Bowman. Áp lực lọc được tạo nên bởi sự tổng hợp
của các áp lực máu mao mạch cuộn mạch , áp lực keo của huyết tương mao mạch cuộn mạch

và áp lực trong khoang bao Bowman.
Áp lực máu mao mạch cuộn mạch: GP (glomerular pressure). Mao mạch cuộn mạch có áp lực

máu rất cao, cao nhất trong các hệ thống mao mạch, thông thường là 60mm Hg. Đây là động
lực cơ bản nhất tạo ra áp lực lọc. Ap lực này đẩy nước và các chất hoà tan trong nước từ máu
mao mạch cuộn mạch vào khoang bao Bowman.
Áp lực keo của huyết tương mao mạch cuộn mạch: GCP (glomerular colloid osmotic pressure).
GCP được tạo nên nhờ các hợp chất hữu cơ phân tử lượng cao, đặc biệt là các protein huyết
tương. Các chất này có khả năng giữ nước lại cho huyết tương. GCP ở động mạch đến là 28mm
Hg (đây là áp lực keo của máu), ở động mạch đi là 36mm Hg (vì nước đã thoát vào khoang bao
Bowman) nên áp lực keo ở động mạch đi cao hơn áp lực keo ở động mạch đến. GCP trung bình
của máu mao mạch tiểu cầu thận là 32mm Hg.
Áp lực trong khoang bao Bowman: CP (capsular pressure). Đây là áp lực của dịch siêu lọc nằm
trong khoang bao Bowman tạo nên, còn gọi là áp lực trong bao. Áp lực này đẩy nước từ khoang
bao Bowman trở lại huyết tương mao mạch cuộn mạch. Áp lực này bằng 18mm Hg. Như vậy áp
lực keo của huyết tương mao mạch cuộn mạch và áp lực trong bao là ngược chiều với áp lực
máu mao mạch cuộn mạch.
Muốn có dịch siêu lọc thì FP phải lớn hơn 0, nghĩa là GP phải lớn hơn tổng GCP + CP và công
thức áp lực lọc là:
FP = GP-(GCP + CP)
= 60 - (32 +
18
)
= 10 (
mmHg)

Tổng lượng dịch siêu lọc trong 24 giờ là rất lớn, trung bình là 170-180l. Vì vậy việc nghiên cứu
đánh giá chức năng lọc của tiểu cầu thận là vô cùng quan trọng đối với các nhà lâm sàng đặc
biệt là các nhà gây mê-hồi sức.
Ngoài FP ra, để đánh giá chức năng lọc của tiểu cầu, người ta còn xác định một số chỉ số như

sau:
Phân số lọc của tiểu cầu:FF (filtration faction) là tỷ số (%) giữa dịch lọc (ml) và lượng huyết
tương qua thận (ml) trong một phút: bình thường tỷ số này bằng 19-21%.
GFR
FF= RPF
Hệ số lọc của tiểu cầu (filtration coefficient), ký hiệu là Kf. Hệ số lọc Kf là số ml dịch siêu lọc có
trong một phút, khi áp lực lọc là 1mm Hg, bình thường Kf=12,5ml/min. mmHg.
Mức lọc cầu thận: GFR (glomerular filtration rate). Mức lọc cầu thận còn gọi là lưu lượng lọc cầu

thận. GFR là số ml dịch siêu lọc có trong một phút. Nó được tính bằng tích của hệ số lọc với áp
lực lọc của tiểu cầu.
GFR = Kf x FP = 12,5 x 10 = 125ml/min.

