Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáy
chuyên ngành Thông tin - Văn hoá quốc tế nói riêng và Khoa quan hệ Quốc tế
nói chung đã tận tình giảng dạy - truyền đạt, rèn luyện và bồi dưỡng tri thức cho
em trong quá trình học tập tại trường Đại học Dân lập Đông Đô.
Đặc biệt em gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc nhất tới cán bộ hướng dẫn
thầy Từ Sơn, người trực tiếp tận tình giúp đỡ em hoàn thành tiểu luận thực tập
này.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Như chúng ta đã biết xung đột ở Trung đông là một trong những điểm
nóng hiện nay đã và đang được báo chí quốc tế đề cập đến rất nhiều, không
riêng gì báo chí quốc tế mà ngay tại Việt Nam thì những thông tin về diễn biến
hoà bình tại Trung Đông cũng luôn là một đề tài nóng hổi, bất kì những diễn biết
dù nhỏ nhất cũng được báo chí trong nước đăng tải, tin tức thường được lấy từ
các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới như Reuter, AP, BBC… Điều đó cho
thấy với bất cứ một sự kiện nào nổi bật thì báo chí luôn là phương tiện hữu hiệu
để phản ánh, và qua đó các độc giả có thể nắm bắt một cách cập nhật các thông
tin, đồng thời có cái nhìn sâu hơn về một vấn đề thông qua các bài phân tích
bình luận cũng được đăng tải trên các báo.
- Qua việc báo chí trong và ngoài nước phản ánh về vấn đề Trung đông
chúng ta có thể thấy tính phức tạp của tình hình qua mối quan hệ giữa nhà nước
Do Thái và các quốc gia ả Rập, mối quan hệ giữa những nhà cầm quyền, sự can
thiệp của các nước lớn… Đặc biệt qua nghiên cứu vấn đề Trung Đông chúng ta
có thể hiểu được chính sách bá quyền của Mĩ với những đặc quyền, đặc lợi của
nó không dễ gì từ bỏ đối với vùng đất Trung đông màu mỡ này. Mặt khác, qua
việc phản ánh đó chúng ta cũng thấy được nguyện vọng hòa bình của các dân
tộc ở phương Đông nói chung cũng như những người dân ở Palestine nói riêng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trung Đông là vùng đất bấn ổn và luôn xảy ra những xung đột, tình hình
bất ổn và xung đột được báo chí phản ánh rất nhiều trong giai đoạn hiện nay. Để
có cái nhìn bao quát và sâu sắc hơn em chọn đề tài: "Tìm hiểu và quan điểm bất
hòa của Thủ tướng A.Sharôn và Tổng thống YArafát"
3. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài hấp dẫn nó có tác động rất lớn trong quan hệ quốc tế.
Chính vì vậy mà được báo chí Việt Nam và nước ngoài rất chú trọng quan tâm.
Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn của một tiểu luận em không thể tiến hành
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khảo sát trên tất cả các tờ báo mà chỉ khảo sát trên một số tờ báo quen thuộc sau:
"Báo Nhân dân, báo Hà Nội" mới tuần "báo quốc tế", "tạp chí Cộng sản", "báo
điện tử" từ năm 2001-2002.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cách thức tiến hành nghiên cứu tiểu luận thực tập tốt nghiệp chủ yếu là
sưu tầm, khảo sát, thống kê, so sánh phân loại, phân tích tổng hợp để xác lập
tiểu luận, luận cứ làm nổi bật đặc trưng của từng tờ báo trong việc thông tin về
"Quan điểm bất hòa giữa Thủ tướng A.Sharôn và Tổng thống YArafát" trong
thời gian từ 2001 đến nay.
5. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài: "Quan điểm bất hòa giữa Thủ tướng A.Sharôn và Tổng
thống YArafát". Em muốn đi sâu tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm quý báu của các
thế hệ nhà báo đi trước đồng thời nghiên cứu về mặt nội dung, hình thức thể
hiện của báo chí Việt Nam, những ưu, nhược điểm trong việc chuyển tải thông
tin về vấn đề này. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa về
chất lượng báo chí.
