Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ứng dụng kỹ thuật thu trữ nước trong phòng chống hạn hán và sa mạc hóa vùng đất cát 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.34 KB, 5 trang )

Ứng dụng kỹ thuật thu trữ nước trong phòng chống
hạn hán và sa mạc hóa vùng đất cát
2
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về hạn hán và sa mạc hoá đã được triển khai trong 10
năm trở lại đây, chủ yếu tập trung vào 2 vấn đề chính: (i) Các nghiên cứu cơ bản
về hạn hán, hoang mạc hóa – sa mạc hóa và tác động tới dân sinh, kinh tế, xã hội
và (ii) Các giải pháp, phòng chống và giảm nhẹ hạn hán bao gồm các giải pháp
công trình (chủ yếu tập trung vào công trình thuỷ lợi) và phi công trình (nghiên
cứu xây dùng các hệ thống dự báo, cảnh báo sớm, các giải pháp về thể chế chính
sách giảm nhẹ hạn hán, sử dụng tài nguyên nước hiệu quả ). Dựa trên các kết quả
nghiên cứu, một số mô hình và biện pháp phòng chống sa mạc hoá sau đây đã
được áp dụng thử nghiệm:
Mô hình kết hợp cây lâm nghiệp cây nông nghiệp cho cụm gia đình: Cây lâm
nghiệp (keo lá tràm, bạch đàn, muồng đen, phi lao) được trồng hỗn giao, theo hàng
hoặc theo băng hai hàng ; cây nông nghiệp (đậu, lạc, dưa hấu lấy hạt, cà chua,
ớt ) được trồng ở khoảng giữa các đai được trồng cây nông nghiệp. Mô hình này
có tác dụng chống cát bay, hạn chế bốc hơi, cải thiện độ ẩm đất, tuy nhiên, khó áp
dụng tại những nơi có điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt.
Mô hình trồng cây chắn gió: đây là mô hình trồng cây lâm nghiệp (keo lá tràm, phi
lao, xoan chịu hạn) quy mô lớn tạo thành các băng rừng chắn gió, bảo vệ đất nông
nghiệp và các khu dân cư khỏi sự xâm lấn của cát di động.
Mô hình đào ao kết hợp canh tác nông lâm kết hợp: được thực hiện tại những nơi
điều kiện nguồn nước cho phép, ao có thể trữ nước mưa hoặc thu nước ngầm, cây
lâm nghiệp được trồng tại các hướng gió chính để ngăn gió và cát di động, phía
sau trồng các loại cây ăn quả và cây nông nghiệp ngắn ngày.
Một số biện pháp bảo vệ đất và nước: phủ gốc chống bốc hơi, dùng chế phẩm giữ
ẩm
Có thể nhận xét rằng cho đến nay, đã có một số đề tài, dự án được tiến hành nhằm
phục hồi hệ sinh thái hoặc giảm bớt những tác động tiêu cực của quá trình hạn hán
và sa mạc hóa cho vùng đất cát ven biển Nam Trung Bộ. Một loạt đề tài nghiên
cứu cấp Nhà nước đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng hạn hán và hoang mạc hoá


và đề xuất các giải pháp phòng chống. Các đề tài này đã tạo ra được một cơ sở
khoa học quý giá cho việc phòng chống hạn hán và sa mạc hoá và đề xuất các
phương hướng nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của các đề
tài này rất rộng nên các giải pháp đưa ra chưa có điều kiện cụ thể hoá và triển khai
và thử nghiệm tại thực tế. Ngoài ra, cũng đã có một số đề tài nghiên cứu và dự án
thử nghiệm khác được triển khai nhưng hầu hết chỉ tập trung vào giải pháp nông -
lâm kết hợp, do đó, chỉ có thể áp dụng được tại những khu vực tương đối thuận lợi
về nguồn nước hoặc những vùng đất cát có độ ẩm tương đối cao. Đối với phần lớn
diện tích đất cát ven biển Nam Trung Bộ - một vùng được xếp vào loại khô hạn
nhất Việt Nam với nguồn nước - kể cả nước mặt và nước ngầm hết sức khan hiếm,
thì việc áp dụng rộng rãi các biện pháp trên rất khó khăn.
III. Cơ sở khoa học của biện pháp thu trữ nước phòng chống sa mạc hóa