Người ta cũng xác định GFR bằng hệ số thanh thải của inulin (hệ số thanh thải của inulin bằng
125ml/min).
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình siêu lọc.
- Cơ chế tự điều hoà mức lọc cầu thận của bộ máy cận tiểu cầu.
Cơ chế tự điều hoà mức lọc cầu thận là cơ chế điều hoà ngược ống thận-tiểu cầu
(tubuloglomerular feed bach mechanism). Đây là cơ chế điều hoà ngược vận mạch gây giãn
động mạch đến và co động mạch đi và đều là cơ chế điều hoà ngược âm tính.
Khi lưu lượng lọc cầu thận giảm thì tốc độ dòng dịch qua ống thận bị chậm lại. Hiện tượng n
ày
đã
làm cho tăng cường tái hấp thu ion Na
+
và Cl
-
ở nhánh lên quai Henle. Nước tiểu đi qua ống lượn
xa sẽ có nồng độ ion Na
+

và Cl
-
giảm hơn bình thường. Các tế bào macula densa nhận cảm được
sự giảm nồng độ ion Na
+
và Cl
-
trong dịch lòng ống thận khi các chất này qua chúng. Các tế bào
macula densa cho những tín hiệu mà thông qua nó đã làm giãn động mạch đến và kích
thích tế bào cận tiểu cầu giải phóng renin.
Khi giãn động mạch đến, lưu lượng tuần hoàn qua thận (RBF: renal blood flow) sẽ được tăng
lên, làm tăng áp lực lọc và như vậy sẽ tăng mức lọc cầu thận. Chức năng lọc của tiểu cầu thận
trở về bình thường.
Khi tế bào cận tiểu cầu giải phóng renin, nó sẽ tham gia vào một trong những khâu quan trọng

xúc tác cho quá trình chuyển angiotensinogen thành agiotensin II. Angiotensin II làm co động
mạch đi (vì tế bào cơ thành động mạch đi rất mẫn cảm với angiotensin II). Động mạch đi co, sẽ
làm cho áp lực máu trong mao mạch cuộn mạch tăng. Lưu lượng lọc cầu thận tăng lên và chức
năng lọc của tiểu cầu thận trở về bình thường.
Hai cơ chế giãn động mạch đến và co động mạch đi nhằm mục đích tự duy trì mức lọc cầu thận

hằng định, mặc dù huyết áp động mạch có thể thay đổi trong một phạm vi khá rộng từ 75-
160mm Hg.
- Cơ chế điều hoà của hệ thần kinh giao cảm.
Các tận cùng thần kinh giao cảm được phân bố tới tận tế bào cơ trơn thành động mạch đến và
động mạch đi của tiểu cầu thận. Các tế bào này cũng có những thụ thể nhận cảm đối với
các
chấ
t


trung gian hoá học của hệ thần kinh giao cảm. Vì vậy khi hệ thần kinh giao cảm bị hưng phấn hay
bị ức chế, các chất trung gian hoá học hệ thần kinh giao cảm tăng lên nhiều hay í
t tro
n
g
phản ứng
thích nghi của cơ thể đối với mọi biến đổi của môi trường, sẽ làm cho lưu lượng tuần hoàn qua
thận biến đổi (dòng máu thận biến đổi). Khi lưu lượng tuần hoàn qua thận thay đổi thì mức lọc
cầu thận cũng bị thay đổi theo và như vậy, chức năng lọc của tiểu cầu sẽ được duy trì ở trạng thái
sinh l
{
bình thường.
- Sự biến đổi áp lực lọc khi có sự biến đổi của huyết áp động mạch, áp lực keo của huyết tương
và áp lực trong bao (trong thận).
Trong tất cả các trường hợp có huyết áp động mạch giảm (shock, mất máu, suy tim v.v ) dẫn
đến giảm áp lực máu mao mạch cuộn mạch và làm giảm áp lực lọc. Áp lực lọc giảm thì lưu lượng
lọc cầu thận giảm. Khi huyết áp động mạch giảm xuống chỉ còn 40-50mm Hg thì vô niệu. Nhưng
không phải trường hợp tăng huyết áp nào cũng làm tăng áp lực lọc. Một số trường hợp tăng
huyết áp do co mạch, mặc dù huyết áp động mạch tăng rất cao, nhưng lưu lượng lọc cầu thận
lại rất giảm, vì có co động mạch đến, làm giảm dòng máu thận. Trái lại, có một vài trường hợp
có giảm huyết áp động mạch, nhưng do giãn động mạch đến, làm tăng lưu lượng tuần hoàn
thận, nên vẫn còn lưu lượng lọc cầu thận. Như vậy, huyết áp động mạch, dòng máu thận
có mối liên quan chặt chẽ với mức lọc cầu thận.
Khi bị bỏng, bị ra nhiều mồ hôi (do lao động trong môi trường nóng ẩm), bị nôn mửa hoặc ỉa
chảy, cơ thể bị mất rất nhiều nước, áp lực keo của máu tăng rất cao dẫn tới mức lọc cầu thận
giảm.
Bệnh nhân bị bệnh viêm ống thận, sỏi thận và niệu quản gây cản trở đường dẫn nước tiểu đã
làm tăng áp lực trong thận và làm giảm lưu lượng lọc cầu thận. Người ta nhận thấy rằng khi áp
lực trong thận lên đến 30-40mm Hg thì áp lực lọc bằng không và cơ thể sẽ vô niệu.
- Sự biến đổi cấu trúc màng siêu lọc.