6. Kết cấu của tiểu luận
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG MỘT
MỐI MÂU THUẪN BẤT HÒA GIỮA NHÀ NƯỚC DO THÁI VÀ
PALESTINE QUA THÁI ĐỘ CỦA THỦ TƯỚNG A.SHARON VÀ TỔNG
THỐNG Y. ARAFAT THÔNG QUA SỰ PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ
I. LỊCH SỬ TỔNG QUAN VỀ SỰ XUNG ĐỘT GIỮA NHÀ NƯỚC
DO THÁI VÀ CHÍNH QUYỀN PALESTINE
1. Lịch sử vấn đề
Từ lâu trong kinh Coran của đạo Hồi và trong kinh thánh của đạo Cơ đốc
đều coi Jerusalem là thánh địa của mình. Khi người Ba Tư, Makêđôn, La Mã
xâm nhập, Palestine trở thành mảnh đất bị nhiều nước xâu xé. Rốt cuộc, người
Arập chiếm đất Palestine còn người Do Thái trở thành một dân tộc lang thang
không có quốc gia. Cuối thế kỷ 19, người Do Thái có ý đính phục quốc, về sau
phát triển thành chủ nghĩa phục quốc. Chính điều đó là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng xung đột như hiện nay, mà thực chất là cuộc chiến tranh giành đất vì
những giáo lý trong các bộ kinh của người Arập cũng như người Do Thái.
2. Các cuộc chiến tranh ở Trung Đông
Từ lâu trong lịch sử với vị thế địa – chiến lược quan trọng và rất nhạy
cảm, lại tiềm ẩn những mâu thuẫn sắc tộc hoà quyện với tôn giáo, Trung Đông
luôn vần vũ trong những biến cố nóng bỏng của các cuộc giành giật quyền lực
quyết liệt giữa các thế lực ở bên trong và bên ngoài khu vực. Bước vào thời hiện
đại, cùng với những mâu thuẫn mang tính lịch sử, nguồn tài nguyên dầu lửa
khổng lồ của khu vực với trữ lượng ước khoảng 90 tỉ tấn (tổng trữ lượng dầu lửa
của toàn thế giới là 136 tỉ tấn) không chỉ một lần trở thành vũ khí lợi hại của các
nước Ả-rập ở đây trong quan hệ quốc tế. Mà còn đồng thời đưa Trung Đông vào
tâm điểm của không ít những toan tính chiến lược địa – chính trị của các thế lực
nước lớn tham vọng giành quyền lực toàn cầu. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản nhất làm bùng lên cuộc chiến tranh khu vực trong thời kỳ chiến
tranh lạnh, giữa một bên là các nước Ả-rập và bên kia là I-xra-en, sau khi nhà
nước Do Thái được thành lập vào tháng 5-1948 theo Nghị quyết 181 của Liên
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hợp quốc.
2.1. Cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái năm 1948
Theo Nghị quyết 181 (II) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 29-11-
1947 chia vùng đất Pa-le-xtin thành hai nhà nước: nhà nước của người Do Thái
và nhà nước của người Ả-rập. Sự chia tách này đã gây ra những xáo trộn nhất
định về di dân: người Ả-rập dời về vùng đất Pa-le-xtin và người Do Thái từ các
nước châu Âu trở về quốc gia Do Thái mới. Mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chủ
quyền giữa người Ả-rập và người Do Thái cũng phát sinh từ đó. Ngay sau khi
quốc gia mới I-xra-en được thành lập (14-5-1948), cuộc chiến tranh Ả-rập - I-
xra-en (1948-1949) bùng nổ. Trong cuộc chiến này, I-xra-en đã chiếm thêm
nhiều vùng đất Pa-le-xtin. Năm 1949, lần lượt các hiệp định đình chiến giữa các
nước Ai Cập, Xi-ri, Li-băng, Gióoc-đa-ni và I-xra-en đã được kí kết, theo đó,
đường biên giới lãnh thổ ấn định theo đường mà quân đội I-xra-en chiếm đóng.