Việc kết hợp các biện pháp nông - lâm nghiệp với các kỹ thuật thu trữ nước để
phòng chống sa mạc hoá tại các vùng đất cát được nhiều nước nghiên cứu và ứng
dụng, đặc biệt là tại những nơi có lượng mưa thấp. Ben Asher (1988) đã tổng kết
các kinh nghiệm trữ nước tại Israel trong khuôn khổ công trình nghiên cứu thu trữ
nước tại vùng tiểu xa mạc Sahara của Ngân hàng Thế giới. Công trình nghiên cứu
của họ tập trung vào các vấn đề sau: (i) Thí ngiệm phương pháp kỹ thuật thu trữ
nước, đặc biệt là đối với lưu vực nhỏ ; (ii) Nghiên cứu và lập mô hình hoạt động
dòng chảy mặt; (iii) Phân tích tính kinh tế của các kỹ thuật thu trữ nước. Một dự
án dài hạn với mục tiêu phát triển mô hình rừng xen canh nông lâm nghiệp với
việc thu trữ nước đã được thực hiện Tại trang trại Wadi Mashash (Zohar et al.
1987, Lovenstein 1994). Tại vùng nhiệt đới châu Á, đặc biệt là vùng phía nam Ấn
Độ và Sri Lanka, rất nhiều dự án về thu trữ nước và các chương trình liên quan đã
được hiện. Đập đất và các hố rỗng đã được sử dụng hàng ngàn năm nay để giữ
nước trong suốt mùa mưa. Các bể chứa nước này cho phép nông dân canh tác tưới
tiêu vụ thứ 2 vào mùa khô. Các bể này được đặt một cách ngẫu nhiên vì vậy rất dễ
lấy nước. Vào những năm 1980, tổ chức ICRISAT đã phát triển một hệ thống
mương trồng cỏ và mương đáy rộng để thu trữ nước trong mùa mưa và dùng để

tưới trong mùa khô. Kết quả nghiên cứu cho thấy diện tích trồng trọt tăng 2 đến 5
lần. Tại Ai Cập, các bờ đắp đá, các bể chứa nước đã được sử dụng để phục vụ cho
nhu cầu cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi gia súc cũng như cho tưới tiêu. Số lượng
các bể chứa tăng từ gần 3000 bể vào năm 1960 lên tới 15.00 bể vào năm 1993 với
tổng trữ lượng khoảng 4 triệu m3. Năm 1984, một dự án thu trữ nước do Oxfam
tài trợ đã được thực hiện tại Quận Turkana của Kenya. Thành công của dự án này
là đã phát triển được các hệ thống thu trữ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng
như phát triển đàn gia súc (Critchley et al. 1992a). Mamdouh Nasr (1999) đánh giá
hiệu quả của các giải pháp thu trữ nước nhằm phục hồi sinh thái và phòng chống
sa mạc hóa tại Trung Đông và Bắc Phi. Kết quả cho thấy việc kết hợp các biện
pháp thu trữ nước và bảo vệ đất có hiệu quả rất lớn đến phòng chống sa mạc hóa
và phục hồi sinh thái tại vùng này. Tại những khu vực khảo sát, biện pháp thu trữ
nước làm tăng trung bình 15% diện tích gieo cấy.
Các tỉnh vùng cát ven biển Nam Trung Bộ từ đèo Hải Vân trở vào bao gồm Quảng
Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Hệ sinh thái
vùng cát bao gồm các cồn cát, bãi cát di động, bãi thấp, bãi cao, hồ, bàu. Thực vật
vùng cát bao gồm các cây tự nhiên và cây trồng có đặc tính chung là chịu hạn,
chịu gió cát ven biển, sống trong điều kiện nghèo chất dinh dưỡng, nhiệt độ cao.
Ngoài tính thích nghi cao của các loại cây tự nhiên, cây trồng nhân tạo cũng được
nhân dân lựa chọn, lai tạo để thu được một tập đoàn thích nghi với vùng cát. Cây
lâm nghiệp chủ yếu là phi lao, bạch đàn, keo tai tượng, tràm bông vàng chủ yếu để
chắn gió, chắn cát bay, cát lấn, ngoài ra có thể thu hoạch lấy gỗ hoặc làm nguyên
liệu cho các ngành khác. Cây công nghiệp chủ yếu là cây ngắn ngày như lạc, vùng,
dưa lấy hạt, các loại cây họ đậu. Cây ăn quả tương đối phong phú gồm đào lộn
hột, dừa, chanh, bưởi, xoài, dưa hấu, mãng cầu xiêm, đu đủ, dứa Đặc biệt ở tỉnh
Ninh Thuận có cây nho và tỉnh Bình Thuận có cây Thanh Long là cây trồng mang
lại hiệu quả kinh tế lớn. Cây lương thực chủ yếu là khoai lang và lúa chủ yếu
được trồng trên nên đất phù sa bồi trên nền cát.
Lợi ích của các hệ thống thu trữ nước đã được FAO tổng kết là: làm tăng sản
lượng cây trồng và giảm nguy cơ mất mùa, cải thiện an ninh lương thực, bảo vệ

đất chống xói mòn, sử dụng nguồn nước tự nhiên một cách tốt nhất, đẩy mạnh việc
tái trồng rừng và góp phần cải thiện chế độ thuỷ văn lưu vực (giảm lưu lượng đỉnh
lũ, tăng dòng chảy mùa kiệt, tăng trữ lượng nước ngầm). Tại vùng đất cát ven biển
Nam Trung Bộ, lượng mưa hàng năm nhỏ, nguồn nước khan hiếm, công trình thuỷ
lợi không với tới được nên việc áp dụng các biện pháp thu trữ nước là giải pháp
hiệu quả nhất để cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt, làm tiền đề để triển khai các
biện pháp phòng chống sa mạc hoá khác như các biện pháp nông nghiệp, lâm
nghiệp hay nông lâm kết hợp.

×