Khi màng siêu lọc biến đổi về cấu trúc do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, chức năng bình
thường của màng siêu lọc không còn nữa. Tính thấm của màng siêu lọc tăng làm cho mức lọc
cầu thận tăng, tính thấm của màng siêu lọc giảm làm cho mức lọc cầu thận giảm. Đồng thời khi
tổn thương màng siêu lọc, dịch siêu lọc sẽ có hồng cầu, có protein làm cho nước tiểu có hồng
cầu (đái ra máu), có protein (đái ra protein).
2. QUÁ TRÌNH TÁI HẤP THU.

Quá trình tái hấp thu được thực hiện ở ống thận. Trong quá trình này toàn bộ các chất cần thiết
cho cơ thể đều được tái hấp thu trở lại máu. Có những chất được tái hấp thu hoàn toàn, có
những chất được tái hấp thu một phần hoặc phần lớn, có những chất không được tái hấp thu vì
đó là chất không cần thiết cho cơ thể. Tại ống thận có cả cơ chế vận chuyển tích cực và khuếch
tán thụ động.
Khi các chất từ lòng ống thận được hấp thu vào dịch gian bào.Từ dịch gian bào các chất (nước

và các chất hoà tan trong nước) vào máu theo sự chênh lệch áp lực thuỷ tĩnh và áp lực keo: tại
mao mạch ống thận có áp lực keo là 32mmHg, áp lực thuỷ tĩnh là 13mm Hg. Như vậy áp lực giữ
nước lại là 32 - 13 = 19 (mmHg). Tại dịch gian bào có áp lực keo là 15mm Hg, áp lực thuỷ
tĩnh là 6mmHg. Như vậy áp lực giữ nước là 15-6 =9 (mmHg). Thực tế sự chênh lệch áp lực giữa
máu mao mạch ống thận và dịch gian bào ống thận là 19 - 9 = 10 (mmHg). Nhờ có áp lực này mà
nước và các chất hoà tan trong nước được chuyển từ dịch kẽ vào máu mao tĩnh mạch ống thận,
rồi theo tuần hoàn chung đi khắp cơ thể.
Nếu có chức năng lọc mà không có tái hấp thu, con người không tồn tại được. Một ví dụ đơn
giản là nước được lọc trong 24 giờ là 170-180l, nhưng nước được đào thải chính thức theo
nước tiểu là 1,5 lít, gần như toàn bộ nước đã được tái hấp thu.
2.1. Tái hấp thu ở ống lượn gần.
Nhìn chung có khoảng 80% các chất và nước được tái hấp thu ở ống lượn gần. Vì vậy khi ra khỏi
ống lượn gần để vào quai Henle, nước tiểu vẫn đẳng trương mặc dù đã mất rất nhiều nước và
ion Na
+
.