Thành phố cổ Giê-ru-xa-lem vốn được đặt dưới sự quản lý của Liên hợp quốc
theo Nghị quyết 181 (II), đã bị chia đôi: phần phía đông thuộc về Gióoc-đa-ni,
phần tây thuộc về I-xra-en. Khu Ga-za và bờ Tây sông Gióoc-đan của người Ả-
rập Pa-le-xtin cuối cùng lại bị nhập vào Gióoc-đa-ni. Người Pa-le-xtin thực sự
không có chỗ nương thân. Gần 1 triệu người Ả-rập phải sống lưu vong "Trung
Đông hòa bình trắc trở" (tạp chí Cộng sản số 536 ngày 2/1/1998).
2.2. Cuộc chiến kênh đào Su- ê năm 1956
Năm 1956, 3 trong số những đặc điểm chi phối quan hệ quốc tế thế kỉ 20
tập trung trong một cuộc đụng độ ngắn ở Trung Đông: chủ nghĩa quốc gia, chiến
tranh lạnh và mối hằn thù Ả-rập-I-xra-en. Xung đột được khơi nguồn từ quyết
định quốc hữu hoá kênh đào Suez của Tổng thống Ai- cập G.Abdel-Nasser,
tháng 7/1956.
Suez dài trên 150 km, nối liền Địa Trung Hải và Hồng Hải, là con đường
biển quan trọng đặc biệt về mặt giao thương và cả về quân sự. Anh và Pháp, hai
cổ đông lớn trong công ty xây dựng kênh đào, chịu thiệt thòi nhiều nhất khi Ai
Cập giành lại quyền kiểm soát Suez. Một kế hoạch can thiệp lật đổ tổng thống
Nasser lập tức được vạch ra. Tel Aviv, tình định của Cairo cũng được kéo vao
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cuộc. I-xra-en có nhiều lí do để tham gia cuộc chiến 1956. Những năm đầu thập
kỷ 50, quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các láng giềng A-rập càng ngày càng
căng thẳng. Sau khi I-xra-en lập quốc, hơn 900.000 người tị nạn đã tập trung ở
biên giới của nước này, đòi quyền đối với vùng đất Pa-le-xtin. Đây chính là cơ
sở hình thành các nhóm du kích Hồi giáo. Những hoạt động nổi dậy khiến người
I-xra-en không có lúc nào được yên ổn. Quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các
nước láng giềng Gióoc-đa-ni, Ai Cập, đặc biệt là Si-ri, mỗi lúc một tồi tệ hơn.
Chạy đua vũ trang bắt đầu ở Trung Đông với việc khối A-rập ra sức mua quân
bị từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa, và I-xra-en không ngừng nhận
viện trợ quân sự của Mỹ.
Năm 1956, cùng với việc quốc hữu hoá kênh đảo, tổng thống Nasser còn
lệnh cho hải quân phong toả eo Tiran – con đường thông ra Hồng Hải duy nhất
của I-xra-en. Mặt khác, một lực lượng lớn quân đội Ai Cập cũng đồn trú trên
bán đào Si-nai, ngay sát nách quốc gia Do Thái. Với I-xra-en, căn cứ quân sự
này như cây giáo thỉnh thoảng lại thúc vào mạng sườn họ đau điếng, và Tel
Aviv rất mong có cơ hội đập tan nó. Cơ hội đó đến cùng với kế hoạch uy hiếp
Cai-rô do Luân đôn chủ xướng.