- Tái hấp thu glucose.
Glucose được tái hấp thu hoàn toàn theo cơ chế vận chuyển tích cực ở ống lượn gần khi nồng
độ glucose máu thấp hơn ngưỡng glucose của thận. Khi nồng độ glucose máu cao hơn ngưỡng
glucose của thận (>1,7g/l) thì glucose không được tái hấp thu hoàn toàn, một phần glucose có
trong nước tiểu, mặc dù ống lượn gần đã có khả năng tái hấp thu glucose cao hơn khi nồng độ
glucose bình thường trong máu.
- Tái hấp thu HCO
3
-
.

HCO
3
-
được tái hấp thu chủ yếu ở ống lượn gần, có một phần ở ống lượn xa. Sự tái hấp thu HCO
3
-
theo cơ chế vận chuyển tích cực, có liên quan chặt chẽ với carboanhydrase (C.A), cũng có một
phần HCO
3
-
được tái hấp thu theo cơ chế khuếch tán thụ động.
Trong lòng ống lượn gần: HCO
3
-
+ H
+
® H
2
CO

3
® CO
2
+ H
2
O.

CO
2
khuếch tán vào trong tế bào ống lượn gần và CO
2
+ H
2
O
CA
HCO
3
-
+ H
+
. ion H
+
được vận
chuyển tích cực vào lòng ống lượn còn HCO
3
-
được chuyển vào dịch gian bào cùng với Na
+
. Như
vậy HCO

3
-
theo cơ chế vận chuyển tích cực không phải chính HCO
3
-
mà thông qua sự khuếch tán
của CO
2
được tạo thành từ HCO
3
-
.
Trong 24 giờ có 4000 mEq HCO
3
-
bị lọc vào dịch siêu lọc, nhưng chỉ có 1-2 mEq HCO
3
-
bị thải

ra ngoài. Có tới 99,9% HCO
3
-
đã được tái hấp thu.
- Tái hấp thu protein và acid amin.
Protein phân tử lượng nhỏ và acid amin được tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần theo cơ chế
vận chuyển tích cực. Protein gắn trên màng đỉnh và được chuyển vào trong tế bào theo cơ chế
"ẩm bào". Các protein trong "túi" bị các enzym thuỷ phân thành acid amin. Các aid amin này được
vận chuyển qua màng đáy vào dịch gian bào theo cơ chế khuếch tán có chất mang. Các acid amin
tự do trong lòng ống lượn được vận chuyển tích cực nhờ chất tải đặc hiệu qua màng đỉnh.

- Tái hấp thu K
+
, Na
+
và Cl
-
.

Ion K
+
được tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần theo cơ chế vận chuyển tích cực. Ion Na
+
được
tái hấp thu tới 65% theo cơ chế khuếch tán có gia tốc ở màng đỉnh, vận chuyển tích cực ở màng
đáy và màng bên. Ion Cl
-
được tái hấp thu theo gradient điện tích.
- Một số gốc sunfat, phosphat, nitrat được tái hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực.
- Tái hấp thu nước.
Nước được tái hấp thu là hậu quả của tái hấp thu các chất có lực thẩm thấu cao: Na
+
, K
+
, Cl
-
,
HCO
3
-
Nếu đưa các chất có lực thẩm thấu cao vào máu, sau đó nó được lọc qua tiểu cầu, chất