Ngày 29/10/1956, I-xra-en bất ngờ tấn công quân Ai Cập trên khắp các
mặt trận. Sau 5 ngày, quân Do Thái đã chiếm gần hết bán đảo Si-nai, dải Ga-za
và các mục tiêu khác. Pháp và Anh cũng nhảy vào can thiệp. Cả Liên Xô và Mỹ
đều ra sức gây sức ép để buộc chiến sự ngừng lại. Trước sức ép của Washington,
Luân đôn và Pa-ri đành chịu thúc thủ. Mỹ cũng buộc Tel Aviv trả lại dải Ga-da
cho Ai Cập. Đồng thời, lực lượng khẩn cấp của Liên Hợp Quốc được gửi tới để
đảm bảo hoà bình.
Cuộc xung đột kênh đào Suez năm 1956 là một thời điểm bản lề ở Trung
Đông, nó đánh dấu sự suy giảm ảnh hưởng trong khu vực của hai nước Anh và
Pháp, đồng thời bồi thêm cú đấm mạnh vào hy vọng vốn đã xa vời cho một giải
pháp hoà bình ở Trung Đông. Mối hằn thù A-rập-I-xra-en càng thêm sâu sắc.
Chủ nghĩa quốc gia cũng có cơ hội lan mạnh trên toàn khu vực. Sau xung đột ,
Ai Cập trở nên thân thiết với Liên Xô hơn. Vai trò to lớn của Mỹ cũng được
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thừa nhận lần đâu tiên. Điều này tạo cơ sở cho học thuyết Ai-xen-hao, trong đó
Nhà trắng quyết tâm trợ giúp bất kỳ nước Trung Đông nào “bị cộng sản đe doạ”.
(báo điện tử nguồn http\\www vnepress.net).
2.3. Cuộc chiến sáu ngày
8h sáng ngày 5/6/1967, hầu như toàn bộ máy bay thuộc không lực I-xra-
en nhất loạt cất cánh, hướng về các phi trương của Ai Cập. Chỉ trong vòng 80
phút, 4 sân bay và một loạt căn cứ không quân trên bờ tây kênh đào Suez đã bị
san phẳng. Sự kiện đó mở đầu cho kỳ tích 6 ngày của I-xra-en. Trong 6 ngày
quân Do Thái đã làm cỏ bán đảo Si-nai(Ai Cập), chiếm dải Ga-da, khu bờ Tây
sông Gióoc-đan, trong đó có thành cổ Giê-ru-xa-lem, cao nguyên Gô-lan. Chiến
dịch phòng ngừa chớp nhoáng (pre-emptive action) của I-xra-en kết thúc thắng
lợi.
Trên thực tế, Tel Aviv đã đi một nước cờ mạo hiểm khi chủ động tấn
công các láng giềng Ả-rập. Làm như vậy, I-xra-en sẽ mang tiếng gây hấn trước,
phải một lục thọ địch ở cả 3 phía (sau lưng là biển) – chống lại liên minh Ai
Cập, Gióoc-đa-ni và Si-ri. Mặt khác I-xra-en đứng trước nguy cơ bị cô lập hoàn
toàn nếu khiêu chiến. Liên Xô và các nước thuộc khối cộng sản đã hứa đứng về
phe A-rập. Mỹ thì đang mắc kẹt ở Việt Nam nên không muốn can thiệp vào
Trung Đông. Tuy nhiên, rút cục thì Mỹ và Nga đều không muốn can thiệp vào
chảo lửa Trung Đông. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến dịch quân
sự năm 1968 của I-xra-en.
Sau năm 1967, uy tín của Liên Xô giảm ở Trung Đông do nước này
không can thiệp để cứu Ai Cập. Còn Mỹ và phương Tây giành thắng lợi lớn về
tinh thần. Một loạt các nước A-rập quyết định ngả hẳn sang phe Washington
(tiêu biểu la Gióoc-đa-ni) (Báo điện tử http\\www vnepress.net).
2.4. Cuộc chiến Yom Kipur năm 1973
Chiều 6/10/1973, Liên quân A-rập đẫ bất ngờ tấn công I-xra-en vào đúng
ngày lễ Sám hối (Yom Kippur) của người Do Thái. Do bị bất ngờ nên I-xra-en
bị dồn vào ngõ cụt, vận mệnh của quốc gia Do Thái này như ngàn cân treo sợi
tóc. Trong hai ngày đầu, I-xra-en thua liểng xiểng. Quân Syria chiếm được cao
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên Golan và đánh thẳng vào những khu vực đông dân cư Do Thái gần biên
giới. Trên biển, Damascus cũng làm Tel Aviv bất ngờ bằng đội tàu phóng tên
lửa do Nga trang bị. Quân Syria tiến nhanh tới biển Galilee, uy hiếp các khu
định cư miền bắc, gây nên một nỗi hoảng loạn mà dân chúng I-xra-en không bao
giờ quên được. Tối mồng 7/10, gió bắt đầu đổi chiều ở phía bắc. Quân Do Thái
xốc lại đội hình và tổ chức phản công, đánh bật lực lượng Syria khỏi cao nguyên
Golan. Những ngày sau đó, I-xra-en tiến không ngừng tới sát Damascus, thủ đô
nước láng giềng.
Xung đột ở biên giới phía nam kéo dài hơn. Phải tới giữa tháng 10, Tel
Aviv mới giành lại được thế thượng phong. Lính của tướng Moshe Dayan đốt
sạch thiết giáp của đối phương, vượt kênh, chặn đường tiếp tế của quân Ai Cập.
Cairo bị dồn vào chân tường.
Liên Xô và Mỹ vội vàng can thiệp. Hai nước lớn lập cầu hàng không tiếp
viện cho “gà nhà”. Mat-xcơ-va đe doạ sẽ gửi quân tới Trung Đông. Oa-sinh-tơn,
muốn giữ thế hoà hoãn với khối XHCN, gây sức ép buộc Tel Aviv dừng tay.
Hội đồng Bảo an LHQ ra Nghị quyết 338 yêu cầu các bên lập tức ngừng xung
đột. Tổng kết lại, I-xra-en bị thua thiệt nhiều. Sau chiến tranh nội bộ Tel Aviv bị
xáo trộn. Phe Ả-rập được một dịp “khoe” sức mạnh. Qua xung đột Ai Cập giành
lại một phần bán đảo Si-nai. Còn Si-ri đòi được một góc cao nguyên Gô-lan.
Liên Xô và Mỹ cũng có cơ hội chứng tỏ ảnh hưởng của mình trong vùng. Có lẽ
một trong những hệ quả quan trọng nhất của chiến tranh 1973 là việc các nước
A-rập tìm ra một vũ khí mới để gây sức ép với phương Tây. Việc cấm vận dầu
mỏ đối với các nước ủng hộ I-xra-en kéo dài suốt từ tháng 10/1973 tới tháng
3/1974 đã khiến phe Mỹ gặp nhiều khó khăn.
2.5. Cuộc chiến 1982
Năm 1982, trong cuộc chiến tranh lần thứ 5, I-xra-en tấn công Li-băng và
chiếm Nam Li-băng. Vùng Nam Li-băng bị chiếm đóng từ đó và trở thành
“vùng an ninh” hay còn gọi là “vùng đệm tự tuyên bố” của I-xra-en.