này ít được tái hấp thu, nó sẽ bị đào thải ra ngoài gây ra cơ chế lợi niệu thẩm thấu.
- Tái hấp thu urê.
Khi các ion được tái hấp thu, đặc biệt là các ion có tính thẩm thấu cao như Na
+
, làm cho nước
được tái hấp thu theo. Như vậy nồng độ urê trong ống lượn gần sẽ cao hơn nồng độ urê trong
dịch gian bào. Vì vậy urê khuếch tán vào dịch kẽ, rồi vào máu, theo gradient nồng độ tới 50-
60%.
2.2. Tái hấp thu ở quai Henle.
Quai Henle có hai nhánh: xuống và lên ngược chiều nhau. Sự cấu tạo của hai nhánh cũng khác
nhau. Nhánh xuống và phần đầu nhánh lên mỏng. Phần cuối nhánh lên dày. Phần đầu nhánh
lên có tính thấm Na
+
, urê, nhưng không thấm nước. Na
+
được tái hấp thu thụ động vào dịch
gian bào. Phần cuối nhánh lên không tái hấp thu thụ động Na
+
mà lại vận chuyển tích cực Na
+
.
Dịch gian bào quanh quai Henle rất ưu trương, nhất là vùng chóp quai Henle, đặc biệt là vùng
tuỷ thận. Nhờ hiện tượng trên mà nước được tái hấp thu thụ động ở nhánh xuống, vì nhánh
xuống có tính thấm cao đối với nước và urê, nhưng lại không cho Na
+
thấm qua.
Nước tiểu đi vào quai Henle vẫn là đẳng trương, nhưng càng đi xuống quai Henle, nó càng ưu
trương, ở chóp quai là ưu trương nhất. Chính sự ưu trương này làm cho Na
+
laị dễ tái hấp thu ở

phần lên. Ở nhánh lên Na
+
được tái hấp thu nên nước tiểu sẽ đẳng trương rồi nhược trương vì
Na
+
được vận chuyển tích cực.
Tới ống lượn xa nước tiểu rất nhược trương, mặc dù qua quai Henle nó đã bị tái hấp thu rất
nhiều nước. Khả năng tái hấp thu của quai Henle rất lớn tới 25% Na
+
và 15% nước.
2.3. Tái hấp thu ở ống lượn xa.
Ống lượn xa là phần cuối của nephron, do đó sự tái hấp thu ở đây phụ thuộc vào hai yếu tố cơ
bản thứ nhất là nhu cầu của cơ thể, thứ hai là số lượng và chất lượng nước tiểu qua nó.
- Tái hấp thu nước
Nước tiểu qua đây là nước tiểu nhược trương, trung bình cứ một phút có 20ml nước tiểu qua
ống lượn xa. Trong 20ml này, thực tế chỉ cần 2ml đã đủ để hoà tan vật chất có trong nước tiểu.
Số còn lại 18ml không tham gia vào hoà tan vật chất, phần nước này được gọi là nước "không
tham gia thẩm thấu". Phần nước này cần được tái hấp thu chủ yếu ở ống lượn xa và một phần ở
ống góp. Tái hấp thu nước theo cả hai cơ chế chủ động và thụ động, nhưng chủ yếu là vận
chuyển tích cực. Sự vận chuyển nước theo cơ chế chủ động nhờ tác dụng của ADH. ADH là
hormon của hypothalamus, được dự trữ ở thuz sau tuyến yên và vào máu theo nhu cầu của cơ
thể. ADH tác động lên tế bào ống lượn xa và ống góp để tăng cường tái hấp thu nước. Cơ chế
của ADH là thông qua AMP vòng hoạt hoá enzym hyaluronidase trong phản ứng thuỷ phân acid

hyaluronic để mở rộng lỗ màng trong quá trình vận chuyển nước. Nhờ cơ chế tái hấp thu nước
nên nước tiểu qua ống lượn xa và ống góp đã được cô đặc lại.
- Tái hấp thu Na
+
.
Na

+
được tái hấp thu ở màng đỉnh theo cơ chế khuếch tán có chất mang và theo cơ chế vận
chuyển tích cực ở màng bên và màng đáy. Sự tái hấp thu Na
+
theo cơ chế vận chuyển tích cực là
nhờ tác dụng của aldosteron. Aldosteron là hormon của tuyến vỏ thượng thận (lớp cầu sản
xuất) có tác dụng là tác động lên tế bào ống lượn xa để làm tăng cường tái hấp thu Na
+
. Cơ chế
tác dụng của aldosteron là lên sự tổng hợp protein của tế bào ống lượn thông qua hoạt hoá hệ
gen. Protein vừa được tổng hợp là protein tải và protein enzym tham gia vào vận chuyển tích
cực Na
+
.
- Tái hấp thu HCO
3
-
.