3. Thực trạng hiện nay
Như vậy, từ một đất nước với diện tích ban đầu là 14.100 km2, sau 5 thập
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
niên chiến tranh và xung đột, I-xra-en đã chiếm thêm gấp nhiều lần diện tích của
họ. Riêng cuộc chiến 1967, I-xra-en chiếm được 6,5 vạn km2. Cho đến nay, I-
xra-en mới chỉ trả lại vùng bán đảo Si-nai cho Ai Cập; trao quyền tự trị tạm thời
cho người Pa-le-xtin ở dải Ga-da và thành phố Giê-ri-cô ở bờ Tây sông Gióoc-
đan (Hiệp định Ô-xlô I, 1993); từng bước rút quân và chuyển giao 80% thành
phố Hê-brôn (thành phố cuối cùng trong bảy thành phố ở bờ Tây sông Gióoc-
đan) cho chính quyền tự trị Pa-le-xtin (Hiệp định Ô-xlô II, 1997). Trong khi đó
các vấn đề gây bất đồng sâu sắc như về quy chế thành phố Giê-ru-xa-lem, về
chủ quyền cao nguyên Gô-lan, về tiến độ rút quân I-xra-en tại bờ Tây sông
Gióoc-đan… vẫn còn tồn tại. (tạp chí Cộng sản ngày 2/1/1998).
Thực chất và cốt lõi nhất của cuộc xung đột giữa các nước ả-rập và I-xra-
en là vấn đề Pa-le-xtin cùng những tranh chấp lãnh thổ giữa hai bên. Cuộc xung
đột khu vực kéo dài do nhiều mâu thuẫn đan xen đã biến Trung Đông trở thành
một điểm nóng gay gắt khó tháo gỡ, vượt tầm khu vực, khiến cả cộng đồng quốc
tế phải quan tâm và lo ngại. Được sự hậu thuẫn, dung túng của Mỹ, nên dù bị cô
lập giữa thế giới A-rập rộng lớn, đông dân, nhiều tiền của, nhưng I-xra-en vẫn
luôn ở thế lấn át, thường sử dụng vũ lực gây hấn chiếm thêm đất đai của người
Pa-le-xtin và của các nước A-rập láng giềng. Tĩnh cố kết lỏng lẻo và sự hạn chế
của khối đoàn kết A-rập cũng phần nào làm gia tăng hành động hiếu chiến của
một số thế lực cực hữu I-xra-en. Tuy nhiên, khi chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc
đối đầu toàn cầu Mỹ-Xô bị triệt tiêu, thì cũng là lúc cục diện ở Trung Đông thay
đổi sâu sắc, cơ bản. Mỹ điều chỉnh chính sách đối với khu vực nhằm phục vụ
chiến lược toàn cầu của họ sau chiến tranh lạnh. Thay vì chỉ chú trọng I-xra-en,
Mỹ cải thiện quan hệ với thế giới A-rập, hoà hoãn mâu thuẫn giữa các nước A-
rập với I-xra-en, tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột ở Trung Đông theo kịch
bản của Mỹ. Mặt khác, các nước A-rập cũng muốn cải thiện quan hệ với Mỹ
xuất phát từ tính toán riêng của mỗi nước. I-xra-en cũng không thể thờ ơ với
việc củng cố quan hệ với Mỹ, khi vị trí của I-xra-en là đồng minh chiến lước
duy nhất của Mỹ tại khu vực đang lung lay. Trong khung cảnh ấy, xuất hiện
những tiền đề thực tế cho việc vãn hồi hoà bình Trung Đông sau gần nửa thế kỹ
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liên miên xung đột. Tuy nhiên, những mâu thuẫn, bất đồng sâu sắc trong quá
trình thực hiện các thoả thuận, khiến hồ sơ Trung Đông vẫn còn nổi cộm và bế
tắc trên nhiều vấn đề, như biên giới – lãnh thổ, các vùng “đất Thánh”, các khu
định cư của người Do Thái, quy chế sử dụng Giê-ru-xa-lem, hồi hương người tị
nạn và nhà nước Pa-le-xtin… (tạp chí Cộng sản 3/2002).
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề hoà bình ở Trung
Đông
Trong văn kiện Đại hội Đảng IX về đường lối đối ngoại có nêu
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ và cùng nhân
dân thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua
vũ trang; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ công bằng.
- Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng
sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập
dân tộc, với các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Về tình hình xung đột mới ở Trung Đông, phát ngôn viên Bộ ngoại giao
Việt nam Bà Phan Thuý Thanh ngày…..nêu: “ Việt nam cực lực lên án hành
động xâm lược của chính quyền I-xra-en đối Pa-le-xtin….việc sử dụng vũ lực
chỉ làm cho tình hình trở nên xấu hơn. Việt Nam kêu gọi các bên hữu quan từ bỏ
vũ lực, quay trở lại bàn đàm phán dựa trên những Nghị quyết của Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc, đăc biệt là nghị quyết 242 và 338, và dựa trên kế hoạch “đổi
đất lấy hoà bình”.
II. Báo chí Việt Nam phản ánh mối xung đột giữa Thủ tướng A.
Sharon và Tổng thống Y. Arafat xung quanh vấn đề hoà bình ở Trung
Đông
1. Quan điểm của các thủ tướng trước thời ông A. Sharôn
Tiến trình hoà bình ở Trung Đông thực sự được khởi động từ Hội nghị
hòa bình diễn ra ở Ma-đrít (Tây Ban Nha) tháng 10-1991, với công thức “đổi
đất lấy hoà bình”. Chính sách “đổi đất lấy hoà bình” được Chính phủ I-xra-en
trước đây, do cố thủ tướng I-xra-en Y. Ra-bin đứng đầu, tán thành và chấp nhận
làm cơ sở thương lượng cho các hiệp định sau này. Hiệp định “Ga-da và Giê-ri-
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cô” (9-1993) được coi là hiệp định đặt nền móng đầu tiên cho việc đi tới giải
pháp hoà bình Trung Đông sau hàng thập kỷ xung đột đầy máu và nước mắt.
“Chân trời hoà bình” tưởng đã “rộng mở” như tuyên bố lạc quan của Thủ tướng
Y. Ra-bin, nhưng giờ đây có lúc lại đầy mây u ám.
Tiến trình hoà bình Trung Đông bị khựng lại kể từ khi Chính phủ của Thủ
tướng I-xra-en B. Nê-ta-ni-a-hu lên cầm quyền (6-1996). Trước và sau khi nhậm
chức, ông Nê-ta-ni-a-hu đã tuyên bố: không chấp nhận nguyên tắc “đổi đất lấy
hoà bình”, không công nhận nhà nước Pa-le-xtin độc lập, không đàm phán về
quy chế thành phố Giê-ru-xa-lem, không rút quân khỏi cao nguyên Gô-lan và
đòi xem xét lại cac điều khoản đã được ký kết từ trước giữa Chủ tịch PLO Y. A
rafat và cố thủ tướng Y. Ra-bin. Nền tảng hoà bình lại đụng phải nhiều thách
thức trước sự điều chỉnh chính sách và sự thay đổi thái độ, lập trường của chính
phủ B. Nê-ta-ni-a-hu đối với các nước A-rập. (tạp chí Cộng sản 1/1998).
Tới thời của thủ tướng E. Ba-rắc những tưởng tiến trình hoà bình ở Trung
đông sẽ trở nên sáng sủa hơn, vì trước và sau khi lên nhận chức ông đều hứa sẽ
làm hết mình để đem lại hoà bình cho vùng đất này. Nhưng những chính sách
dùng dằng nửa vời của ông không những không giải quyết được vấn đề mà còn
làm cho tình hình trở nên bế tắc, bạo lực xảy ra liên miên, cử tri mất lòng tin,
chính điều đó đã có lợi cho ông A.Sharon một người theo chủ nghĩa quân phiệt,
được coi là người có thái độ cứng rắn lên nắm quyền.
2. Chính sách bạo lực của ông A. Sharôn
Giống như hai vị tư lệnh già nua gắng sức chiến đấu vì đất đai, tịm lại
vinh quang, Thủ tướng Ariel Sharôn và Chủ tích Nhà nước Palestine Yaser
Arafat đang thực sự đối đầu vì một mối thù truyền kiếp.