Sự tái hấp thu HCO
3
-
theo cơ chế vận chuyển thụ động và tích cực như ở ống lượn gần. Song ở
đây sự vận chuyển này có mối quan hệ chặt chẽ với sự đải thải ion H
+
.
3. QUÁ TRÌNH BÀI TIẾT TÍCH CỰC.
Khi so sánh hàm lượng các chất có trong dịch siêu lọc và trong nước tiểu chính thức chúng ta
nhận thấy có rất nhiều chất có mặt trong nước tiểu chính thức nhưng lại không có trong dịch
siêu lọc.

Một số chất có nồng độ rất thấp trong dịch siêu lọc, nhưng trong nước tiểu chính thức lại có
hàm lượng rất cao. Điều này chỉ có thể giải thích là ống thận, trong quá trình tạo thành nước
tiểu, đã vận chuyển một số chất từ máu vào lòng ống thận, hoặc tế bào ống thận sản xuất một
số chất để chuyển vào nước tiểu để thải ra ngoài. Chức năng bài tiết tích cực được thực hiện
chủ yếu ở ống lượn xa và có một phần ở ống lượn gần.
3.1. Sự bài tiết H
+
.

Quá trình bài tiết H
+
là một quá trình có liên quan tới nồng độ CO
2
máu. CO
2
khuếch tán qua
màng tế bào ống lượn, trong tế bào có phản ứng CO
2
+ H
2
O H
2
CO
3
® H
+
+ HCO
3
-
. H

+
được vận chuyển qua màng tế bào vào lòng ống lượn. Ion H
+
được bài tiết, đồng thời Na
+
được
tái hấp thu. H
+
trong ống lượn sẽ được kết hợp với ion phosphat, với NH
3
, với các gốc acid hữu
cơ yếu hoặc với các gốc khác để thải ra ngoài. H
+
còn kết hợp với HCO
3
-
để tạo ra H
2
CO
3
® CO
2
+
H
2
O. CO
2
lại vận chuyển vào trong tế bào để tạo ra HCO
3
-

hấp thu vào máu.
3.2. Sự tổng hợp và bài tiết NH
3
.
Trong tế bào ống lượn có quá trình khử amin của glutamin (chiếm tới 60%) để tạo ra NH
3
. NH
3
dễ dàng khuếch tán qua màng tế bào vào lòng ống lượn. ở đây NH
3
được kết hợp với H
+
tạo
thành NH
4
+
để thải ra ngoài.
3.3. Sự bài tiết K
+
.
Ion K
+
bị tái hấp thu hoàn toàn ở ống lượn gần. Nó được bài tiết ra ở ống lượn xa theo cơ chế
vận chuyển tích cực nhờ tác dụng của aldosteron. Aldosteron có tác dụng đồng thời tái hấp thu
Na
+
và đào thải K
+
.
3.4. Sự bài tiết các chất khác.

Tế bào ống lượn xa còn bài tiết phenol, acid hippuric, P.A.H, creatinin, các acid mạnh, các sản
phẩm của thuốc đưa từ ngoài vào, các chất độc lạ khác do quá trình chuyển hoá tạo ra hoặc
xâm nhập từ bên ngoài bằng nhiều đường khác nhau.
Ba quá trình siêu lọc, tái hấp thu và bài tiết tích cực nhằm mục đích tạo ra nước tiểu. Nhưng số

lượng và chất lượng nước tiểu như thế nào lại là hậu quả của quá trình điều hoà cân bằng nội
môi của thận.

×