Việc I-xra-en xiết chặt vòng vây, giam lỏng ông Arafat ở khu Bờ Tây chỉ
là sự kiện mới nhất trong cuộc đấu trí kéo dài hàng thập kỷ giữa hai “cụ ông”
nay đã ở độ tuổi 70. Mọi bất đồng và căng thẳng nảy sinh từ năm 1982, khi ông
Sharôn, thời đó là một vị tướng, bộ trưởng Quốc phòng, đem quân đáng đuổi
người Palestin khỏi đất Libăng. Tướng Sharôn mạnh mồm gọi ông Arafát là “kẻ
thù” và “một tên khủng bố”. Khi đó, người Pa-le-xtin cũng không chịu kém
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cạnh khi gán cho ông Sharôn cái mác “thằng điên” và “con quái vật”. Rồi từ đó
có chuyện ông Sharôn công khai bày tỏ sự luyến tiếc vì đã không giết chết Chủ
tịch Arafát. (báo điện tử).
Báo "Nhân dân" số 16647 ra ngày 11.2.2001 trong bài “Hoà bình ở Trung
đông – Bài toán khó giải” có đăng tin của Đài truyền hình Pháp TFI cho rằng: “
quan điểm cứng rắn của Thủ tướng trúng cử Sharon là “hồi chuông báo tử” của
hiệp định hoà bình Ô-xlô ký năm 1993.”
Đúng như vậy, trong bài diễn văn của mình sau khi đắc cử, ông Sharon đã
cam kết rằng Chính phủ của ông “sẽ làm hết sức mình vì một Giê-ru-xa-lem hợp
nhất với tư cách là thủ đô vĩnh cửu của người Do Thái”. Nhiều nhà quan sát cho
rằng, có lẽ những biện pháp chính sách của A. Sharon được ông thực hiện mới
thể hiện đúng bản chất con người A. Sharon. Nhìn lại toàn bộ những gì Chính
phủ của ông Sharon đã làm kể từ khi lên nắm quyền đến nay, ngưởi ta sẽ thấy
thực chất mục tiêu mà ông Sharon theo đuổi không phải là một nền hoà bình lâu
bền giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, không phải thúc đẩy nhanh tiến trình hoà bình
với Pa-le-xtin mà đã đước những người tiền nhiệm theo đuổi, cũng chẳng phải
từng bước xích lại gần các nước A-rập, mà là một chủ tâm hoàn toàn khác. Có
lẽ Mỹ là nước duy nhất mà ông Sharon lưu ý đến trong chính sách bạo lực của
mình và ông này đã lợi dụng triệt để chính sách “chống khủng bố bằng mọi giá”
của chính quyền Bush để thực hiện ý đồ của mình: “Chúng tôi rất chú ý tới phát
biểu của Tổng thống Bush về việc ngăn chặn các phần tử khủng bố. Chúng tôi
hoan nghênh chuyến công du của ngoại trưởng Mỹ C.Powell và sẽ làm tất cả
những gì để giúp cho sứ mệnh của ông Powell được hoàn thành”. Ý đồ đó là
việc thủ tiêu chính quyền tự trị Pa-le-xtin và bằng cách đó hạ bệ tổng thống Y.
A rafát, thực ra vẫn là “ý đồ mà ông Sharon đã theo đuổi nhưng thất bại hồi chỉ
huy tấn công xâm lược miền nam Libăng. Viện vào lý do “bảo đảm an ninh” cho
người I-xra-en, ông Sharon đã trì hoãn tiến trình hoà bình Ô-xlô, công khai kêu
gọi “trục xuất” ông Arafat ra khỏi Pa-le-xtin. Giờ đây an ninh của người I-xra-
en cũng không được cải thiện thêm chút nào nếu không muốn nói là tồi tệ hơn
trước vì sự thù hận của người Pa-le-xtin đã dâng lên đỉnh điểm. Thông qua việc
12